Tóm tắt: Quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị có một quá trình lịch sử lâu dài. Lý thuyết
về quy hoạch được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống và quá trình phát triển khoa học kỹ thuật.
Hình thành tư duy, định hướng chiến luợc cho một đô thị nhằm giúp đô thị đó có hướng phát
triển tốt, bền vững luôn là bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách, nhà chuyên
môn Trong bài báo này tác giả giới thiệu một số lý thuyết cơ bản, chọn lọc trong một khía
cạnh nhỏ của quy hoạch đô thị: Tổ chức không gian và kiến trúc cảnh quan trong quy hoạch.
6 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 740 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức không gian và kiến trúc cảnh quan trong quy hoạch đô thị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 75
TỔ CHỨC KHÔNG GIAN VÀ KIẾN TRÚC CẢNH QUAN
TRONG QUY HOẠCH ĐÔ THỊ
ThS. kts. Nguyễn Hữu Ninh
Phó Khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị có một quá trình lịch sử lâu dài. Lý thuyết
về quy hoạch được đúc kết từ thực tiễn cuộc sống và quá trình phát triển khoa học kỹ thuật.
Hình thành tư duy, định hướng chiến luợc cho một đô thị nhằm giúp đô thị đó có hướng phát
triển tốt, bền vững luôn là bài toán khó cho các nhà hoạch định chính sách, nhà chuyên
mônTrong bài báo này tác giả giới thiệu một số lý thuyết cơ bản, chọn lọc trong một khía
cạnh nhỏ của quy hoạch đô thị: Tổ chức không gian và kiến trúc cảnh quan trong quy hoạch.
1. Một số ý tưởng về tổ chức không gian
đô thị:
Cuộc cách mạng công nghiệp cuối
thế kỉ XVIII – XIX đánh dấu bước phát triển
nhảy vọt của các nước châu Âu bằng sự xuất
hiện của máy hơi nước (1825), nhà máy điện,
lò luyện thép (1885), cùng những thay đổi lớn
trong sản xuất và xã hội. Đường sá, nhà ở, tiện
nghi sinh hoạt không thể đáp ứng lượng dân
số khổng lồ từ nông thôn đổ vào các đô thị
mới. Đô thị hóa đã phá vỡ cấu trúc ban đầu,
nhu cầu tìm kiếm một cơ cấu tổ chức không
gian thích hợp trong cuộc sống hiện đại đã
thúc đẩy sự ra đời của nhiều học thuyết đô thị,
dưới đây trình bày hai mô hình tiêu biểu.
1.1. Thành phố vườn
Cấu trúc “Thành phố vườn” được
Ebenezer Howard trình bày trong “Ngày
mai” và “Thành phố tương lai” năm 1896
hình tròn dạng hướng tâm, qui mô dân số
32.000 dân, diện tích 400ha, vòng ngoài là
khu cây xanh, đất đai sản xuất nông nghiệp
rộng 2.000 ha (xem Hình 1). Mỗi đơn vị
“Thành phố vườn” có 2.400 ha, gồm các
vòng tròn đồng tâm được chia làm 6 phần là
những khu ở bằng 6 con đường (36 m)
xuyên từ tâm ra ngoài. Khu trung tâm 2,2 ha
được dành cho công viên cây xanh, các vòng
tròn tiếp theo lần lượt bố trí các công trình
công cộng, các tuyến xe lửa, nhà máy, xí
nghiệp 6 thành phố nhỏ này nối liền thành
phố mẹ 58.000 dân bằng 6 hệ thống đường
bộ và ray xe lửa tạo thành một mô hình
thành vườn khoảng 250.000 dân rất phù hợp
cho phát triển công nghiệp. Với quan điểm
đô thị là một cơ cấu, là một tổng thể quy
hoạch bao gồm các vấn đề qui mô, mật độ
dân số, kinh tế, xã hội, Howard rất thành
công khi đưa ra mô hình đô thị có sự kết hợp
hài hòa với điều kiện tự nhiên, trong đó vai
trò vành đai cây xanh, mặt nước được gắn
kết hết sức mật thiết với cấu trúc không gian
đô thị là hệ thống đường sá và công trình
kiến trúc.[1]
Học thuyết đưa con người trở lại cuộc
sống hòa mình với thiên nhiên giảm bớt áp
lực nặng nề từ một xã hội cạnh tranh thực
dụng qua những ứng dụng cụ thể các Thành
phố vườn Letchworth (1903), Welwyn
(1919), Harlow (1947) làm nền tảng cho
các lý thuyết sau đó: đô thị vệ tinh
(Raymond Unwinn), Garden City 21 (với lõi
trung tâm là khu vực trung tâm hành chính
và thương mại (Central Business District -
CBD) – John.O.Simonds).
Hình 1 – Cấu trúc thành phố vườn
của Ebenezer Howard
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 76
1.2. Thành phố dải Nếu ở “Thành phố
vườn”, cây xanh đóng vai trò trung tâm
trong mối liên hệ không gian thì ở đây, hệ
thống giao thông giữ vai trò kết nối các chức
năng khác nhau theo từng dải song song, đặc
biệt những thành phố gần sông biển, vai trò
“mặt nước” sẽ là “trục xương sống” tạo nên
cấu trúc đô thị.
Hệ thống thành phố dải là sự kế thừa
đầy sáng tạo từ thành phố chuỗi của Soria Y
Mata trong đề xuất giải pháp cải tạo thủ đô
Madrid – Tây Ban Nha (1882) và Tony
Garnier (1905) cho thành phố Lyon – Pháp.
Theo ông, thành phố sẽ phát triển dọc theo
các trục giao thông chính (đường sắt, tàu
điện, ôtô) với chiều dài không hạn chế và
chiều rộng của dãy công trình dọc hai bên
đường khoảng vài trăm mét.(Hình 2)
N.A.Milutin đã phát triển lý luận này ở mức
độ hoàn thiện đặt nền móng cho mô hình
quy hoạch theo hệ thống dải qua nhiều
phương án quy hoạch các thành phố tại Nga
(1929 – 1930), điển hình là Stalingrat và
thánh phố Volgarat theo sông Volga. Thành
phố được quy hoạch theo 6 dải chức năng
song song nhau bắc đầu từ dòng sông, cây
xanh, khu ăn ở, đường cao tốc, khu cách li
vệ sinh, công nghiệp và đường sắt với chiều
dài 70 km, chiều rộng không quá 5 km.
Milutin đã vận dụng thành công điều kiện tự
nhiên để giải quyết hợp lí các nhu cầu về sản
xuất, đời sống cho thành phố, trong đó sông
Volga có ý nghĩa, vị trí cực kì quan trọng
trong cấu trúc đô thị. Việc tận dụng lợi thế
hướng gió từ bờ sông không những cải thiện
môi trường khí hậu, mà còn tạo ra nhiều
không gian đa dạng dọc theo mặt nước có
giá trị thẩm mỹ cao.[1]
2. Cơ sở về quan điểm tạo hình ảnh đô thị:
2.1. Lý thuyết của Kenvin Lynch trong tác
phẩm “The image of the City”:
Nếu như các lý thuyết đô thị nhằm tìm
giải pháp mới giúp các đô thị thế giới thoát
khỏi tình trạng khủng hoảng đương thời dưới
cái nhìn tổng thể về mặt cấu trúc thì các nhân tố
tạo nên chất lượng hình ảnh sẽ giúp đô thị hoàn
thiện hơn về mặt thẩm mỹ bằng 5 nhân tố cơ
bản: hướng tuyến, cạnh bên, khu vực, nút, cột
mốc được Kenvin Lynch nghiên cứu, trình bày
trong “The image of the City”, đặt nền móng
cho quan điểm thiết kế đô thị hiện đại.(xem
Hình 3) [3]
Hình 2 – Cấu trúc thành phố dải của
N.A.Milutin
2.1.1. Hướng tuyến – Paths gồm
đường liên hệ giao thông và hành lang liên
hệ thị giác nhưng thông thường được gộp
thành một. Hướng tuyến được nhận dạng
dưới hình thức các đường chính, phụ, trong,
ngoài thành phố, đường bộ, đường xe lửa,
đường sông, biển, kênh rạch tạo thành
mạng không gian đô thị. Yếu tố này cho
người quan sát thưởng thức và định vị cảnh
quan đô thị ngay trước mắt và hai bên khi di
chuyển dọc trên tuyến. Theo ông hướng
tuyến là cơ sở cho các nhân tố khác trong đô
thị phát triển dọc theo, giữ vai trò chủ đạo
trong việc xây dựng hình ảnh đô thị; còn
theo tâm lí học, khi con người chuyển dịch,
quan sát dọc tuyến, họ sẽ nhận được hình
ảnh liên tục từ hai bên mặt phố và phán đoán
được phương hướng, cự li của mình với cảnh
quan xung quanh.
Yếu tố này có ý nghĩa lớn trong việc
quy hoạch cải tạo đô thị hiện nay, đặc biệt
với khu vực phát triển dọc theo các đại lộ,
sông ngòi, kênh rạch như Việt Nam. Cải tạo
đô thị trước hết phải quan tâm đến hình ảnh
đô thị hai bên tuyến, ngoài những tuyến đại
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 77
lộ còn là các tuyến sông rạch nếu biết kết
hợp với bóng đổ của công trình hai bên sẽ
mang lại hiệu quả cao, tạo bộ mặt mới cho
đô thị.
2.1.2. Cạnh bên – Edges là giới
tuyến của một hay nhiều khu vực được biểu
hiện thông qua những hình thái tự nhiên hay
nhân tạo. Một số nơi, cạnh bên tiêu biểu cho
phạm vi, hình dáng đường viền khu vực.
Cạnh bên có thể là dãy cây xanh, bờ sông,
vách núi, mặt giới hạn của quần thể kiến
trúc, ranh giới của đường đi, cách phân chia
không gian khi nghiêm túc rõ ràng, khi
hoà nhập tự nhiên, tạo thành sự giao thoa,
xen lẫn không gian. Cạnh bên đối với các đô
thị ven sông được giới hạn bởi những hành
lang cây xanh, thảm thực vật phong phú hai
bên bờ vừa có tác dụng cải tạo môi trường,
vừa tạo cảnh quan thiên nhiên cho khu vực.
Giải pháp cải tạo cạnh bên hiệu quả sẽ mang
lại sức sống mới cho nhiều khu đô thị ven
kênh rạch đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở
Việt Nam.
2.1.3. Khu vực – Districts cho phép con
người quan sát từ bên ngoài hay len vào bên
trong để tìm ra những nét đặc trưng giúp
phân biệt cụ thể các khu đô thị. Chính hình
thái, công năng sử dụng đồng nhất ở mỗi
khu vực sẽ giúp người quan sát nhận ra mình
ở thành phố nào. Các khu vực đồng chức
năng phục vụ cho cùng một đối tượng ra đời
hàng loạt trong đô thị như: khu lịch sử, phố
cổ, công nghiệp, các vườn sân bãi trong
trường đại học hoặc các quảng trường, khu
kiến trúc cao tầng, khu CBD, thương mại
trong thành phố. Yếu tố này mang lại cái
nhìn tổng thể cho toàn đô thị, xác định được
điểm nổi bật của từng khu vực để phát huy
tiềm năng của chúng.
HƯỚNG TUYẾN
CẠNH BÊN
KHU VỰC
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 78
NÚT
CỘT MỐC
Hình 3 – Năm nhân tố tạo dựng hình ảnh đô thị của Kenvin Lynch
2.1.4. Nút – Nodes là những tiêu điểm mang
tính chiến lược để người quan sát tiến vào
bên trong, là nơi con người thường xuyên
qua lại trong cuộc sống hằng ngày. Có thể
xem vị trí giao cắt giữa các trục giao thông,
nơi chuyển phương hướng của đường sá, chổ
thay đổi cấu trúc không gian là những nút,
nơi tập trung hầu hết các công năng hoặc đặc
trưng nhất định của đô thị. Nút có thể nằm
trong khu trung tâm hình thành một không
gian đặc biệt cho toàn khu vực. Như vậy, nút
có mối quan hệ với hướng tuyến và khu vực
vì nó là điểm đánh dấu sự thay đổi của các
tuyến và cũng là hạt nhân của khu vực đô
thị. Nhờ đó con người có thể cảm nhận được
nét đặc trưng của nút cùng những môi cảnh
quanh chúng một cách rõ ràng hơn.
2.1.5. Cột mốc – Landmarks chỉ cho người
quan sát đứng bên ngoài, từ xa để thưởng
thức, xác định phương hướng trong đô thị. Là
sự xuất hiện đột phá gây ấn tượng mạnh, cột
mốc có thể là sự biến đổi đột ngột của địa
hình, địa mạo tự nhiên, cây cối có hình dạng
đặc thù hoặc công trình kiến trúc mang tính
phá cách Với tính định hướng, cột mốc
được xem là loại kí hiệu của cấu trúc đô thị,
một nhân tố quan trọng hình thành nét đặc
trưng thành phố và có sức ảnh hưởng nhất
định trong môi trường hình thể đô thị. Cột
mốc có thể cao vút như tháp Eiffel hoặc cũng
có thể là sự thay đổi phong cách kiến trúc
như trung tâm văn hóa Pompedou với hình
dáng của một nhà máy công nghiệp hiện đại
nằm sừng sững giữa lòng Paris cổ kính.
Năm yếu tố trên không tồn tại độc lập
mà chúng đan xen bổ sung cho nhau như:
hướng tuyến tạo tầm nhìn chuyển động, khu
vực cho hình ảnh đồng nhất, cạnh bên xác
định hình dáng, nút đánh dấu sự chuyển giao
giữa hình ảnh này với hình ảnh khác, cột
mốc tạo điểm nhấn đô thị. Tất cả nhằm tạo
ra một chất lượng hình ảnh tốt, một bản sắc
cho đô thị. Dễ dàng nhận thấy khu vực do
các nút, cạnh bên giới hạn tạo thành, hướng
tuyến, cột mốc cũng được bao hàm, phân bố
trong đó một cách có qui luật.
2.2. Phân loại hệ thống cảnh quan
Cảnh quan vùng được phân làm bốn
loại cơ bản bao gồm: cảnh quan tự nhiên
(hay còn gọi là cảnh quan địa lý), cảnh quan
nhân tạo, cảnh quan đô thị, cảnh quan công
viên rừng [2] và được phân loại như sau:
2.2.1. Cảnh quan tự nhiên: (Natural
Landscape)
Là cảnh quan một vùng địa phương
có một đặc trưng về điều kiện tự nhiên vơí
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 79
các yếu tố chính như: hệ thực vật( cây xanh),
hệ động vật, cấu tạo địa hình, thổ nhưỡng và
khí hậu. Các yếu tố này được phối hợp với
nhau theo một quy luật tự nhiên để hợp
thành một thể thống nhất. Ở thể loại cảnh
quan này con người gần như không được can
thiệp hoặc thay đổi nhiều các yếu tố tự nhiên
đặc trưng của địa phương đó.
2.2.2. Cảnh quan nhân tạo (Synthetic
Landscape)
Là cảnh quan thiên nhiên các yếu tố
thiên nhiên đã không còn tồn tại như lúc ban
đầu mà đã được thay đổi bởi con người do
nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội ngày càng
gia tăng. Trong quá trình thay đổi, cảnh
quan tự nhiên dần dần được thay thế bằng
một hình thức cảnh quan mới phù hợp với
những điều kiện đặt ra của xã hội đương
thời. Đó là cảnh quan nhân tạo. Cảnh quan
nhân tạo hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức hệ
của con người và xã hội, hoặc là có chiều
hướng tích cực( làm tăng vẻ đẹp của vùng
cảnh quan) nếu con người quan tâm và tôn
trọng những yếu tố ban đầu cho phép, từ đó
vận dụng hài hòa vào cảnh quan mới nhưng
không chối bỏ phong cách cũ.
Ngược lại nếu áp đặt một cảnh quan
mới mà không nghiên cứu tìm hiểu để kế
thừa một di sản thiên nhiên sẽ tạo ra nột
cảnh quan nhân tạo không phù hợp với môi
trường sinh thái và tất nhiên sẽ mất đi một
sắc thái vùng cảnh quan đặc thù- Bản sắc
của từng vùng địa phương gây nhiều tác
động xấu về sau.
Mức độ can thiệp vào sự thay đổi của
các yếu tố cảnh quan thiên nhiên ít nhiều
biểu thị vào tính chất nhân tạo của cảnh
quan. Sự hình thành và phát triển của cảnh
quan nhân tạo cũng gắn liền với tốc độ phát
triển của công nghệ khoa học kỹ thuật khi
mà cả thế giới đã bước vào thiên niên kỷ
mới, thế kỷ 21 với nền văn minh tin học đã
làm thay đổi diện mạo của cảnh quan thế
giới mới.
2.2.3. Cảnh quan đô thị (Urban
Landscape)
Cảnh quan đô thị là môi trường nhân
tạo phức tạp nhất do sự tập trung dân cư với
mật độ lớn trong một diện tích đô thị có giới
hạn. Ở đó người ta quan tâm đến những nhu
cầu hoạt động đi lại( giao thông), ăn ở, sinh
hoạt, sản xuất, giao tiếp, nghỉ ngơi giải trí (
công viên, văn hóa, thể thao..) tức là môi
trường có mức độ tập trung cao nhất các yếu
tố nhân tạo phục vụ cho nhu cầu đời sống và
phát triển kinh tế của đô thị đương đại.
Chính vì vậy ở đây yếu tố thiên nhiên
thường dễ bị phá vỡ: địa hình bị san lấp, cây
xanh bị chặt phá, chất thải do hoạt động của
nhà máy, thiết bị sinh hoạt, phương tiện giao
thông. Từng ngày gây nên những tác động
xấu đến môi trường của đô thị tạo nên những
căn bệnh đô thị như chứng bệnh “xơ cứng,
tắc nghẽn đông mạch” (ý với vấn đề tắc
nghẽn giao thông), chứng bệnh “đầu to”( chỉ
sự tập trung quá đông dân cư đô thị tại trung
tâm) v.v
2.2.4. Cảnh quan vườn- công viên (nghệ
thuật cảnh quan)
Là một loại hình nghệ thuật sử dụng
những yếu tố đẹp chọn lọc của phong cảnh
thiên nhiên, sự biến đổi của thiên nhiên
thông qua hình khối, dáng dấp, đường nét,
và cả sự phối kết màu sắc của cây, cỏ hoa,
lá. Sự thay đổi đường nét, cao độ địa hình và
mặt nước tuân thủ các nguyên tắc bố cục
thẩm mỹ cùng với các yếu tố thảm thực vật
kết hợp với hệ động vật tiêu biểu sẽ tạo nên
một phong cảnh tĩnh lặng và thư giản sau
những thời gian làm việc.
Thông báo Khoa học và Công nghệ* Số 2-2012 80
Cảnh quan vườn- công viên của một
vùng hay một đô thị thực chất là nơi vừa tận
dụng cảnh quan thiên nhiên với các yếu tố
tạo cảnh căn bản như đã nêu ở trên nhưng
khác với các cảnh quan trên ở chỗ yếu tố
nghệ thuật luôn được con người coi trọng
quan tâm xử lý theo xúc cảm nghệ thuật, nó
có thể có một hay nhiều phong cách nhưng
chung quy vẫn là sự gởi gắm tâm thức con
người vào với thiên nhiên, thường thì cảnh
quan công viên- vườn có khuôn viên và giới
hạn so với cảnh quan thiên nhiên (cảnh quan
địa lý) tuy nhiên trong những trường hợp đặc
biệt thì cảnh quan vườn- công viên mới hòa
chung vào cảnh quan địa lý.
Kết luận
Lý thuyết về quy hoạch thiết kế đô thị
và thiết kế cảnh quan đô thị là cơ sở khoa học
quan trọng để áp dụng vào công tác quy
hoạch phát triển các đô thị Việt Nam. Qua
thời gian cùng với sự phát triển nhanh chóng
của khoa học kỹ thuật, nền tảng lý thuyết quy
hoạch đô thị chắc chắn sẽ có những bước
phát triển đột phá. Hình ảnh đô thị tương lai
sẽ vừa mang tính kế thừa vừa mang tính mới
mẽ và thú vị. Sự lựa chọn đúng đắn giải pháp
thực hiện sẽ tạo dựng được một hình ảnh đô
thị hiện đại, giàu bản sắc và hòa nhập với
thiên nhiên theo quan điểm phát triển đô thị
sinh thái, là hình thái đô thị mà một thành
phố với chức năng đa dạng cần phải đạt được
trong xu hướng phát triển bền vững hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Nguyễn Thế Bá – Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 2009.
[2]. Hàn Tất Ngạn – Kiến trúc cảnh quan, Nxb Xây dựng, Hà Nội, 2008.
[3]. Kevin Lynch – The Image of the City, the MIT-press, 1960.