Nghiên cứu vấn đề ruộng đất là chiếc chìa khoá để mở cánh cửa phương Đông, và Việt Nam là một bộ phận của vùng đất phương Đông rộng lớn đó. Thông qua chính sách ruộng đất của các triều đại sẽ cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam, từ khi hình thành Nhà nước đầu tiên (Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc) cho đến khi chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ (vào nửa đầu thế kỷ XIX) và cho đến tận ngày nay, khi nền kinh tế nông nghiệp vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Chính sách ruộng đất sẽ góp phần, phản ánh tình hình kinh tế xã hội của nước ta qua các triều đại khác nhau, từ đời sống của nhân dân cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến, cho đến tình hình văn hoá xã hội diễn ra và biến đổi như thế nào. Sở dĩ ruộng đất có tầm quan trọng đặc biệt như vậy là vì Việt Nam và các quốc gia có chung điều kiện về vị trí và điều kiện tự nhiên tức là cùng chịu sự chi phối chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển, nền tảng hình thành Nhà nước và nền kinh tế của đất nước chính là dựa trên cơ sở của sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp với cây lúa nước là chính. Tất nhiên, trong giai đoạn hiện nay từ sau khi nước ta tiến hành thực hiện chính sách đổi mới, đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh việc ưu tiên cho phát triển công nghiệp và dịch vụ để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, vì vai trò và vị trí của nền kinh tế công nghiệp, trong đó có các chính sách về ruộng đất luôn giữ vững vị trí của mình trong suốt quá trình đó.
47 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 5435 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình kinh tế - Xã hội của nước ta dưới thời Lê Sơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghiên cứu vấn đề ruộng đất là chiếc chìa khoá để mở cánh cửa phương Đông, và Việt Nam là một bộ phận của vùng đất phương Đông rộng lớn đó. Thông qua chính sách ruộng đất của các triều đại sẽ cho chúng ta một bức tranh toàn cảnh về xã hội Việt Nam, từ khi hình thành Nhà nước đầu tiên (Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc) cho đến khi chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ (vào nửa đầu thế kỷ XIX) và cho đến tận ngày nay, khi nền kinh tế nông nghiệp vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Chính sách ruộng đất sẽ góp phần, phản ánh tình hình kinh tế xã hội của nước ta qua các triều đại khác nhau, từ đời sống của nhân dân cũng như của giai cấp địa chủ phong kiến, cho đến tình hình văn hoá xã hội diễn ra và biến đổi như thế nào. Sở dĩ ruộng đất có tầm quan trọng đặc biệt như vậy là vì Việt Nam và các quốc gia có chung điều kiện về vị trí và điều kiện tự nhiên tức là cùng chịu sự chi phối chung của vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển, nền tảng hình thành Nhà nước và nền kinh tế của đất nước chính là dựa trên cơ sở của sự phát triển nền kinh tế nông nghiệp với cây lúa nước là chính. Tất nhiên, trong giai đoạn hiện nay từ sau khi nước ta tiến hành thực hiện chính sách đổi mới, đưa đất nước phát triển theo con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh việc ưu tiên cho phát triển công nghiệp và dịch vụ để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, vì vai trò và vị trí của nền kinh tế công nghiệp, trong đó có các chính sách về ruộng đất luôn giữ vững vị trí của mình trong suốt quá trình đó.
Nghiên cứu về ruộng đất là một vấn đề vô cùng to lớn, do vậy với khả năng còn hạn chế của mình tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nghiên cứu chính sách ruộng đất dưới thời Lê Sơ (1428-1527). Có thể nói Lê Sơ là một trong những triều đại phong kiến khá phát triển thịnh đạt ở nước ta, dưới sự trị vì của các vị vua thời Lê Sơ, Đại Việt đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ về mọi mặt (chính trị, kinh tế - xã hội). Thông qua chính sách ruộng đất dưới triều đại này sẽ là một minh chứng cụ thể, sắc nét phản ánh tình hình kinh tế - xã hội, vai trò của Nhà nước đối với nông dân, đồng thời cũng cho thấy bản chất bóc lột mang tính triệt để của giai cấp phong kiến và sự bần cùng hoá của người nông dân. Đó là toàn bộ nội dung mà tôi muốn đề cập đến trong bài viết này. Song với trình độ còn hạn chế bài viết sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài viết đạt được kết quả tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Bố cục của bài viết được chia làm 4 phần:
Phần I: Tình hình kinh tế - xã hội của nước ta dưới thời Lê Sơ
Phần II: Chính sách ruộng đất của nhà Lê Sơ
Phần III: Vai trò và tác dụng của chính sách ruộng đất nhà Lê Sơ
Phần IV: Kết luận chungPHẦN I
TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XV
Xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV lâm vào cuộc khủng hoảng sâu sắc: chính quyền suy yếu, bọn nịnh thần chuyên quyền, dòng họ thống trị phân tán, sa đọa, kinh tế nông nghiệp sa sút nghiêm trọng đã dẫn đến nông dân nghèo, gia nô, nô tì nổi dậy chống đối hay chạy trốn. Trong lúc đó, những cuộc tấn công đánh phá Chăm Pa lại liên tục diễn ra, dù cuối cùng bị đẩy lùi hẳn, đã làm cho cuộc sống nhân dân thêm khổ cực, triều đình thêm rối ren, tài chính thêm kiệt quệ. Bên cạnh đó Đại Việt lại đang đứng trước nguy cơ một cuộc ngoại xâm ngày càng đến gần. Bên trong khủng hoảng, giặc ngoài đe dọa, đó là những tiền đề dẫn đến cuộc cải cách của Hồ Quý Ly (1397). Đây là cuộc cải cách mang tính chất toàn diện từ chính trị đến kinh tế - tài chính, văn hóa, giáo dục, xã hội. Tuy nhiên trong hoàn cảnh rối ren đó một số việc làm của Hồ Quý Ly đã gây thêm mâu thuẫn trong nội bộ, ảnh hưởng sâu sắc tới ý thức đoàn kết thống nhất của nhân dân khi xảy ra nạn ngoại xâm. Mặc dù vậy Hồ Quý Ly được xem là người đi tiên phong trong lịch sử nước ta, ông đã đưa ra những cải cách và kiên quyết thực hiện với mong muốn cứu vãn tình thế khó khăn và phức tạp của đất nước.
Trước tình hình đó, năm 1406 nhà Minh chính thức đem quân sang xâm lược nước ta, với “binh cường, lực mạnh” nhà Minh nhanh chóng đánh bại nhà Hồ. Sau khi nhà Hồ sụp đổ, Đại Việt rơi vào ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong hai thập kỉ (1407-1427), có thể nói đây là cuộc Bắc thuộc lần thứ hai.Trong hai mươi năm đô hộ nhà Minh đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong xã hội lịch sử Đại Việt. Ngay cả trong giai đoạn sau này, khi nhà Lê khôi phục nền độc lập chính trị, nền văn hóa đó vẫn còn đọng lại, ở một mặt nào đó còn được bổ sung thêm tạo lên một sự chuyển đổi mô hình thiết chế, từ nền quân chủ Phật giáo quý tộc sang nền quân chủ Nho học giáo điều. Đây là một bước ngoặt lịch sử. Tuy nhiên, trong môi trường xã hội bị cưỡng bức và áp đặt văn hóa Trung Hoa nên cuộc đấu tranh văn hóa và chính trị của người Việt chông đô hộ không ngừng tiếp diễn. Phong trào đấu tranh chống quân Minh với hình thức phong trào quần chúng nổ ra đông đảo, rộng khắp, đã phối hợp và dọn đường cho khởi nghĩa Lam Sơn phát triển và dành được thắng lợi cuối cùng. Sau hơn mười năm (1416 – 1427) kiên trì đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và bộ chỉ huy Lam Sơn, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, đất nước trở lại thanh bình, vương triều nhà Lê ( Lê sơ) độc lập tự chủ được thiết lập. Đại Việt dưới thời Lê Sơ (1428 – 1527) đã có những chuyển biến mới với những thành tựu rực rỡ trong công cuộc khôi phục kinh tế ,ổn định xã hội và xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập tự chủ. Thời Lê Sơ được tính từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527) gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê Thánh Tông là người đưa vương triều nhà Lê đến giai đoạn thịnh nhất.
Trong khuôn khổ một quốc gia nông nghiệp với chế độ quân chủ mới dành lại chính quyền, còn rất non trẻ và thiếu kinh nghiệm xây dựng và quản lý đất nước,nhưng xã hội Đại Việt thời Lê Sơ đã có những thay đổi khá căn bản, khác về chất so với xã hội Đại Việt các thời trước đó, sự biến đổi tập trung ở ba mặt đó là: chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội.
Về chính trị: nhà nước quân chủ quan liêu đã từng bước được xây dựng thay thế nhà nước quân chủ quý tộc thân dân thời Lý, Trần. Công việc thiết yếu mà các vua thời Lê Sơ đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính chuyên chế cao độ. Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497) nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý – Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Nam Á. Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê Sơ, vai trò của nhà vua được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa “tôn quyền”. Theo đó, nhà vua là “con Trời”, người giữ mệnh trời, thay trời trị dân. Bởi vậy mọi quyền hành đều tập trung trong tay nhà vua. Vua là người đứng đầu cả nước đồng thời cũng là người được ban hành mọi chính sách, luật lệ của đất nước. Nói cách khác sự hưng thịnh và phát triển đất nước phụ thuộc phần lớn trong tay nhà vua.
Về kinh tế: Trọng nông là chính sách quan trọng hàng đầu của nhà Lê Sơ, trên thực tế trong 100 năm tồn tại của mình (đặc biệt là từ đời Lê Thánh Tông trở về trước ) chính sách trọng nông của nhà Lê Sơ đã đạt được những kết quả tốt. Chẳng vậy mà nhân dân đã ca ngợi khi nhớ đến thời này, rằng:
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Tóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn
Bên cạnh đó nhà nước quân chủ tập trung thời Lê Sơ là một nhà nước vững mạnh và ổn định. Trong sự phục hồi và phát triển kinh tế, Nhà nước đã đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu. Thời Lê Sơ nền kinh tế tiểu nông – sản xuất nhỏ làng xã được duy trì và khuyến khích, với sự bảo hộ của nhà nước. Tuy nhiên trong lĩnh vực kinh tế công thương nghiệp, Nhà nước thời Lê Sơ lại tỏ thái độ dè dặt không khuyến khích, Nhà nước tham gia vào việc nắm độc quyền giao thương với nước ngoài. Như vậy với những lời thế vượt trội của mình nền kinh tế nông nghiệp, gắn liền là vấn đề ruộng đất vẫn giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong sự phát triển đất nước thời Lê Sơ.
Về văn hóa - xã hội: Sự biến đổi về chính trị cùng với những thành tựu bước đầu đạt được trong lĩnh vực kinh tế và đặc biệt trong xã hội Lê Sơ bấy giờ vẫn còn sót lại những tàn dư của phong kiến phương Bắc, cho nên văn hóa Đại Việt thời kì này cũng có những biến đổi sâu sắc. Phật giáo và Đạo giáo thời Lý - Trần được thay bằng một hệ tư tưởng mới, giữ vai trò độc tôn trong xã hội là Nho giáo. Đây cũng chính là thời kì diễn ra sự phân dòng văn hóa, dòng văn hóa dân gian làng xã không được nhà nước khuyến khích, đã tách ra khỏi nền văn hóa cung đình. Sự phân dòng này phản ánh sự phân tầng đẳng cấp ngoài xã hội. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Đông Á nhưng trên thực tế xã hội Đại Việt thời Lê Sơ “chưa bao giờ hoàn toàn là một xã hội phong kiến Đông Á Nho giáo thuần nhất. Nó là sự hỗn dung, lai ghép mang tính đối trọng giữa một mô hình ngoại nhập và mô hình thực thể bản địa” Nguyễn Quang Ngọc (cb), “Tiến trình lịch sử Việt Nam”, Nxb Giáo Dục, tr130.
.
Như vậy, với những nét cơ bản về chính trị, kinh tế và văn hóa – xã hội của xã hội Đại Việt thời Lê Sơ đã phản ánh, thời Lê Sơ về mô hình thiết chế, hệ tư tưởng cũng như về mặt thực thể kinh tế - xã hội, những yếu tố kinh tế đã chiếm ưu thế. Chế độ phong kiến mà nhà nước quan liêu Đại Việt đã xác lập vững chắc, khoảng cách giữa danh giới và thực (giữa mô hình và thực thể) ở mức độ nhỏ nhất. Thế kỉ XV được coi là một thế kỉ cổ điển của của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình chế độ phong kiến nhà nước quan liêu, có nhiều điểm khác biệt đối sánh với một chế độ phong kiến lãnh chúa ở Tây Âu trung đại, hay chế độ phong kiến võ sĩ hoặc chế độ phong kiến tăng lữ ở một số nước khác.
Với sự tồn tại của mô hình nhà nước và những thiết chế cơ bản đó của nhà nước Lê Sơ đã không chỉ có tác động mạnh mà còn giữ vai trò chi phối trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp của đất nước mà cụ thể là những chính sách ruộng đất. Mặc dầu có sự khác nhau về mức độ nhưng từ đầu thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XV nói chung và nhà nước Lê Sơ nói riêng, chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất luôn luôn giữa địa vị thống trị. Nó là cơ sở kinh tế chủ yếu, nguồn bóc lột chủ yếu của nhà nước trung ương, cũng là cái gốc tạo nên sức mạnh và sự bề vững chính trị của nhà nước. Chính trên cơ sở thống trị của chế độ sở hữuh nhà nước về ruộng đất nhà nước trung ương đã ban hành những chính sách, biện pháp cần thiết có lợi cho sản xuất nông nghiệp.
PHẦN II
CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT CỦA NHÀ LÊ SƠ (1428 – 1527 )
Nói đến thế kỉ XV là nói đến vấn đề ruộng đất và vấn đề nông dân, điều này cho thấy nhà nước Lê sơ đã “với” bàn tay cai trị của mình tới tận các làng xã, tiến thêm một bước nữa trong chính sách cai trị của mình về ruộng đất, nhà Lê sơ đã trực tiếp can thiệp vào cách chia, hướng ruộng đất công làng xã nhằm đạt tới một sự chi phối thực tế bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu của mình. Tuy chưa thực sự đạt được những kết quả toàn diện, song dựa vào cơ sở ruộng đất của mình nhà nước trung ương Lê sơ (nói riêng ) đã nuôi sống bộ máy quan liêu ngày càng đông đảo, khống chế các làng xã ngày một chặt chẽ, thi hành chính sách ngụ binh ư nông trong quân đội. Trong hoàn cảnh có chiến tranh chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất lại là một cơ sở vật chất quan trọng để đoàn kết toàn dân đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh những chuyển biết tích cực, chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ cũng không tránh khỏi những sai lầm và hạn chế, dẫn đến những chuyển biến mang tính chất tiêu cực, điều này được thể hiện rõ trong gia đoạn sau của nhà Lê sơ, nhất là từ sau đời Lê Thánh Tông (1460 – 1479) bắt đầu có biểu hiện của sự suy thoái, nhà vua tỏ ra ít quan tâm đến vấn đề triều chính mà chủ yếu tập trung vào các thú vui hưởng lạc, vấn đề ruộng đất bị bỏ bê, đời sống nhân dân cực khổ. Phải chăng đây chính là hệ quả của nền quân chủ quan liêu, quyền lực tối cao tập trung trong tay nhà vua, với sự phân hóa diễn ra khá xâu sắc trong xã hội, bởi vậy sự sụp đổ của một triều đại vào đầu thế kỉ XVI (1527) là một tất yếu phải xảy ra. Như vậy trên thực tế chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ được ban bố sửa đổi và mở rộng chủ yếu tập trung trong gia đoạn đầu (Lê Thánh Tông trở về trước đây là giai đoạn đạt được nhiều thành tựu lớn trong các lĩnh vực khác nữa, về chính trị, kinh tế và văn hóa xã hội đều đạt được những thành tựu đáng kể. Song điều đó không có nghĩa là các vị vua trong giai đoạn sau của nhà Lê sơ hoang toàn không quan tâm đến tình hình ruộng đất của đất nước, về cơ bản họ vẫn tiếp tục duy trì những chính sách đã được ban bố trong các thời đại trước, chứ không chú ý sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, bởi lẽ các chính sách đó không phải lúc nào cũng đúng vào có thể áp dụng được trong mọi thời kì, mọi giai đoạn, phải chăng đây cũng là một nhân tố dẫn đến sự sụp đổ của nhà Lê sơ.
Chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ được ban bố như thế nào? Sự kế thừa và ban bố những chính sách mới trong thời kỳ này ra sao? Và những chuyển biết tích cực cũng như tiêu cực của đất nước thông qua việc thực hiện ruộng đất này ra sao? Trả lời những câu hỏi này cũng chính là nội dung chính mà bài viết này phải làm sáng tỏ. Chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ (1428 – 1527) diễn ra như sau:
I - Chính sách của nhà Lê sơ đối với bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu trực tiếp của nhà nước
Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn còn đang trong giai đoạn chiến đấu ác liệt với phần thắng lợi nghiêng về phía quân dân nhà Lê thì Lê Lợi đã ra lệnh thu thuế ruộng đất công để tích trữ vào các kho và kê gọi nhân dân phiêu tán trở về quê quán nhận lại ruộng cày cấy và dựng lại làng xóm. Người còn ra lệnh tịch thu tài sản, ruộng đất của bọ ngụy quan và những kẻ chạy theo giặc. Những chính sách ban đầu này của Lê Lợi thể hiện tầm nhìn xa trông rộng và sự quan tâm đến đời sông dân chúng của một vị lãnh tụ tài ba. Chính vì vậy, ngay sau khi dành lại được chính quyền và lên ngôi làm vua Lê Thái Tổ (1428 – 1433) đã thi hành hàng loạt chính sách nhằm tập trung lại toàn bộ số ruộng đất cỏ trong cả nước để phân chia và ban bố lại một cách hợp lí. Mùa thu năm 1428 vua Lê ra lệnh cho các địa phương thống kê tổng số ruộng đất “của các quan ty ngạch cũ, của các thế gia triều trước của những người tuyệt tự, cùng ruộng đất và sản vật từng mùa của các ngụy quan của lính trốn…” Đại Việt sử kí toàn thư. Nxb KHXH, Hà Nội 1998, tập 2, tr296
. Đến cuối năm đó nhà Lê sơ lại hạ lệnh cho các phủ huyện khám xét kiểm tra ruộng đất: “chỉ thị cho các phủ, huyện, trấn, lộ khám xét các bãi ruộng đất… cùng ruộng đất đã xung công của các thế gia và những người tuyệt tự và ruộng đất của những người đào ngũ” Đại Việt sử kí toàn thư. Nxb KHXH, Hà Nội 1998, tập 2, tr297
và tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn quan lại nhà Minh, bọn quan lại theo giặc, cùng với ruộng đất của các quý tộc Trần và toàn bộ số ruộng đất bị hoang hóa, ruộng của đền chùa đều được xung làm ruộng công. Lê Thái Tổ còn hạ lệnh cho cả nước làm sổ ruộng, sổ đinh trên cơ sở đó nhà nước chủ động phân phối, ruộng đất được phân chia làm ba:
Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
Ruộng đất công làng xã
Ruộng đất tư hữu
II - Chính sách của nhà Lê sơ đối với ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước
Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước bao gồm tất cả các loại ruộng đất tịch thu được của chính quyền đô hộ và bọn ngụy quan, ruộng đất không chủ đều thuộc sở hữu của nhà nước. Tuy không có số liệu thống kê cụ thể về diện tích ruộng đất của nhà Lê sơ nhưng căn cứ vào chế độ phong cấp ruộng đất cho quan lại (sẽ được trình bày ở phần sau) ta có thể biết là số ruộng công chiếm một số diện tích khá lớnso với diện tích toàn quốc. Theo Nguyễn Khắc Đạm trong bài “ Góp mấy ý kiến về vấn đề ruộng tư trong lịch sử Việt nam” (tạp chí NCLS tháng 5/1964, tr31) có viết: “…diện tích ruộng tưthời Lê sơ phải rất nhỏ, nhỏ hơn thời cuối Trần, trước khi xảy ra phép hạn điền nhiều và cũng vì thế nên nhà Lê mới không đánh thuế ruộng tư. Nếu ruộng tư thời Lê sơ lớn hơn ruộng công mà nhà nước vẫn miễn thuế ruộng tư, thì thử hỏi, nó sẽ lấy tiền đâu ra để chí phí?”. Như vậy, ruộng thuộc quyền sở hữu nhà nước Lê sơ là rất lớn, nắm trong tay số ruộng đất này nhà Lê sơ đã nuôi sống bộ máy quan lại đồ sộ mà không phải dựa vào việc thu thuế ruộng đất tư.. Nhà Lê đã khẳng định quyền sở hữu tối cao của mình với lãnh thổ quốc gia. Đầu năm 1429nhà Lê đã nắm trong tay một số ruộng đất lớn trong nước, cùng với số đinh ghi được là 700 suất, tổng diện tích ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước ddã tăng lên và chắc chắn đã chiếm ưu thế trong tổng diện tích của cả nước.Nhà nước trung ương có điều kiện thuận lợi thi hành một số chính sách cần thiết, phù hợp với lợi ích của gia cấp mình, để giải quyết các vấn đề do lịch sử đặt ra..Với số lượng rất lớn đó nhà Lê sơ đã sủ dụng dưới các hình thức sau:
Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí, (ruộng quốc khố)
Ruộng cấp cho công thần, quan lại (tùy theo chức tước mà phân cấp cụ thể)
Ruộng đồn điền
Cụ thể như sau:
1.1. Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lí, (ruộng quốc khố)
Ở đây cái gọi là ruộng quốc khốphải bao gồm cả ruộng công đo nhà nước quản lí (vd: loại ruộng ở Tảo xã dành cho tù phạm bị đầy đến đây làm) và loại ruộng công đem chia cho nông dân ở các thôn xã. Nói cách khác, đây là loại ruộng được cấp cho các cơ quan địa phương hay trung ương, phát canh cho nông dân hoặc giao cho những người bị đội đồ cày cấy, do nhà nước trược tiếp quản lí sản xuất, thu hoạch đưa vào kho công. Không có tài liệu lịch sử nào về thời Lê mà ghi chép cách tổ chức quản lí và phương thức tổ chức sản xuấttrong ruộng quốc khố cụ thể diễn ra như thế nào, nhưng với sụu tồn tại lâu dài của ruộng quốc khố trong thời Lý – Trần về trước, ruộng quốc khố thường lập thành các quan trang, quan trại do nông nô, nô tỳ của nhà nước cày cấy. Đế thời Lê sơ chế đô nông nô, nô tỳ đã tan rã về cơ bản, thì chắc hẳn ruộng quốc khố lúc này không còn tổ chức thành quan trang, quan trại do quan nô cày cấy như thời Lý – Trần nữa. Bởi vậy ruộng quốc khố thời Lê sơ phần nhiều là được giao cho nông dân cày cấy nộp tô cho nhà nước theo chế độ phát canh thu tô. Mặc dù số ruộng công là rất lớn, song nhà Lê sơ lại đáng thuế khá cao loại ruộng này, gấp 6 – 8 lần so với ruộng thác đao và ruộng tư. Sở dĩ như vậy là do: ruộng thác đao là ruộng công đem phân cấp, đánh thuế nhẹ vào ruộng thác đao là để cho kẻ được phong cấp còn được thu tô mà chi dùng. Có thể ruộng quốc khố có thể cao hơn 6 – 8 lần thuế ruộng tư là vì ruộng tư chủ yếu là ruộng của giai cấp phong kiến địa chủ nên triều đình cũng đánh nhẹ để chúng còn thu tô. Với biện pháp đó, nhà nước phong kiến đã có một cách hiệu quả để mua chuộc giai cấp địa chủ phong kiến. Nghiên cứu tổng quát chế độ thuế ruộng tại các thời kì trong lịch sử Việt Nam, có thể nhà nước phong kiến chỉ không thu thuế ruộng tư nhẹ hơn ruộng công trong chừng mực chế độ thu thuế đó không có ảnh hưởng gì mấy đến ngân quỹ nhà nước, có nghĩa là nhà nước phong kiến chỉ áp dụng chính sách đó khi tổng số ruộng tư không lớn. Như vậy có thể thấy rằng vào đầu thế kỉ XV quyền sở hữu tối cao của nhà nước về ruộng đất được xác lập hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước chính thức tuyên bố quyền lực đó và hàng loạt các điều luật cấm biến ruộng công thành ruộng tư. Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà nước còn là đặc trưng của xã hội phương Đông nói chung. Bên cạnh quyền quản lí về lãnh thổ quốc gia, nhà nước trung ương luôn chú trọng xác lập quyền sở hữu tối cao của mình tới toàn bộ đất đai. Điều đó phản ánh ý nguyện muốn thâu tóm mọi quyền lợi vào trong tay người cầm quyền. nhà nước là nhân tố cơ bản trong việc trợ giúp công cuộc khai phá ruộng đất và tổ chức quản lý xây dựng các công trình thủy lợi, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiến hành canh tác. Vì vậy trên mỗi thửa ruộng mà người nông dân cày cấy đều hàm chứa một phần công sức của nhà nước, thể hiện vai trò to lớn trong các chính sách về ruộng đất. Một tr