Mục tiêu: Xác định tình trạng sức khỏe răng miệng và mối liên quan giữa tình trạng này với cảm nhận đối
với chất lượng cuộc sống của sinh viên Đại học Sài Gòn năm 2011.
Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang, mẫu nghiên cứu gồm toàn bộ sinh viên
năm thứ nhất năm học 2010-2011 trường Đại học Sài Gòn, tuổi từ 17 đến 26 tuổi (n=3575). Tất cả sinh viên
được khám lâm sàng răng để xác định trung bình SMT-R và tình trạng nha chu. Bảng câu hỏi “Tác động của sức
khỏe răng miệng lên cuốc sống hàng ngày” (OIDP) phiên bản tiếng Việt được sử dụng để đánh giá tác động của
bệnh răng miệng đến sinh hoạt hàng ngày của sinh viên và được thu thập bằng phương pháp tự điền. Test chi
bình phương dùng đánh giá mối liên quan tình trạng sức khỏe răng miệng và chỉ số OIDP; phương pháp hồi qui
đơn biến và đa biến được sử dụng để xây dựng mô hình các yếu tố tiên đoán chỉ số OIDP.
Kết quả: Tình trạng sâu răng của đối tượng sinh viên Đại học Sài Gòn ở mức độ trung bình theo phân loại
của WHO (71,9%). Vấn đề vôi răng và chảy máu nướu là vấn đề nha chu phổ biến nhất ở sinh viên lứa tuổi này.
Các kết quả cũng cho thấy rằng yếu tố lâm sàng (mất răng và vấn đề về mô nha chu) và cảm nhận của sinh viên
(sự hài lòng vẻ bề ngoài của hàm răng và cảm nhận về SKRM) là các yếu tố dự báo về tác động đến 8 sinh hoạt
hàng ngày của sinh viên theo trình tự là ăn nhai, giao tiếp xã hội, vệ sinh răng miệng, tinh thần, cười thoải mái,
nói chuyện (phát âm), học tập hay làm việc và nghỉ ngơi.
Kết luận: Yếu tố mất răng và nha chu là 2 yếu tố có ý nghĩa kết hợp đến CLCS của sinh viên, vì thế các
chương trình can thiệp nên hướng đến dự phòng và điều trị bảo tồn răng
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tình trạng sức khỏe răng miệng và mối liên quan với chất lượng cuộc sống của sinh viên Đại học Sài Gòn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 24
TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE RĂNG MIỆNG VÀ MỐI LIÊN QUAN
VỚI CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC SÀI GÒN
Trịnh Thị Tố Quyên*, Ngô Thị Quỳnh Lan**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tình trạng sức khỏe răng miệng và mối liên quan giữa tình trạng này với cảm nhận đối
với chất lượng cuộc sống của sinh viên Đại học Sài Gòn năm 2011.
Phương pháp: nghiên cứu dịch tễ sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang, mẫu nghiên cứu gồm toàn bộ sinh viên
năm thứ nhất năm học 2010-2011 trường Đại học Sài Gòn, tuổi từ 17 đến 26 tuổi (n=3575). Tất cả sinh viên
được khám lâm sàng răng để xác định trung bình SMT-R và tình trạng nha chu. Bảng câu hỏi “Tác động của sức
khỏe răng miệng lên cuốc sống hàng ngày” (OIDP) phiên bản tiếng Việt được sử dụng để đánh giá tác động của
bệnh răng miệng đến sinh hoạt hàng ngày của sinh viên và được thu thập bằng phương pháp tự điền. Test chi
bình phương dùng đánh giá mối liên quan tình trạng sức khỏe răng miệng và chỉ số OIDP; phương pháp hồi qui
đơn biến và đa biến được sử dụng để xây dựng mô hình các yếu tố tiên đoán chỉ số OIDP.
Kết quả: Tình trạng sâu răng của đối tượng sinh viên Đại học Sài Gòn ở mức độ trung bình theo phân loại
của WHO (71,9%). Vấn đề vôi răng và chảy máu nướu là vấn đề nha chu phổ biến nhất ở sinh viên lứa tuổi này.
Các kết quả cũng cho thấy rằng yếu tố lâm sàng (mất răng và vấn đề về mô nha chu) và cảm nhận của sinh viên
(sự hài lòng vẻ bề ngoài của hàm răng và cảm nhận về SKRM) là các yếu tố dự báo về tác động đến 8 sinh hoạt
hàng ngày của sinh viên theo trình tự là ăn nhai, giao tiếp xã hội, vệ sinh răng miệng, tinh thần, cười thoải mái,
nói chuyện (phát âm), học tập hay làm việc và nghỉ ngơi.
Kết luận: Yếu tố mất răng và nha chu là 2 yếu tố có ý nghĩa kết hợp đến CLCS của sinh viên, vì thế các
chương trình can thiệp nên hướng đến dự phòng và điều trị bảo tồn răng.
Từ khóa : Sức khỏe răng miệng, chất lượng cuộc sống, sinh viên Đại Học Sài Gòn
ABSTRACT
ORAL HEALTH STATUS AND RELATIONSHIP BETWEEN THIS STATUS AND
PERCEPTIONS ON QUALITY OF LIFE OF STUDENTS OF THE UNIVERSITY OF SAIGON
Trinh Thi To Quyen, Ngo Thi Quynh Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 24-32
Objective: The study is to examine oral health status and relationship between this status and
perceptions on quality of life among students of the University of Saigon.
Methods: A cross-sectional study was carried out in 2011 among the first year students of the university of
Sài Gòn, aged from 17 to 26 (n=3575). All students were examinated clinically to identify the mean of DMFT and
periodontal status. The Vietnamese version of oral impacts on daily performance (OIDP) inventory was used to
assess impacts of odonto health status on daily living activities among students using self- administrative method.
Descriptive statistics was used to describe oral health status and the relationship between this status and the Oral
Impacts on Daily Performances (OIDP) index indice was tested using chi-squared test (p<0,05). In addition,
univariate multivariate logistics was also used for modelling predictors of OIDP indice.
* Đại Học Sài Gòn ** Khoa RHM, Đại Học Y Dược TPHCM
Tác giả liên lạc: PGS. Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864 Email: ngothiquynhlan@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 25
Results: Oral health status among students of the University of Saigon was moderate level based on the
classification of WHO (71.9%). Bleeding and calculus are popular problems among students. Findings also
showed that clinical factors (satisfaction with dental appearance and odonto-oral health status) were predictors
about impacts on 8 daily living activities of students including chewing, social communication, oral hygiene,
mood, smiling, speaking (pronunciation), studying or working and relaxing.
Conclusion: Because loss of teeth and periodontal problems are two significant predictors associated with
quality of life among students, intervention programs should be oriented to prevention and dental conservation.
Key words: Oral health, quality of life, students of the University of Saigon
MỞ ĐẦU
Mặc dù những vấn đề về sức khoẻ răng
miệng (SKRM) của người dân trên toàn cầu
đã có nhiều cải thiện trong vài thập kỷ qua,
nhưng bệnh răng miệng vẫn còn phổ biến ở
nhiều cộng đồng trên thế giới - đặc biệt trong
dân số có thu nhập thấp ở các nước phát
triển và đang phát triển. Các vấn đề SKRM
không được xem là nghiêm trọng so với các
bệnh khác nhưng rất liên quan đến tâm lý, kinh
tế, xã hội, và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc
sống (CLCS) của bệnh nhân. Các bệnh răng
miệng có thể gây đau đớn, khó chịu, ăn uống
khó khăn, ăn mất ngon, ảnh hưởng tới sức khỏe
chung, làm giảm khả năng học tập, năng suất lao
động, giảm tự tin khi giao tiếp và CLCS cũng bị
suy giảm. Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện nay về
SKRM liên quan đến CLCS cho mỗi lứa tuổi rất
hạn chế, hầu như chưa có số liệu đầy đủ về tình
trạng SKRM của lứa tuổi thanh niên, đặc biệt là
nhóm đối tượng sinh viên các trường cao
đẳng, đại học tại Việt Nam.Kết quả khám
SKRM cho sinh viên năm thứ nhất năm học
2009-2010 cho thấy 25% sinh viên có sức nhai
thấp hơn 90%(8), còn những yếu tố quan trọng
khác của SKRM chưa được đánh giá. Trong khi
đó, những vấn đề về răng miệng có thể ảnh
hưởng đến sức khỏe chung cũng như khả năng
học tập, làm việc hàng ngày và CLCS của sinh
viên. Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là: (1)
Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình Sâu Mất
Trám về tình trạng bệnh sâu răng, (2) Xác định tỉ
lệ hiện mắc và số trung bình sextant có vấn đề về
nha chu theo CPI và (3) Xác định mối liên quan
giữa tình trạng sức khỏe răng miệng và cảm
nhận đối với chất lượng cuộc sống của sinh viên
Đại học Sài Gòn năm 2011.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên toàn bộ
sinh viên năm thứ nhất năm học 2010-2011
trường Đại học Sài Gòn (N=3.575), tuổi từ 17
đến 26 tuổi. Các sinh viên tham gia nghiên
cứu đều ký tên vào phiếu chấp thuận tham gia
nghiên cứu. Để đánh giá tình trạng bệnh sâu
răng: Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình
Sâu Mất Trám. Để đánh giá vấn đề về nha chu:
Xác định tỉ lệ hiện mắc và số trung bình
sextant theo CPI. Chỉ số đo lường tác động
răng miệng lên các sinh hoạt hàng ngày (chỉ số
OIDP) được sử dụng là một trong những chỉ
số mới về đo lường SKRM xã hội. Chỉ số OIDP
là chỉ số đo lường SKRM liên quan CLCS
được sử dụng phổ biến để đánh giá tác động
của bệnh răng miệng đến sinh hoạt hàng ngày
và trong sử dụng đánh giá kết quả kế hoạch
điều trị trong cộng đồng. Bản câu hỏi phỏng
vấn tự điền về tác động răng miệng lên các
sinh hoạt hàng ngày được chuyển ngữ từ bản
gốc tiếng Anh với tham vấn ý kiến nhà chuyên
môn và chỉnh sửa. Bản câu hỏi được điều tra
thăm dò trên mẫu thuận tiện, gồm 20 sinh
viên đang học tại trường Đại học Sài Gòn, sau
đó sửa đổi bảng câu hỏi cho dễ hiểu hơn. Bảng
câu hỏi gồm 8 hoạt động (ăn, nhai, nói, vệ sinh
răng miệng, nghỉ ngơi, sự thoải mái về tinh
thần, cười thoải mái, làm việc và tiếp xúc với
mọi người) để đánh giá tác động của SKRM
trong sinh hoạt hàng ngày trong 6 tháng vừa
qua tính đến thời điểm phỏng vấn. Nếu người
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 26
tham gia có bị tác động đến sinh hoạt hàng
ngày thì được tính điểm: (A) Tần suất tác
động của mỗi hoạt động được đánh giá từ 0
đến 3 điểm: (0) không bao giờ, (1) tác động 1
hoặc 2 lần/ tháng, (2) nếu tác động 1-2 lần/
tuần, (3) 3-4 lần / tuần. (B) Mức độ trầm trọng
của tác động được đánh giá từ 0 đến 3 điểm:
(0) không trầm trọng, (1) ít trầm trọng, (2)
trầm trọng, (3) rất trầm trọng và cuối cùng,
người tham gia được hỏi tình trạng răng
miệng nào gây tác động ở từng hoạt động
như: đau răng, mất răng, hôi miệng hoặc hơi
thở hôi, chảy máu nướu, sưng nướu và vấn đề
khác. Điểm tác động cho từng hoạt động được
tính bằng cách nhân điểm tần số tác động (0-3)
với điểm mức độ trầm trọng (0-3). Phạm vi tác
động là số hoạt động hàng ngày bị tác động
của từng đối tượng (0-8). Điểm OIDP là tổng
điểm tác động của 8 hoạt động, chia cho 72 và
nhân với 100(15).
Phân tích hồi qui logistic đơn biến và đa
biến được sử dụng để khảo sát mối quan hệ
giữa các biến độc lập (giới tính, nơi cư ngụ, chỉ
số sâu mất trám, CPI, mất răng, sâu răng, cảm
nhận về SKRM và sự hài lòng về vẻ bề ngoài
hàm răng của sinh viên) và biến phụ thuộc
(OIDP). Mức độ kết hợp tỉ số chênh (OR) được
báo cáo cùng với 95% khoảng tin cậy (KTC),
những biến có kết quả p<0,05 được xem là kết
hợp có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Có 3.575 sinh viên tham gia nghiên cứu được
khám răng miệng và tự điền vào bản câu hỏi
OIDP, tuổi từ 17 đến 26 tuổi, tuổi trung bình 18,3
(± 0,8) và 74,5% là nữ. Dân tộc Kinh chiếm
97,63%; sinh viên có nơi cư trú ở các tỉnh thành
trước khi nhập học chiếm 66,49%.
Tình trạng SKRM
Tỉ lệ toàn bộ bệnh sâu răng của mẫu nghiên
cứu là 71,9% (95% KTC 70,47%- 73,42%). Kết quả
này thấp hơn so với điều tra SKRM toàn quốc
của Bộ Y tế năm 2002 ở nhóm dân số 18- 34 tuổi
(75,2 %)(28) và cao hơn kết quả nghiên cứu trên
sinh viên Đại học Y Thái Bình năm 2008
(70,4%)(16). Theo phân loại của WHO, tình trạng
bệnh sâu răng của nhóm nghiên cứu ở mức độ
trung bình. Trung bình SMT-R của mẫu nghiên
cứu là 2,90; thấp hơn kết quả điều tra SKRM toàn
quốc của Bộ y tế năm 2002 ở dân số 18- 34 tuổi
(3,29)(28) nhưng lại cao nghiên cứu sinh viên Đại
học Y Thái Bình (2,28)(16). Sự khác biệt có thể do
hiệu quả của chương trình thêm Fluoride vào
nước máy(12), chương trình nha học đường, các
phương tiện truyền thông đại chúng về SKRM
phát triển, nhiều cải thiện về tình trạng dinh
dưỡng và vệ sinh răng miệng. Giáo dục nha
khoa có thể đóng vai trò lớn việc thay đổi thái độ
SKRM của lứa tuổi sinh viên(1). Khi so sánh kết
quả này với các nước cho thấy chỉ số này cũng
tương tự như kết quả nghiên cứu trên đối tượng
18 tuổi ở các nước đang phát triển như Indonesia
(2,7), Niger (2,5) và thấp hơn các nước phát triển
như Cộng hòa Séc (6,2), Belarus (6,8), Áo (5,5) và
Na-Uy (6,9), ngoại trừ Singapore (2,7)(29). Sở dĩ có
sự khác biệt này có thể là do khác biệt về tình
trạng kinh tế xã hội và các chương trình quốc gia
về chăm sóc SKRM.
Tỉ lệ sinh viên có mô nha chu lành mạnh là
8,81%, với chảy máu nướu là 11,36% và vôi răng
là 83,66% (bảng 1). Kết quả này cũng có tương
đồng với kết quả phân tích mê-ta của tác giả
Nguyễn Cẩn và Ngô Đồng Khanh ghi nhận
(2007) là 78-96%(20). Tuy nhiên, kết quả này khá
cao so với nghiên cứu của tác giả Sharda năm
2009 ở sinh viên Ấn Độ lần lượt là 36,8%, 19,4%
và 43,8%(23) ở Iran 15–19 tuổi lần lượt là 14,5%,
33,7% và 48,7%(22), ở Jordan ở lứa tuổi 20-29 tuổi
có vôi răng là (58,9%)(14). Số trung bình sextants
lành mạnh ở nhóm nghiên cứu là 1,2 (± 1,9). Kết
quả này cho thấy số sextants lành mạnh rất thấp
so với các nghiên cứu tại các nước trên cùng đối
tượng là sinh viên Ấn Độ (3,81± 2,21)(23), thanh
thiếu niên Iran là 2,622). Điều này không những
nói lên mức độ bệnh trầm trọng của mô nha chu
của nhóm nghiên cứu mà còn cho thấy hạn chế
trong thực hành vệ sinh răng miệng của mẫu
nghiên cứu. Mặc dù kiến thức không là yếu tố
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 27
liên hệ chặt chẽ đến hành vi này, nhưng việc
giáo dục để hình thành thái độ và hành vi phù
hợp đối với chăm sóc răng miệng cần được quan
tâm hơn(23).
Bảng 1: Phân bố tần số và tỉ lệ người lành mạnh và
có bệnh nha chu theo nhóm tuổi, giới và nơi cư trú.
Tần số và tỉ lệ (%) người có mã số
0 (Lành
mạnh)
n (%)
1 (Chảy
máu nướu)
n (%)
2 (Vôi răng)
n(%)
3 (Túi
nông)
n (%)
Toàn bộ 315 (8,81) 406 (11,36) 2.991 (83,66) 2 (0,06)
Tuổi
17 – 18 250 (8,99) 319 (11,47) 2.314 (83,24) 2 (0,07)
18 – 26 65 (8,18) 87 (10,94) 677 (85,16) 0 (0,00)
Giới
Nam 66 (7,25) 117 (12,86) 767 (84,29) 1 (0,11)
Nữ 249 (9,35) 288 (10,82) 2.222 (83,47) 1 (0,04)
Nơi cư trú
TP. HCM 117(9,77) 162 (13,52) 968 (80,80) 0 (0,00)
Tỉnh thành
khác
198 (8,33) 244 (10,27)* 2023 (85,11)** 2 (0,08)
* Test chi bình phương χ2= 8,3962; p=0,004 ** χ2= 10,8061;
p=0,001
Mối liên quan tình trạng sức khỏe răng
miệng đến chất lượng cuộc sống
Trong nghiên cứu này, tần suất tác động của
tình trạng SKRM lên 8 hoạt động hàng ngày thật
“khiêm tốn”, chỉ có 25,93% sinh viên báo cáo có
một hoặc nhiều tác động trong 6 tháng trước. So
với các dữ liệu từ các các nghiên cứu trước đây ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Khanh ở
học sinh 11 tuổi (62,1%)(21), tác giả Điền Hòa Anh
Vũ ở thanh niên cai nghiện ma túy 63%(13) và trên
thế giới ở lứa tuổi thanh niên như Uganda
(62%)(5), Albania (60,9%)(27), Tanzania 51%(21),
người lớn tuổi ở Hy Lạp (39,1)(25), Thái Lan
(52,8%)(24) thì tần suất tác động của SKRM ảnh
hưởng đến sinh hoạt hàng ngày ít hơn đáng kể,
nhưng lại cao hơn so với Na-uy (17,5%)(6), người
lớn tuổi ở Anh (12,3%)(25). Sự khác nhau có thể do
cách chọn mẫu, nhận thức về SKRM của đối
tượng nghiên cứu và tùy thuộc vào sự khác biệt
kinh tế - xã hội, văn hóa và yếu tố tâm lý giữa các
nước(4). Việc ăn nhai bị tác động nhiều nhất
(37,06%), tiếp theo là việc giao tiếp với mọi người
(16,25%) và việc vệ sinh răng miệng (16,11%).
Vấn đề ăn nhai là bị ảnh hưởng nhiều nhất,
tương tự như những nghiên cứu trước đây của
tác giả Nguyễn Thị Ngọc Khanh(21), tác giả Điền
Hòa Anh Vũ(13), cũng tương tự các nghiên cứu
trên thế giới ở các lứa tuổi khác nhau như
Albania(27), Na-Uy(7), Tanzania(18), Uganda(5), Hy
lạp, Anh(25), Thái Lan(15), Pháp(26). Giao tiếp với
mọi người cũng là khía cạnh quan trọng đối với
sinh viên, ảnh hưởng đến16,25% sinh viên. Điều
này hợp lý vì với sự phát triển của xã hội đòi hỏi
người sinh viên phải năng động, tham gia nhiều
hoạt động nên việc tiếp xúc mọi người rất quan
trọng (bảng 2).
Bảng 2: Phân bố tỉ lệ %, mức độ và phạm vi tác động của ảnh hưởng của răng miệng trên từng sinh hoạt hàng
ngày của mẫu nghiên cứu (N=3575).
Các hoạt ñộng hàng ngày bị tác ñộng
Toàn bộ Ăn nhai Nói chuyện VSRM Nghỉ ngơi Cười
Tinh
thần
Học tập
Giao
tiếp
Tỉ lệ % bị tác ñộng 25,93 26,71 11,13 16,11 10,66 12,50 14,60 10,97 16,25
ðiểm OIDP
Phạm vi ñiểm (0-62) (0-9) (0-9) (0-9) (0-9) (0-9) (0-9) (0-9) (0-9)
Trung bình (ðLC) 1,5 (4,3) 0,2 (0,6) 0,0 (0,4) 0,1 (0,5) 0,2 (0,7) 0.1 (0,4) 0,1 (0,5) 0,1 (0,5) 0,2 (0,7)
Mức ñộ (%) bị tác ñộng
Rất nhẹ 32,74 13,40 4,00 6,08 5,26 5,43 7,47 6,07 7,52
Nhẹ 16,09 2,24 1,03 1,26 0,90 1,71 1,15 0,87 1,85
Trung bình 12,07 0,56 0,11 0,45 0,22 0,67 0,45 0,31 0,73
Nặng 21,01 0,25 0,14 0,31 0,06 0,34 0,11 0,08 0,45
Rất nặng 17,10 0,06 0,06 0,03 0,03 0,17 0,03 0,06 0,11
Phạm vi tác ñộng
Số hoạt ñộng bị tác ñộng 0 1 2 3 4 5 6 7 8
% 62,02 12,36 7,36 5,01 3,80 2,63 1,96 1,76 3,05
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 28
Xem xét về mức độ tác động SKRM lên sinh
hoạt hàng ngày, trong nghiên cứu này, mức độ
từ nặng đến rất nặng chiếm 39,11 % sinh viên,
một giá trị khá cao so với báo cáo trên trẻ em
Thái lan (21,3%)(15), Pe-ru (25%)(9). Sự khác biệt
này có thể do khác nhau ở mẫu nghiên cứu, về
tuổi, văn hóa và điều kiện xã hội. Tuy nhiên cần
có thêm nhiều nghiên cứu về đối tượng sinh
viên tại Việt Nam để khẳng định về vấn đề này.
Mặc dù, việc ăn nhai chiếm tỉ lệ tần suất tác động
cao nhưng mức độ trầm trọng lại thấp. Vì thế,
điều thú vị được ghi nhận là các sinh hoạt như
cười, giao tiếp xã hội ít bị tác động thường
xuyên, nhưng mức độ tác động trầm trọng lại
cao hơn các sinh hoạt khác (bảng 2). Điều này
làm nổi bật tầm quan trọng của khía cạnh về xã
hội và tâm lý trong cuộc sống của sinh viên và
chỉ ra rằng mức độ tác động của SKRM trên cả
hai khía cạnh nói trên nhiều hơn khía cạnh về
thể chất.
Xem xét về phạm vi tác động, có nghĩa là
khảo sát số sinh hoạt trong ngày bị tác động do
SKRM trên một sinh viên. Có 19,69% sinh viên
báo cáo có 1 hoặc 2 sinh hoạt bị tác động và
18,26% có từ 3 sinh hoạt trở lên. So với nghiên
cứu trước đây của tác giả Điền Hòa Anh Vũ(13),
lần lượt là 29,4% và 24,3%, trên người lớn tuổi ở
Trung Quốc, lần lượt là 49,4%và 10,6% tác động
ít hơn đáng kể. Sự khác biệt này là do mẫu
nghiên cứu khác nhau về tuổi và tình trạng kinh
tế và xã hội. Như vậy, những kết quả này cung
cấp thêm bằng chứng đánh giá mức độ và phạm
vi tác động của SKRM cho hình ảnh rõ ràng hơn
cách tác động, một khía cạnh thực tế hơn để
đánh giá SKRM liên quan đến CLCS ở lứa tuổi
thanh niên. Từ đó, xem xét ưu tiên các hoạt động
chăm sóc SKRM cho nhóm tuổi này.
Điểm số tác động OIDP cho chúng ta thấy
rõ ảnh hưởng của các vấn đề răng miệng lên
sinh hoạt hàng ngày của sinh viên Đại học Sài
Gòn. Theo kết quả bảng 3.14, điểm số thay đổi
từ 0 đến 65, điểm trung bình (1,5± 4,28). Kết
quả nghiên cứu này khả quan hơn so với kết
quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Ngọc
Khanh trên học sinh 11 tuổi (3,0±0,31)(21), tác
giả Điền Hòa Anh Vũ trên thanh niên cai
nghiện ma túy (5,38 ±9,1)(13) và tác giả
Gherunpong trên người lớn tuổi ở Trung
Quốc (8,8±7,4). Do số y văn có sử dụng đo
lường chỉ số OIDP còn hạn chế, nên sự so sánh
các tài liệu trên ở những đối tượng khác nhau
(trẻ em, thanh niên cai nghiện ma túy, người
lớn tuổi) có sự khác biệt với kết quả nghiên
cứu là không tránh khỏi. Sự khác biệt này có
thể do sự khác biệt các đặc tính tâm lý trong
các dân số khác nhau(2). Tuy nhiên, do kết quả
phân phối điểm OIDP lệch phải (biểu đồ 1)
nên giá trị trung vị đánh giá đúng hơn so với
đánh giá bằng giá trị trung bình. Nếu sử dụng
giá trị trung bình thì kết quả cho thấy dân số
nghiên cứu có điểm tác động trung bình là 1,5.
Đánh giá theo giá trị trung vị thì ít nhất 50%
dân số nghiên cứu không bị tác động lên sinh
hoạt hàng ngày hay ít nhất 25% sinh viên có
điểm OIDP>0. Đây là ưu điểm của các đánh
giá của chỉ số OIDP, cho kết quả phân biệt rõ
ràng giữa nhóm tương đối khỏe mạnh và tình
trạng SKRM kém, cũng như giữa những người
cảm nhận khác nhau về tác động răng miệng.
OIDP hữu ích trong sử dụng đánh giá kết quả
kế hoạch điều trị trong cộng đồng(2).
Ngoài tỉ lệ tác động của tình trạng SKRM lên
sinh hoạt hàng ngày, nghiên cứu này còn đề cập
đến nguyên nhân tác động theo cảm nhận của
bệnh nhân, một khía cạnh không kém phần
quan trọng. Trong khía cạnh này, nguyên nhân
đau răng là nguyên nhân phổ biến nhất tác động
lên 6 trong 8 sinh hoạt hàng ngày được đánh giá
trong chỉ số OIDP. Đau răng cũng là nguyên
nhân phổ biến trong nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Khanh(21), tác giả Điền Hòa
Anh Vũ(13), tác giả Phạm Thị Mỹ Hạnh(16) và các
nghiên cứu trên thế giới(3,11,15). Hôi miệng và chảy
máu nướu cũng là nguyên nhân phổ biến nhất
gây khó khăn trong việc giao tiếp và cười tự tin
của sinh viên. Các nguyên nhân này hầu như
đều là hậu quả của bệnh sâu răng, bệnh nha chu
và tình trạng vệ sinh răng miệng kém, phù hợp
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 29
với kết quả khám lâm sàng tình trạng sâu răng
(65,6%) và nha chu (91,2%) của sinh viên. Kết
quả này gần tương đồng với nghiên cứu trẻ em ở
Thái Lan, đau răng tác động đến ngủ và học
tập(15). Răng nhạy cảm, chảy máu nướu, hơi thở
hôi được báo cáo là nguyên nhân phổ biến và
răng lệch lạc tác động đến sự tự tin khi cười,
giống như trẻ em ở Peru(9), Brazin(10).
Biểu đồ 1 Phân bố điểm OIDP của mẫu nghiên cứu.
So sánh kết quả giữa phân tích đơn biến