Mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh (ĐTVT)
đã có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và
được áp dụng tại rất nhiều các vùng đô thị
lớn trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, việc áp
dụng mô hình quy hoạch này lại có những
sáng tạo riêng phù hợp với bối cảnh phát
triển đô thị mỗi nước nhưng tựu chung lại
đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của mô
hình này. Đặc biệt, trong bối cảnh đô thị
hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước
đang phát triển thì mô hình này nếu được
áp dụng đúng vẫn là câu trả lời hiệu quả
trong vấn đề quy hoạch và quản lý phát
triển các vùng đô thị lớn với xu thế đang
ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô.
Tại nước ta, xu thế hình thành các vùng
đô thị lớn cũng đang định hình rõ ràng,
minh chứng qua sự lớn mạnh không ngừng
của các vùng đô thị lớn truyền thống như
thành phố Hà Nội, TP.HCM rồi mở rộng
trên phạm vi liên tỉnh như Vùng thủ đô hay
xu hướng hình thành các vùng đô thị cấp
tỉnh mới như: Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế
Xu thế này một lần nữa lại đặt ra bài toán
áp dụng mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh
tại Việt Nam mà thành phố Hà Nội là địa
phương đi đầu. Tuy nhiên, sau 8 năm triển
khai QHCXD thủ đô, việc hình thành các
ĐTVT theo định hướng vẫn tỏ ra lúng túng
và chưa có nhiều kết quả cụ thể; việc áp
dụng mô hình này cũng đặt ra nhiều vấn đề
phát sinh mà chưa có bài toán giải quyết
cụ thể, đặc biệt là về đầu tư phát triển hạ
tầng kết nối, quản lý xây dựng tại khu vực
vành đai xanh, xác định mô hình quản lý
phát triển đặc biệt là mô hình quản lý hành
chính đối với các đô thị vệ tinh.
9 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7SË 95+96 . 2018
Mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh (ĐTVT)
đã có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và
được áp dụng tại rất nhiều các vùng đô thị
lớn trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, việc áp
dụng mô hình quy hoạch này lại có những
sáng tạo riêng phù hợp với bối cảnh phát
triển đô thị mỗi nước nhưng tựu chung lại
đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của mô
hình này. Đặc biệt, trong bối cảnh đô thị
hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước
đang phát triển thì mô hình này nếu được
áp dụng đúng vẫn là câu trả lời hiệu quả
trong vấn đề quy hoạch và quản lý phát
triển các vùng đô thị lớn với xu thế đang
ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô.
Tại nước ta, xu thế hình thành các vùng
đô thị lớn cũng đang định hình rõ ràng,
minh chứng qua sự lớn mạnh không ngừng
của các vùng đô thị lớn truyền thống như
thành phố Hà Nội, TP.HCM rồi mở rộng
trên phạm vi liên tỉnh như Vùng thủ đô hay
xu hướng hình thành các vùng đô thị cấp
tỉnh mới như: Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế
Xu thế này một lần nữa lại đặt ra bài toán
áp dụng mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh
tại Việt Nam mà thành phố Hà Nội là địa
phương đi đầu. Tuy nhiên, sau 8 năm triển
khai QHCXD thủ đô, việc hình thành các
ĐTVT theo định hướng vẫn tỏ ra lúng túng
và chưa có nhiều kết quả cụ thể; việc áp
dụng mô hình này cũng đặt ra nhiều vấn đề
phát sinh mà chưa có bài toán giải quyết
cụ thể, đặc biệt là về đầu tư phát triển hạ
tầng kết nối, quản lý xây dựng tại khu vực
vành đai xanh, xác định mô hình quản lý
phát triển đặc biệt là mô hình quản lý hành
chính đối với các đô thị vệ tinh.
Phát triển ĐTVT trên thế giới
Mô hình ĐTVT đầu tiên tại London-Vương
quốc Anh
Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết
thúc, nhu cầu nhà ở tại Anh trở nên hết
sức nóng bỏng. Sức ép lớn giải quyết nhu
cầu đó khiến Chính phủ liên hiệp tại Anh
lúc bấy giờ cho ra đời Đạo luật về nhà ở
năm 1919. Đạo luật này được xem là tạo
ra cơ hội để biến mô hình lý thuyết về
thành phố vườn thành thực tế. Tuy nhiên,
nó đã không tạo ra một thành phố nào,
thay vào đó Chính phủ chỉ mong muốn tạo
ra một cách nhanh nhất số lượng nhà ở
có thể. Những khu nhà ở được xây dựng
VeÀ mÔ hÌnh QUY hOaÏCh
ĐÔ ThỊ Vệ Tinh
KHÁI NIeÄM
TS.KTS. NguyễN TruNg DũNg
Giám đốc TT Thông tin, Đào tạo & HTQT
TÊng quan
SË 95+96 . 20188
phân tán và không có kế hoạch tại các
địa phương.
Sau thành công của dự án thành phố
Letchworth, thành phố vườn đầu tiên tại
Anh, Hiệp hội Quy hoạch thành phố vườn
tại Anh đã có nhiều nỗ lực để đưa mô hình
thành phố vườn vào trong Luật nhà ở, tuy
nhiên những cố gắng này đã không đem
lại kết quả.
Cùng với sự quyết tâm của Mr. Ebenezer
Howard, một công ty có tên gọi “Công ty
trách nhiệm hữu hạn Thành phố vườn thứ
2” đã được thành lập mà không cần đến sự
hỗ trợ của Chính phủ. Công ty này đã mua
lại 1458ha đất trang trại tại Hertfordshire
và 230 mẫu Anh của chủ đất Desborough
và 689ha từ chủ đất Salisbury để tiến hành
xây dựng thành phố vườn thứ 2 với tên gọi
Welwyn theo mô hình một thành phố vệ
tinh cách London 21 dặm (tương đương
khoảng 32km). Thành phố này được tạo
ra trên sự kết hợp giữa chức năng nhà ở
và công nghiệp, với dân số 40.000-50.000
người. Sở hữu về bất động sản của toàn
thành phố thuộc về Công ty trách nhiệm
hữu hạn Thành phố vườn thứ 2. Mục đích
là tạo dựng ra một thành phố khép kín, tiện
nghi và tương đối độc lập với London, việc
gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên và tạo ra sự hài
hòa giữa kiến trúc nhà ở và môi trường là
yếu tố được chú trọng nhất. Mật độ xây
dựng được giới hạn cho 20 ngôi nhà trên
một mẫu Anh. Sau 5 năm xây dựng, dân
số của thành phố Welwyn đã là 2584 người
(năm 1924).
❑ Mô hình quy hoạch thành phố vệ tinh đầu
tiên tại Anh nhằm đáp ứng các yêu cầu
phát triển mới của đô thị trong thời đại bùng
nổ công nghiệp. Mô hình ĐTVT có nguồn
gốc bắt nguồn từ “Đô thị vườn” nhằm đáp
ứng nhu cầu của người dân được hưởng
thụ một môi trường đô thị, không gian sống
mới có chất lượng cao hơn so với những gì
các đô thị lịch sử không còn đáp ứng được.
❑ Các nghiên cứu mô hình lý thuyết về mô
hình quy hoạch ĐTVT đóng vai trò tiền đề
cho sự ra đời của các ĐTVT sau này.
❑ Vai trò quyết định của các tổ chức và
công ty tư nhân trong đầu tư xây dựng
ĐTVT đầu tiên.
Quy hoạch và quản lý các ĐTVT tại Cộng
hòa Pháp
Chính sách phát triển các thành phố mới
“ville nouvelle” ra đời tại Cộng hòa Pháp từ
những năm 1960 và vẫn đang được triển
khai cho tới nay. Mục tiêu của chính sách
này là cho ra đời 9 thành phố mới trên toàn
nước Pháp, nhằm giảm tải cho các vùng
đô thị lớn mà chủ yếu là cho vùng Ile-de-
France (5/9 thành phố).
Mô hình thành phố mới tại Pháp có thể coi
là một phiên bản của thành phố vệ tinh.
Mô hình thành phố mới áp dụng chủ yếu
tại vùng Ille de France là giải pháp nhằm
chống lại việc mở rộng không giới hạn và
hỗn loạn của các khu vực ngoại ô xung
quanh thành phố Paris và là giải pháp khắc
phục cho những nhược điểm về quy hoạch
của các khu nhà ở xã hội được xây dựng ồ
ạt theo quy mô lớn (grand ensemble) được
phát triển tràn lan tại vùng ngoại ô.
Để có thể triển khai được các thành phố
mới này, Chính phủ đã cho áp dụng các
công cụ pháp lý mới. Toàn bộ chương
trình quy hoạch xây dựng các thành phố
này được đặt trong khuôn khổ chính sách
có tên gọi “Các dự án lợi ích quốc gia”
(Opérations d’intérêt nationals-OIN) cho
phép Chính phủ có toàn quyền trong lĩnh
vực quy hoạch liên quan đến các thành
phố mới. Ở cấp độ địa phương, thành lập
tại mỗi thành phố mới một “Cơ quan quy
hoạch công cộng” (Establissement Public
d’Aménagement-EPA) chịu trách nhiệm
toàn bộ công việc quy hoạch và xây dựng.
EPA áp dụng các công cụ quy hoạch sẵn
có như ZAD (khu quy hoạch phối hợp);
ZUP (Khu quy hoạch ưu tiên), ZAC (Khu
quy hoạch có tham vấn) để tiến hành
quản lý toàn bộ các biến động về đô thị
và quy hoạch tại các khu vực thành phố
mới tương lai.
Hình 1: Quy hoạch Thành phố vườn Welwyn-
Thành phố vệ tinh đầu tiên của London
(Nguồn: C.B Purdom, The Building
of Satellite towns)
Hình 2: Quy hoạch các khu nhà ở tại thành phố
vệ tinh Welwyn
(Nguồn: C.B Purdom, The Building
of Satellitetowns)
9SË 95+96 . 2018
Chính sách phát triển các thành phố mới
ra đời thể hiện quyết tâm của Chính phủ
Pháp nhằm giải quyết tình trạng phát triển
mất cân bằng giữa Paris và các tỉnh khác
cũng như hạn chế việc mở rộng đô thị lan
tỏa theo dạng “vệt dầu loang” tại các đại đô
thị như: Paris, Marseille, Lyon, Lille.
■ 5 thành phố mới được quy hoạch và xây
dựng tại ngoại vi Paris bao gồm:
❑ Cergy Pointoise nằm phía Tây
❑ Marne-la-Vallée nằm phía Đông
❑ Evry và Sénart nằm phía Đông Nam
❑ Saint-Quetin-en-Yvelines phía Tây Nam
■ 04 thành phố mới được quy hoạch tại các
tỉnh bao gồm:
❑ Villeneuve d’ascq nằm phía Đông thành
phố Lille
❑ L’Isle d’Abeau nằm phía Đông thành phố
Lyon
❑ Val-de-Reuil nằm giữa Paris và Rouen
❑ Rives de l’Etang de Berre gần thành phố
Marseille
Sơ đồ Quy hoạch và đô thị hóa vùng Paris
(SDAURP) phê duyệt năm 1965 đã xác
định 8 thành phố mới được quy hoạch
xung quanh Paris với khoảng cách từ 15
đến 50km. Con số cuối cùng được rút
xuống còn 5 thành phố: Marne la Vallée,
Cergy-Pontoise, Saint Quentin en Yveline,
Sesnar, Evry. Các thành phố mới này có
nhiệm vụ tạo ra các trung tâm đô thị mới
thu hút việc làm và cư dân đến từ các khu
vực ngoại thành xung quanh và có liên
hệ khăng khít với thành phố Paris nhờ hệ
thống giao thông cơ giới.
Thành phố vệ tinh Évry: Thành phố vệ tinh
đầu tiên của Paris được nghiên cứu quy
hoạch vào năm 1967. Ngày 12/4/1968, một
Cơ quan quy hoạch công với tên viết tắt
là “EPEVRY” được thành lập để tiến hành
công tác quy hoạch và phát triển Évry.
Phạm vi lập quy hoạch thành phố Évry bao
gồm các xã Bondoufle, Courcouronnes,
Évry, và một phần của Ris-Orangis.
Năm 1983, Nghiệp đoàn cộng đồng đô
thị mới (SAN) được thành lập bao gồm
các xã Bondoufle, Courcouronnes, Évry
và Lisses. Năm 2000, EPEVRY giải thể
và SAN trở thành Cộng đồng đô thị Evry
Centre Essone ngày nay.
Thành phố vệ tinh Cergy-Pontoise: Được
quy hoạch vào năm 1969. Cơ quan quy
hoạch công chịu trách nhiệm tổ chức
quy hoạch và xây dựng Cergy-Pontoise
(EPACERGY) được thành lập vào ngày
16/4/1969. Phạm vi quy hoạch của Cergy-
Pontoise bao gồm 15 xã của Tỉnh Val-
d’Oise et des Yvelines, sau đó giảm xuống
còn 11 xã vào năm 1984. Không gian đô
thị của Cergy-Pontoise được tổ chức
xung quanh tòa nhà trụ sở mới của Tỉnh
Cergy-Pontoise và một trục trung tâm
đô thị chính. Ngày 31/12/2002, Cergy-
Pontoise rời khỏi Chương trình phát triển
các thành phố mới và trở thành một cộng
đồng đô thị.
Thành phố Saint-Quentin-en-Yvelines:
Ngày 21/9/1970, Cơ quan quy hoạch
phát triển Saint-Quentin-en-Yvelines
(EPASQY) được thành lập. Phạm vi
quy hoạch thành phố Saint-Quentin-en-
Yvelines bao gồm 11 xã sau đó giảm xuống
7 xã năm 1984 bao gồm: Saint-Quentin-
en-Yvelines: Élancourt, Guyancourt, La
Verrière, Magny-les-Hameaux, Montigny-
le-Bretonneux, Trappes, Voisins-le-
Bretonneux. Đến 2002, quy hoạch Saint-
Quentin-en-Yvelines được coi như hoàn
thành, EPASQY giải thể ngày 31/12/2002
và Nghiệp đoàn cộng đồng đô thị Saint-
Quentin-en-Yvelines trở thành Cộng đồng
đô thị vào năm 2003.
Thành phố Marne-la-Vallée: Cơ quan quy
hoạch Marne-la-Vallée (EPAMARNE)
được thành lập ngày 17/8/1972. Marne-la-
Vallée là thành phố vệ tinh có quy mô lớn
nhất của Paris. Phạm vi quy hoạch thành
phố là 15.000ha trải trên địa bàn 26 xã và
03 tỉnh (Seine-Saint-Denis, Val-de-Marne
et Seine-et-Marne).
Hình 3: Quy hoạch 05 thành phố vệ tinh của Paris
Nguồn: Quy hoạch thủ đô Paris đến 2020
Hình 4: Thành phố vệ tinh Cergy-Pontoise
cách nội đô Paris 40 phút di chuyển bằng
phương tiện công cộng
K h ∏ i n i ÷ m
SË 95+96 . 201810
Liên minh phát triển thành phố (SCA) được
thành lập vào năm 1973 sau trở thành
Nghiệp đoàn Cộng đồng đô thị năm 1983
và Cộng đồng đô thị năm 2003.
Năm 1987, với sự xuất hiện của dự án
Disney Land, một cơ quan Quy hoạch mới
ra đời gọi tắt là EPAFRANCE. Quá trình
quy hoạch và xây dựng của Marne-la-
Vallée vẫn còn đang tiếp diễn.
Thành phố Sénart: Thành phố vệ tinh
được quy hoạch cuối cùng của Paris trên
địa bàn của 18 xã của Essonne và Seine-
et-Marne. Cơ quan quy hoạch phát triển
Sénart (EPASENART) được thành lập
ngày 15/10/1973. Mục tiêu của dự án là
hình thành một trung tâm đô thị đa cực
nhằm hạn chế quá trình lan tỏa quần thể
đô thị Évry. Năm 1983, 8 xã rời khỏi dự án
Sénart, mục tiêu của dự án buộc phải giới
hạn bởi việc hình thành ra một trung tâm
đô thị mới gọi là Carré Senart.
Sau 50 năm hình thành và phát triển, phần
lớn các thành phố này đã không còn giữ
được thể chế mong muốn ban đầu là đô thị
độc lập mà trở thành các Cộng đồng đô thị
(Communauté urbaine). Điều đó đánh dấu
sự chuyển đổi thẩm quyền trực tiếp của
Chính phủ đối với các thành phố mới về
cho chính quyền địa phương. Tuy nhiên, 3
trong số 9 thành phố đó vẫn giữ được tính
chất ban đầu.
Sự tăng trưởng dân số của các thành phố
vệ tinh tại Pháp chậm hơn theo dự kiến quy
hoạch. 5 thành phố vệ tinh đã xây dựng có
mức tăng dân số lớn trong khoảng từ năm
1970 đến 1990.
Với các chức năng hoạt động đa dạng về
thương mại, giải trí, giáo dục, công nghiệp,
các thành phố mới của Paris đã đóng vai
trò là những cực đô thị quan trọng của
khu vực ngoại ô hay như thành phố mới
Villeneuve d’Ascp trở thành một trung tâm
đô thị quan trọng của thành phố Lille nhờ
vào sự hình thành một khu trung tâm đại
học và nghiên cứu, công nghệ lớn.
Một số thành phố mới chỉ trở thành các
khu vực ngoại ô của các thành phố lớn như
trường hợp của L’Isle d’Abeau do khoảng
cách quá xa thành phố Lyon hay không
được ra đời như Le Vaudreuil và Rives de
l’Etang de Berre. Thành phố mới Rives
de l’Etang de Berre hiện nay chỉ là sự đặt
cạnh nhau của 3 điểm đô thị nhỏ, rất khác
biệt về mặt quy hoạch đô thị và thiếu một
trung tâm chính. Những chức năng đô thị
chính tập trung hết tại thành phố Marseille
và Aix-en-Provence, trong khi Rives de
l’Etang de Berre lại không có sự kết nối
không gian đô thị liên tục với các thành
phố đó.
Tổng kết lại thì các thành phố mới được
hình thành cho đến nay đã trở thành các
cực đô thị quan trọng của các đô thị lớn
như Paris, Lille, đáp ứng được mục tiêu quy
hoạch ban đầu.
❑ Các thành phố vệ tinh của Paris đã đáp
ứng được yêu cầu đặt ra trong việc góp
phần kiểm soát sự mở rộng không gian
đô thị cho thành phố Paris cũng như toàn
vùng Ile-de-France
❑ Việc phát triển các ĐTVT phải dựa trên
việc phát triển một mạng lưới giao thông
công cộng tốc độ nhanh (Metro, đường sắt
đô thị, bus nhanh...) đòi hỏi phải đầu tư ban
đầu lớn.
❑ Các thành phố vệ tinh phát triển thành
công là những đô thị có mạng hệ thống
dịch vụ công cộng hoàn chỉnh và có khả
năng tạo ra việc làm. Các chức năng quan
trọng là động lực cho phát triển ĐTVT bao
gồm: Thương mại, công nghiệp, đào tạo
đại học, nghiên cứu công nghệ cao, giải trí.
+ Khoảng cách đến đô thị trung tâm và quy
mô dân số hợp lý cũng là điều kiện quan
trọng cho việc hình thành và phát triển bền
vững của ĐTVT. Khoảng cách tối ưu của
một ĐTVT với đô thị trung tâm (ĐTTT) là
từ 30-40km (30-40 phút di chuyển phương
tiện công cộng). Nếu khoảng cách ngắn
hơn, các ĐTVT sẽ có nguy cơ bị bành
trướng bởi sự mở rộng không gian của đô
thị trung tâm dẫn tới việc cả chùm ĐTVT sẽ
biến thành một đại đô thị. Các ĐTVT không
được hình thành do khoảng cách quá xa,
thiếu kết nối về mặt đô thị với các đô thị
trung tâm như các trường hợp: Rives de
l’Etang de Berre (quy hoạch là vệ tinh của
thành phố Marseille), L’Isle d’Abeau (quy
hoạch là vệ tinh của thành phố Lyon). Để
đảm bảo duy trì khoảng cách tối ưu trên thì
cần kiểm soát được quá trình mở rộng của
đô thị trung tâm và ĐTVT, trong đó việc
kiểm soát và duy trì hành lang xanh cách ly
có tính chất sống còn.
❑ Mô hình quản lý ĐTVT của Paris theo
các mô hình đơn vị hành chính độc lập
là một thành phố (ville) tương đương cấp
xã hoặc gồm nhiều xã liên kết lại dưới
dạng một Cộng đồng đô thị (communauté
urbaine). Mô hình Cộng đồng đô thị là một
cơ chế đặc thù trong quản lý phát triển đô
thị tại Pháp cho phép liên kết nhiều đơn
vị đô thị từ nhỏ đến lớn vì một mục đích
chung là quy hoạch và phát triển đô thị,
kinh tế.
Một số đúc kết cho công tác
quy hoạch và quản lý phát triển
ĐTVT
Xây dựng thể chế cho phát triển ĐTVT: Từ
các kinh nghiệm thành công phát triển các
thành phố vệ tinh đầu tiên tại Vương quốc
Anh và Cộng hòa Pháp cho thấy vai trò
quan trọng về hoạch định chính sách của
nhà nước. Việc quy hoạch phát triển các
ĐTVT không chỉ bó hẹp trong trách nhiệm
của chính quyền thành phố (hoặc Vùng)
mà được xem như các dự án lợi ích quốc
gia từ đó tạo ra điều kiện cho tập trung các
nguồn lực phát triển.
Hình 5: Sơ đồ vị trí thành phố Marne-la-Vallée và nội đô Paris
11SË 95+96 . 2018
Lộ trình thực hiện: Quá trình quy hoạch phát triển các ĐTVT được
thực hiện theo lộ trình hợp lý. Nhà nước tham gia trong giai đoạn
quy hoạch, đầu tư xây dựng sau đó chuyển giao cho chính quyền
địa phương trong giai đoạn quản lý vận hành. Sự chuyển giao từ
mô hình trực tiếp của nhà nước (các Cơ quan quy hoạch phát triển)
sang cho chính quyền địa phương theo mô hình cộng đồng đô thị
tại Pháp là ví dụ điển hình.
Mô hình đầu tư xây dựng: Quá trình xây dựng các ĐTVT đầu tiên
tại London-Vương quốc Anh cho thấy vai trò của các cá nhân, các
doanh nghiệp BĐS, trong đầu tư xây dựng và tổ chức quản lý khai
thác, nhận thức của người dân về những ưu điểm của mô hình đô
thị mới đã tạo nên sự thành công của các ĐTVT.
Mô hình quản lý vận hành: Các ĐTVT tại thành phố Paris đều
được quy hoạch xây dựng trên địa bàn nhiều xã (đơn vị hành chính
tương đương cấp thành phố tại đô thị, cấp xã tại nông thôn). Trong
giai đoạn đầu tư xây dựng, các ĐTVT được quản lý bởi các Cơ
quan đầu tư phát triển công do Chính phủ lập ra bao gồm các đại
diện của Chính phủ và chính quyền các địa phương liên quan. Quá
trình quản lý vận hành các ĐTVT sau khi xây dựng xong được áp
dụng theo mô hình thành phố độc lập hoặc “Cộng đồng đô thị”
bao gồm đại diện của tất các các đơn vị hành chính (xã) liên quan.
Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Cộng đồng đô thị được
pháp luật quy định rõ trong Luật với 06 nhóm chức năng cụ thể,
bao gồm:
❑ Phát triển quy hoạch kinh tế-văn hóa-xã hội
❑ Quy hoạch không gian cộng đồng
❑ Cân bằng xã hội về nhà ở
❑ Chính sách với các khu phố nhạy cảm
❑ Quản lý các dịch vụ công ích
❑ Chính sách về không gian môi trường sống.
Việc tạo ra mô hình Cộng đồng đô thị (nằm trong Mô hình liên xã,
trong đó Cộng đồng đô thị áp dụng cho khu vực đô thị và Cộng
đồng liên xã áp dụng cho khu vực nông thôn) cùng với việc quy
định rõ các chức năng nhiệm vụ cho phép tạo ra cơ chế phối hợp
nhiều địa phương (nằm trong địa giới của ĐTVT) trong công tác
điều hành và quản lý phát triển các ĐTVT tại Pháp.
Các bài học kinh nghiệm về quy hoạch phát triển và quản lý ĐTVT
tại các nước sẽ góp phần định hướng cho việc nghiên cứu tìm ra
mô hình quản lý phát triển phù hợp cho các đô thị Hà Nội có tính
đến các đặc thù phát triển của từng đô thị, phân biệt rõ giữa quản
lý đô thị và nông thôn, tăng cường pha