Đặt vấn đề: Kỹ thuật sinh thiết thận qua da dưới hướng dẫn siêu âm cho thấy có nhiều ưu điểm và ngày
càng được ứng dụng rộng rãi, tuy nhiên biến chứng trong và sau sinh thiết thận vẫn được theo dõi và báo cáo.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm.
Mục tiêu: xác định tỷ lệ biến chứng sinh thiết thận ở bệnh nhân viêm cầu thận được thực hiện sinh thiết tại
khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2011 đến 06/2012.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 148 bệnh nhân được chẩn đoán
xác định viêm cầu thận và thực hiện sinh thiết thận tại khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2011 đến
6/2012.
Kết quả: Trong tổng số 148 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ 1,8/1. Tuổi trung bình của các đối
tượng nghiên cứu là 30,3 ± 10,6. Tỷ lệ bệnh nhân làm nông cao nhất chiếm 45,9% (n=68), điều này cũng phù
hợp với địa dư bệnh nhân sinh sống chủ yếu là vùng nông thôn. Tỷ lệ bệnh nhân viêm cầu thận lupus và viêm
cầu thận có hội chứng thận hư chiếm chủ yếu trong các bệnh nhân được chỉ định sinh thiết thận. Một số bệnh
nhân đợt cấp suy thận mạn có tỷ lệ 7,4%. Tỷ lệ bệnh nhân được thực hiện sinh thiết không có biến chứng nặng
là 95,3%, chỉ có 4,7 % bệnh nhân có biến chứng nặng bao gồm đái máu đại thể và tụ máu quanh thận. Các biến
chứng nặng như đái máu nặng cần truyền máu, dò động tĩnh mạch, can thiệp ngoại khoa không gặp trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Kết luận: Sinh thiết thận nên được xem là một phương pháp an toàn và có tỷ lệ biến chứng thấp khi được
thực hiện đúng chỉ định và trong điều kiện vô khuẩn tốt.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ các biến chứng sinh thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm ở bệnh nhân viêm cầu thận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 82
TỶ LỆ CÁC BIẾN CHỨNG SINH THIẾT THẬN
DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM Ở BỆNH NHÂN VIÊM CẦU THẬN
Vương Tuyết Mai*, Phạm Nữ Nguyệt Quế**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Kỹ thuật sinh thiết thận qua da dưới hướng dẫn siêu âm cho thấy có nhiều ưu điểm và ngày
càng được ứng dụng rộng rãi, tuy nhiên biến chứng trong và sau sinh thiết thận vẫn được theo dõi và báo cáo.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm.
Mục tiêu: xác định tỷ lệ biến chứng sinh thiết thận ở bệnh nhân viêm cầu thận được thực hiện sinh thiết tại
khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2011 đến 06/2012.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 148 bệnh nhân được chẩn đoán
xác định viêm cầu thận và thực hiện sinh thiết thận tại khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch Mai từ 12/2011 đến
6/2012.
Kết quả: Trong tổng số 148 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ 1,8/1. Tuổi trung bình của các đối
tượng nghiên cứu là 30,3 ± 10,6. Tỷ lệ bệnh nhân làm nông cao nhất chiếm 45,9% (n=68), điều này cũng phù
hợp với địa dư bệnh nhân sinh sống chủ yếu là vùng nông thôn. Tỷ lệ bệnh nhân viêm cầu thận lupus và viêm
cầu thận có hội chứng thận hư chiếm chủ yếu trong các bệnh nhân được chỉ định sinh thiết thận. Một số bệnh
nhân đợt cấp suy thận mạn có tỷ lệ 7,4%. Tỷ lệ bệnh nhân được thực hiện sinh thiết không có biến chứng nặng
là 95,3%, chỉ có 4,7 % bệnh nhân có biến chứng nặng bao gồm đái máu đại thể và tụ máu quanh thận. Các biến
chứng nặng như đái máu nặng cần truyền máu, dò động tĩnh mạch, can thiệp ngoại khoa không gặp trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Kết luận: Sinh thiết thận nên được xem là một phương pháp an toàn và có tỷ lệ biến chứng thấp khi được
thực hiện đúng chỉ định và trong điều kiện vô khuẩn tốt.
Từ khoá: sinh thiết thận, viêm cầu thận
ABSTRACT
THE RATE OF COMPLICATIONS REGARDING PERCUTANEOUS RENAL BIOPSY UNDER
ULTRASOUND GUIDANCE PERFORMED IN GLOMERULONEPHRITIS PATIENTS
Vuong Tuyet Mai, Pham Nu Nguyet Que
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 82 ‐ 87
Background: Percutaneous renal biopsy under ultrasound guidance showed many advantages and was
increasingly widely used, however complications regarding renal biopsy and still was tracked and reported. We
conducted the study with the aim: to determine the rate of complications in glomerulonephritis patients with
renal biopsy biopsies that were done at the Department of Nephro‐Urology, Bach Mai Hospital from 12/2011 to
06/2012.
Patients and methods: The prospective study was performed on 148 patients who were diagnosed
glomerulonephritis and have done renal biopsies at the Neph‐Urology Department, Bach Mai Hospital from
9/2011 to 8/2012.
Results: 148 patients were involved in this study. The rate of female/male approximately 1.8/1. The mean
* Bộ môn Nội tổng hợp ĐH Y Hà Nội. ** Khoa Thận‐Tiết Niệu, Bệnh viện Hữu Nghị
Tác giả liên lạc: TS. Vương Tuyết Mai. ĐT: 0915518775. Email: vuongtuyetmai@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 83
age of patients were 30.3 ± 10.6 years old. The highest percentage of farming patients was 45.9% (n=68), which
was consistent with the geography of patients living mainly in rural areas. Percentage of patients with lupus
glomerulonephritis and nephrotic syndrome dominated in patients with a renal biopsy was indicated. There are
some patients with chronic renal failure, the rate was 7.4%. Patients without performing renal biopsy without
serious complications was 95.3%, only 4.7% of patients had severe complications that included hematuria and
hematoma around the kidney. Severe complications such as severe hematuria requiring transfusion, intravenous
autotuning, and surgical intervention were not found in our study.
Conclusions: Renal biopsy should be considered a safe technique with the low rate of complication if
performing with appropriate indication and good aseptic conditions.
Keywords: renal biopsy, glomerulonephritis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sinh thiết thận là kỹ thuật lấy mảnh tổ chức
thận và đánh giá tổn thương mô bệnh học của
bệnh lý thận dưới kính hiển vi. Kỹ thuật sinh
thiết thận qua da đã được giới thiệu lần đầu tiên
vào năm 1951 bởi Iversen và Brun(3) và trải qua
nhiều thời kỳ và ngày càng trở nên an toàn và
hiệu quả hơn. Bên cạnh kỹ thuật sinh thiết thận
mở do các nhà ngoại khoa tiến hành, sinh thiết
thận qua da tỏ ra có nhiều ưu điểm và dễ tiến
hành hơn.Trong đó, kỹ thuật sinh thiết thận qua
da dưới hướng dẫn siêu âm cho thấy có nhiều
ưu điểm và ngày càng được ứng dụng rộng rãi.
Nhờ có siêu âm, việc xác định vị trí sinh thiết trở
nên chính xác, đơn giản và dễ thực hiện, không
tốn kém, an toàn và hiệu quả cao.Tuy nhiên biến
chứng trong và sau sinh thiết thận vẫn được
theo dõi và báo cáo.Thông thường, bệnh nhân
sau sinh thiết được theo dõi trong vòng 24h đầu
tiên do biến chứng chủ yếu xuất hiện trong thời
gian này. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm
Mục tiêu
Xác định tỷ lệ biến chứng sinh thiết thận ở
bệnh nhân viêm cầu thận được thực hiện sinh
thiết tại khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch
Mai từ 12/2011 đến 06/2012.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu tiến cứu được thực hiện trên 148
bệnh nhân trên 16 tuổi, tự nguyện tham gia
nghiên cứu, được chẩn đoán xác định bệnh cầu
thận, có chỉ định và thực hiện sinh thiết thận tại
khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện Bạch Mai từ
tháng 12/ 2011 đến tháng 6/2012.
Sinh thiết thận qua da dưới hướng dẫn siêu
âm được thực hiện bằng súng tự động súng
Bard® Magnum®
(
m.php) tại Khoa Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch
Mai.
Đánh giá biến chứng của sinh thiết thận
Biến chứng nặng được định nghĩa là đái
máu đại thể, hoặc bệnh nhân có máu tụ, hoặc
chảy máu đến mức ảnh hưởng đến huyết động
cần truyền máu và/hoặc nút thông động tĩnh
mạch, can thiệp ngoại khoa(8).
Các thông tin thu thập theo mẫu bệnh án
nghiên cứu với các thông số thống nhất. Các số
liệu được mã hóa và xử lý bằng chương trình
SPSS 17.0.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Trong tổng số 148 bệnh nhân nghiên cứu, tỷ
lệ nữ/nam xấp xỉ 1,8/1. Tuổi trung bình của các
đối tượng nghiên cứu là 30,3 ± 10,6.
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi không
có trẻ em và cũng không có nhiều bệnh nhân
già. Số bệnh nhân trên 50 tuổi chỉ chiếm tỷ lệ
7,4% trong tổng số những bệnh nhân sinh thiết
thận. Thêm nữa tuổi cao nhất tiến hành sinh
thiết cũng chỉ là 61 tuổi nên thủ thuật thực hiện
tương đối thuận lợi và không có những biến
chứng liên quan đến tuổi quá nhỏ hoặc quá lớn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 84
tuổi.
Bảng 1. Phân loại bệnh nhân theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Học sinh, sinh viên 29 19,6
Làm ruộng 68 45,9
Công nhân 8 5,4
Công chức văn phòng 23 15,5
Nội trợ 2 1,4
Buôn bán tự do 18 12,2
Tổng số 148 100
Tỷ lệ bệnh nhân làm ruộng cao nhất chiếm
45,9% (n=68), điều này cũng phù hợp với địa dư
bệnh nhân sinh sống chủ yếu là vùng nông thôn.
Tiếp theo đó là tỷ lệ học sinh và sinh viên chiếm
19,6% (n=29).
Điều này cũng phù hợp với phân bố về địa
dư, bệnh nhân sinh sống chủ yếu ở nông thôn
chiếm tỷ lệ 79,1% (n=117) như vậy tỷ lệ nông
thôn/thành thị xấp xỉ 4/1.
Bảng 2. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo chẩn
đoán lâm sàng trước khi chỉ định sinh thiết thận
Chẩn đoán lâm sàng Số bệnh nhân Tỷ lệ %
VCT Lupus 15 10,1
VCT Lupus có HCTH 26 17,6
VCT Lupus có NKH 2 1,4
VCT Lupus có BC Suy thận 26 17,6
VCT Lupus có BC tắc mạch 2 1,4
VCT có HCTH 63 42,6
Bệnh thận IgA 3 2,0
Đợt cấp suy thận mạn 11 7,4
Tổng số 148 100
Tỷ lệ bệnh nhân viêm cầu thận lupus và
viêm cầu thận có hội chứng thận hư chiếm chủ
yếu trong các bệnh nhân được chỉ định sinh
thiết thận. Một số bệnh nhân đợt cấp suy thận
mạn có tỷ lệ 7,4%.
Biến chứng sau sinh thiết thận
Tỷ lệ biến chứng nặng sau sinh thiết thận
Tỷ lệ bệnh nhân được thực hiện sinh thiết
không có biến chứng nặng là 95,3%. Chỉ có 4,7 %
bệnh nhân có biến chứng nặng là đái máu đại
thể.
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bệnh nhân có biến chứng nặng sau
sinh thiết
Tỷ lệ tất cả các loại biến chứng sau sinh thiết thận
Bảng 3. Tỷ lệ xuất hiện một số biến chứng sau sinh
thiết thận trong 24 giờ đầu và sau sinh thiết 1 tuần
Biến chứng
Sau sinh thiết 24h
đầu
Sau sinh thiết 1
tuần
Số BN
(n=148) Tỷ lệ %
Số BN
(n=148) Tỷ lệ %
Chảy máu vị trí sinh
thiết 0 0 0 0
Đái máu đại thể 7 4,7 0 0
Tụ máu dưới bao
thận 1 0,7 1 0,7
Dò động tĩnh mạch 0 0 0 0
Can thiệp ngoại
khoa 0 0 0 0
Truyền máu 0 0 0 0
Sốt 7 4,7 0 0
Bí đái 9 6,1 0 0
Vô niệu 0 0 0 0
Tỷ lệ biến chứng thường gặp ngay sau sinh
thiết là bí đái chiếm tỷ lệ 6,1%, sốt là 4,7%, đái
máu đại thể là 4,7%. Tụ máu dưới bao thận chỉ
gặp ở 01 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 0,7%. Các biến
chứng nặng như đái máu nặng cần truyền máu,
dò động tĩnh mạch, can thiệp ngoại khoa không
gặp trong nghiên cứu của chúng tôi.
Đánh giá lại các biến chứng sau một tuần thì
các biến chứng như bí đái, sốt thì không còn
thấy các triệu chứng. Tuy nhiên biến chứng tụ
máu dưới bao thận ở 01 bệnh nhân thì vẫn còn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 85
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi báo cáo về biến
chứng trong sinh thiết thận là nghiên cứu tiến
cứu có số lượng bệnh nhân người lớn là 148 đối
tượng nghiên cứu ≥16 tuổi tại Việt Nam trong
thời gian 2011 đến 2012. Nghiên cứu về biến
chứng là để đánh giá tính an toàn thủ thuật thực
hiện trong lâm sàng. Việc đánh giá sự an toàn
của thận sinh thiết được đặc trưng bởi các nguy
cơ tổng thể và chủ yếu là tần số xuất hiện các
biến chứng nặng. Trong nghiên cứu của chúng
tôi biến chứng nặng được định nghĩa là đái máu
đại thể, truyền máu và/hoặc nút thông động tĩnh
mạch, can thiệp ngoại khoa(8).
Do độ tuổi nghiên cứu của chúng tôi không
có trẻ em và cũng không có nhiều bệnh nhân
già. Số bệnh nhân trên 50 tuổi chỉ chiếm tỷ lệ
7,4% trong tổng số những bệnh nhân sinh thiết
thận. Thêm nữa tuổi cao nhất tiến hành sinh
thiết cũng chỉ là 61 tuổi. Do vậy cũng tạo thuận
lợi cho quá trình sinh thiết không có xuất hiện
những biến chứng do ảnh hưởng của tuổi quá
nhỏ hoặc tuổi quá già.
Trong chỉ định tiến hành sinh thiết thận tỷ lệ
chiếm cao nhất trong nghiên cứu của chúng tôi
là chẩn đoán trước sinh thiết với VCT có HCTH
chiếm tỷ lệ 42,6% sau đó là đến viêm cầu thận
lupus, tuy nhiên nhóm chẩn đoán viêm câu thận
lupus được phân ra nhiều nhóm nhỏ với chẩn
đoán cụ thể hơn theo các xuất hiện biến chứng
trên thận. Trong đó tỷ lệ viêm cầu thận lupus có
hội chứng thận hư cũng chiếm tỷ lệ khá cao
17,6% (n=26) trong tổng số bệnh nhân sinh thiết
thận. Kết quả nghiên cứu này cũng tương đối
phù hợp với nghiên cứu hồi cứu 17 năm ở Tây
Ban Nha với tổng số 797 sinh thiết thận qua da
thì chẩn đoán trước sinh thiết là 23,4% là hội
chứng thận hư (n=186)(7).
Kết quả về tỷ lệ biến chứng thấp và an toàn
trong thủ thuật sinh thiết thận dưới hướng dẫn
siêu âm của chúng tôi phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Camilla Tondel và CS. với tỷ lệ
bệnh nhân được sinh thiết an toàn, không có
biến chứng nặng như đái máu đại thể, truyền
máu, nút thông động tĩnh mạch và can thiệp
ngoại khoa là 97,9% ở cả người lớn và trẻ em với
cỡ mẫu là 9288 đối tượng nghiên cứu, trong đó
715 trẻ em và 8573 người lớn ≥ 18 tuổi(9). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ sinh thiết thận
được thực hiện an toàn, không có biến chứng
nặng là 95,3%. Nghiên cứu của Farida Hussain
và CS. năm 2009 tại London, Anh cũng cho thấy
kết quả báo cáo về tỷ lệ biến chứng trong sinh
thiết thận thậm chí ở ở trẻ em cũng được thực
hiện an toàn và hiệu quả(2).
Thậm chí việc thực hiện sinh thiết thận
bằng súng sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm
đã trở thành một quy trình chuẩn trong điều trị
trẻ em ở nhiều nơi trên thế giới. Kersnik Levart
T thực hiện nghiên cứu hồi cứu từ tháng 01
năm 1994 đến tháng 10 năm 1999, 88 sinh thiết
thận được thực hiện trên 81 đối tượng (35 nam
và 46 nữ, độ tuổi từ 3‐20 tuổi). Không có biến
chứng nghiêm trọng được ghi nhận. Tỷ lệ các
trường hợp sinh thiết lấy được mảnh sinh thiết
an toàn theo chuẩn về số lượng cầu thận dao
động từ 93,1% đến 96,6%, tùy thuộc vào định
nghĩa về về số lượng đủ của các cầu thận trong
các mẫu mô thận được sử dụng. Kết quả nghiên
cứu xác nhận rằng sinh thiết thận bằng súng
sinh thiết dưới hướng dẫn sinh âm là một thủ
thuật an toàn và cung cấp thông tin rất có lợi ích
cho bệnh nhân(4).
Tuy nhiên trong một số nghiên cứu sinh
thiết thận ở các trẻ em nhỏ thì tỷ lệ biến chứng
có tăng hơn. Al Rasheed S.A. và CS. nghiên cứu
thực hiện ở 120 sinh thiết thận qua da được thực
hiện trong 104 bệnh nhân tuổi từ 01 tháng đến
15 năm cho thấy trong các biến chứng thì
thường gặp nhất là đái ra máu đại thể, xảy ra
trong 32 bệnh nhân sau thực hiện sinh thiết
(30%), nhưng chỉ có 5 trẻ em cần truyền máu
(4,8%). Có 09 bệnh nhân có biến chứng tụ máu
quanh thận (8,6%). Thông động tĩnh mạch
(Arteriovenous fistula) đã được chẩn đoán ở 2
bệnh nhân (1,9%). Biến chứng nghiêm trọng đã
được ghi nhận ở những bệnh nhân suy thận
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 86
mạn tính khi thực hiện sinh thiết(5). Như vậy ở
trẻ em quá nhỏ khi thực hiện sinh thiết thận, tần
số của các biến chứng nghiêm trọng về sinh thiết
thận trong nghiên cứu này là hơi cao hơn so với
ở các nước phát triển như tiến hành ở Na Uy và
Anh trong các nghiên cứu bàn luận phía trên khi
sinh thiết ở trẻ lớn hơn từ 3 tuổi trở lên hoặc sinh
thiết thận ở người lớn(9,2).
Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với
một số nghiên cứu khác ở trong nước như
nghiên cứu của Đinh Thị Kim Dung và CS năm
1998 cho thấy tỉ lệ biến chứng thấp có 7/103
trường hợp chiếm 6,95% trong đó có 6 trường
hợp đái máu đại thể chiếm 5,9% và 1 trường hợp
tụ máu dưới bao thận chiếm 1%(1). Theo Nguyễn
Thị Thuần và CS năm 2011 đái máu đại thể có 1
trường hợp chiếm 3,12% và có 1 trường hợp
chọc vào cơ (3,12%)(1). Theo Trần Thị Bích
Hương và CS nghiên cứu năm 2012 cho thấy có
3/68 trường hợp biến chứng sau sinh thiết chiếm
4,41% trong đó có 1 trường hợp đái máu đại thể
chiếm tỷ lệ 1,47% và 2 trường hợp máu tụ thận
sinh thiết là 2 trường hợp chiếm tỷ lệ 2,94%(10).
Theo Tạ Phương Dung (2010) thì tỷ lệ biến
chứng cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi
với 52 trường hợp tụ máu quanh thận chiếm
27%, 5 đái máu đại thể chiếm 2,5% và 1 trường
hợp nhiễm trùng. Tỷ lệ biến chứng cao hơn theo
như chính tác giả nhận xét thì có thể do chưa có
kinh nghiệm, việc phối hợp giữa siêu âm và
chọc sinh thiết những động tác kỹ thuật chưa
chuẩn, tư thế bệnh nhân, thể trạng bệnh nhân
(phù, béo...), xác định vị trí thận, hướng kim
sinh thiết đã ảnh hưởng đến kết quả(6).
Tuy phân tích của chúng tôi xếp đái máu đại
thể vào biến chứng nặng nhưng theo một số
nghiên cứu lớn hiện nay,theo nhiều tác giả thậm
chí đái máu đại thể không nên được coi là biến
chứng nghiêm trọng trừ khi chảy máu với một
cường độ đáng kể gây giảm nồng độ
hemoglobin hoặc làm tăng thời gian phải nằm
bệnh viện điều trị nội trú của bệnh nhân.
Phân tích kỹ hơn tỷ lệ biến chứng thường
gặp ngay sau sinh thiết trong nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy là bí đái chiếm tỷ lệ 6,1%, sốt
là 4,7%, đái máu đại thể là 4,7%. Tụ máu dưới
bao thận chỉ gặp ở 01 BN chiếm tỷ lệ 0,7%. Tuy
nhiên các biến chứng khi được đánh giá lại sau
một tuần thì các biến chứng như bí đái, sốt và kể
cả đái máu không còn thấy các biến chứng này
tồn tại. Duy nhất biến chứng tụ máu dưới bao
thận ở 01 bệnh nhân thì vẫn còn trên kết quả
đánh giá siêu âm sau 01 tuần. Như vậy chúng
tôi nhận thấy rằng trong các biến chứng được
xếp vào là biến chứng nặng như đái máu đại thể
nếu không thực sự ảnh hưởng đến huyết động
và bệnh nhân phải truyền máu thì biến chứng
đái máu đại thể thực sự ảnh hưởng nhiều đến
toàn trạng của bệnh nhân.
Kết quả so sánh tỷ lệ xuất hiện biến chứng
của chúng tôi cho thấy sự xuất hiện biến chứng
chủ yếu xuất hiện ở thời điểm 24h đầu sau sinh
thiết. Kết quả cũng như hầu hết các nghiên cứu
đã được báo cáo tỷ lệ biến chứng tổng thể quan
sát chủ yếu xuất hiện trong 24h đầu. So sánh với
nghiên cứu của William L.W. và Stephen M.K.
tại Chicago xem xét 9595 trường hợp sinh thiết
trong vòng 50 năm cho thấy biến chứng đã xảy
ra trong 13% sinh thiết thận trong đó 6,4% các
biến chứng được coi là biến chứng nặng trong
đó chủ yếu cần phải truyền máu sau khi sinh
thiết. Trong đó tỷ lệ 67% bệnh nhân có biến
chứng xảy ra trong 8 giờ đầu và 90% trong số
này là xảy ra 24h đầu. Trong nghiên cứu này
cũng cho thấy hầu hết các biến chứng nếu
không trầm trọng thì sẽ được tự hồi phục không
cần can thiệp tuy nhiên với những trường hợp
biến chứng nặng thì nên được theo dõi và có
hướng xử trí kịp thời(11).
KẾT LUẬN
Kết luận có ý nghĩa nhất trong nghiên cứu
của chúng tôi là sinh thiết thận nên được xem là
một phương pháp an toàn khi được thực hiện
đúng chỉ định và trong điều kiện vô khuẩn tốt.
Kết luận của chúng tôi xác nhận thủ thuật sinh
thiết thận dưới hướng dẫn siêu âm thực hiện tại
khoa Thận‐Tiết niệu, bệnh viện Bạch Mai là thủ
thuật an toàn và có biến chứng thấp. Những
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 87
biến chứng nặng như là dò động tĩnh mạch và
can thiệp ngoại khoa để cắt thận không xuất
hiện trong nghiên cứu của chúng tôi.
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn ban chủ nhiệm, các
bác sỹ, kỹ thuật viên và điều dưỡng khoa Giải
phẫu bệnh và Thận‐Tiết niệu, Bệnh viện Bạch
Mai đã tạo điều kiện cho chúng tôi trong quá
trình nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Thị Kim Dung, Đỗ Thị Liệu, Phan Thị Xuân Hương, Đỗ
Gia Tuyển và Ngô Thị Sửu. (1998). Giới Thiệu kỹ Thuật Sinh
Thiết Thận dưới hướng dẫn của siêu âm. Kỷ yếu khoa học
Bệnh viện Bạch Mai Tập 2. Tr 35‐42.
2. Hussain F, Mallik M, Marks SD, Watson AR. Renal biopsies
in children: current practice and audit of outcomes. Nephrol
Dial Transplant 25: 485‐9.
3. Iversen P, Brun C. (1951). Aspiration biopsy of the kidney.
Am J Med 11: 324‐30.
4. Kersnik LT, Kenig A, Buturovic PJ, Ferluga D, Avgustin CM,
Kenda RB. (2001). Real‐time ultrasound‐guided renal biopsy
with a biopsy gun in children: safety and efficacy. Acta
Paediatr 90: 1394‐7.
5. Rasheed SA, al Mugeiren MM, Abdurrahman MB, Elidrissy
AT. (1990). The outcome of percutaneous renal biopsy in
children: an analysis of 120 consecutive cases. Pediatr
Nephrol 4: 600‐3.
6. Tạ Phương Dung và Nguyễn Hồng Sơn. (2010). Kết quả sinh
thiết bằng kim cắt tụ động dưới hướng dẫn của siêu âm.Tạp
chí y dược lâm sàng 108.Tr 38‐42.
7. Toledo K, Perez MJ, Espino