Mục tiêu: Ghi nhận những biểu hiện lâm sàng và giải phẫu bệnh của diệp thể tuyến vú (PTs) và hồi cứu y
văn để rút kinh nghiệm trong việc chẩn đoán xác định PTs.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả 20 trường hợp u diệp thể tuyến vú được chẩn
đoán tại Bệnh viện C Đà Nẵng và Bệnh viện Phụ Nữ Đà Nẵng từ năm 2004 đến năm 2010.
Kết Quả: Qua nghiên cứu cho thấy u chiếm 2,3% trường hợp bệnh lý tuyến vú của nữ giới. Tất cả các
trường hợp đều tìm thấy ở bệnh nhân trên 30 tuổi mà đỉnh cao là lứa tuổi 40 – 50 tuổi, 60% trường hợp, 45%
trường hợp u ở vú phải và 55% ở vú trái, 45% trường hợp khu trú ở ¼ trên ngoài vú. 60%trường hợp u có kích
thước lớn hơn 5cm. Chỉ 20% trường hợp u được chẩn đoán tế bào phù hợp với mô bệnh học. U giáp biên ác
chiếm 20% và u ác chiếm 10% trường hợp. Chẩn đoán PTs phải được nghĩ đến khi khối u tiến triển nhanh thay
đổi kích thước đột ngột, có kích thước trên 3cm, ở bệnh nhân trên 35 tuổi và khối u tái phát nhanh, trên tiêu bản
có hình ảnh quá phát mô đệm.Hiện tại chẩn đoán mô bệnh học vẫn còn là một xét nghiệm có giá trị đối với diệp
thể tuyến vú. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch và sinh học phân tử đang còn hạn chế trong chẩn đoán, đánh giá tiến
triển của PTs và cần được nhiều nghiên cứu sâu rộng hơn.
Kết luận: Chẩn đoán PTs có thể vẫn còn gặp khó khăn. Chính sự kết hợp Lâm sàng Giải Phẫu Bệnh sẽ giúp
cho việc chẩn đoán u được chính xác hơn, góp phần cho việc điều trị thuận lợi và hiệu quả cho bệnh nhân
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 263 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu U diệp thể tuyến vú: Hình ảnh lâm sàng – giải phẫu bệnh qua 20 trường hợp và hồi cứu y văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 115
U DIỆP THỂ TUYẾN VÚ: HÌNH ẢNH LÂM SÀNG – GIẢI PHẪU BỆNH
QUA 20 TRƯỜNG HỢP VÀ HỒI CỨU Y VĂN
Trần Hòa*
Mục tiêu: Ghi nhận những biểu hiện lâm sàng và giải phẫu bệnh của diệp thể tuyến vú (PTs) và hồi cứu y
văn để rút kinh nghiệm trong việc chẩn đoán xác định PTs.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả 20 trường hợp u diệp thể tuyến vú được chẩn
đoán tại Bệnh viện C Đà Nẵng và Bệnh viện Phụ Nữ Đà Nẵng từ năm 2004 đến năm 2010.
Kết Quả: Qua nghiên cứu cho thấy u chiếm 2,3% trường hợp bệnh lý tuyến vú của nữ giới. Tất cả các
trường hợp đều tìm thấy ở bệnh nhân trên 30 tuổi mà đỉnh cao là lứa tuổi 40 – 50 tuổi, 60% trường hợp, 45%
trường hợp u ở vú phải và 55% ở vú trái, 45% trường hợp khu trú ở ¼ trên ngoài vú. 60%trường hợp u có kích
thước lớn hơn 5cm. Chỉ 20% trường hợp u được chẩn đoán tế bào phù hợp với mô bệnh học. U giáp biên ác
chiếm 20% và u ác chiếm 10% trường hợp. Chẩn đoán PTs phải được nghĩ đến khi khối u tiến triển nhanh thay
đổi kích thước đột ngột, có kích thước trên 3cm, ở bệnh nhân trên 35 tuổi và khối u tái phát nhanh, trên tiêu bản
có hình ảnh quá phát mô đệm.Hiện tại chẩn đoán mô bệnh học vẫn còn là một xét nghiệm có giá trị đối với diệp
thể tuyến vú. Kỹ thuật hóa mô miễn dịch và sinh học phân tử đang còn hạn chế trong chẩn đoán, đánh giá tiến
triển của PTs và cần được nhiều nghiên cứu sâu rộng hơn.
Kết luận: Chẩn đoán PTs có thể vẫn còn gặp khó khăn. Chính sự kết hợp Lâm sàng Giải Phẫu Bệnh sẽ giúp
cho việc chẩn đoán u được chính xác hơn, góp phần cho việc điều trị thuận lợi và hiệu quả cho bệnh nhân.
ABSTRACT
PHYLLODE TUMOR OF THE BREAST: A CLINICOPATHOLOGY OF TWENTY CASES AND REVIEW
OF LITERATURE
Tran Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 114 - 122
Background: Phyllode tumor of the breast (PTs) is an uncommon neoplasm and is difficult to distinguish
from fibroadenoma. The purpose of this study is to analyse the clinicopathological characteristics of patients with
PTs to provide clinicians and pathologists with the understanding of phyllode tumor.
Materials and Methods: this was a retrospective study of 20 women with PTs, who were managed at Da
nang C Hospital and Da nang Women’s Hospital between 2004 and 2010.
Results: PTs account for 2.3% of all breast diseases, all of them are females. All of the PTs occurred in
patients over age 30, with a peak incidence between 40 – 50 years comprising 60 % of cases. 45% of cases had
tumors occurred in the right, 55% in the left. PTs showed no predilection for side but were more common in the
upper half of the breast, particularly in the upper outer quadrant, 45% of cases. 60 % of cases had tumors larger
than 5 cm in diameter. Only 20% of cases were correctly cytological diagnosed and the ratio of clinical diagnosis
to pathological one is low (10%). The histopathology report showed that the proportion of benign, borderline and
malignant PTs was 70%, 20% and 10% of cases, respectively. The diagnosis should be considered in patients
with their breast nodules growing rapidly, increasing suddenly in size on a longstanding lesion, larger than 3 cm
in diameter, or in ones over 35 years old having local tumor recurrence, or presenting with hypercellular stroma.
Presently, the histopathological classification seems to be the strongest prognostic factor in PTs. Molecular and
immunohistochemical techniques play a limited role in the diagnosis of this tumor.
* Bệnh viện C Đà Nẵng
Tác giả liên lạc: BS. Trần Hòa ĐT: 0905.325.858 Email: tranhoadok@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 116
Conclusions: The diagnosis of PTs may be difficult. The presence of stroma overgrowth and the combining
clinical and pathological results seem to be the key to recognizing phyllode tumor.
ĐẶT VẤN ĐỀ
U diệp thể tuyến vú (PT) là một loại u
hiếm gặp, có biểu hiện lâm sàng khá đặc
trưng cho tổn thương vú. Về mặt lâm sàng
việc chẩn đoán bệnh không quá khó khăn khi
đánh giá được sự tiến triển của u. Tuy nhiên
trong một số trường hợp chẩn đoán lâm sàng
cũng như chẩn đoán giải phẫu bệnh vẫn còn
gặp nhiều khó khăn trong việc định danh
chính xác u diệp thể đã làm cho việc điều trị
không đạt yêu cầu và thỏa đáng cho bệnh
nhân nhất là ở một số tuyến y tế cơ sở đa
khoa có điều kiện điều trị phẫu thuật u.
Qua nghiên cứu này chúng tôi ghi nhận các
biểu hiện lâm sàng – giải phẫu bệnh của u diệp
thể vú để rút kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu
quả chẩn đoán giúp cho lâm sàng có hướng xở
trí thích hợp đối với những trường hợp u diệp
thể được phát hiện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu những bệnh án của bệnh nhân có
kết quả xét nghiệm mô bệnh học cuối cùng là u
diệp thể vú hoặc là u thể lá tuyến vú từ năm
2004 - 2010 tại khoa Giải Phẫu Bệnh - Bệnh Viện
C Đà Nẵng - Đơn vị Giải Phẫu Bệnh của Bệnh
viện Phụ nữ Đà Nẵng.
Ghi nhận các yếu tố lâm sàng: Giới - tuổi, vị
trí u - kích thước u – tiến triển u – chẩn đoán lâm
sàng – chẩn đoán giải phẫu bệnh (về FNA, về
mô học trước đó).
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê
thông thường.
KẾT QUẢ
Ghi nhận được 20 trường hợp u diệp thể
trên tổng số 711 u vú ở bệnh nhân nữ.
Tuổi
Bảng 1:
61
0 6 12 1 1
30% 60% 5% 5%
Vị trí u
Bảng 2:
Vú phải Vú trái Tổng cộng
9 11 20
45% 55% 100%
Bảng 3:
¼ trên ngoài ¼ trên trọng ¼ dưới trong Trọn vú
9 7 1 3
45% 35% 5% 15%
Kích thước u
Bảng 4
2 –5cm 5 – 8cm >8cm
3 5 10 2
15% 25% 50% 10%
Tiến triển u
Bảng 5:
Tiến triển chậm Tiến triển nhanh Tiến triển chậm sau
đó phát triển nhanh
8 9 3
40% 45% 15%
Chẩn đoán lâm sàng
Bảng 6:
U xơ vú U vú lành tính Ung thư vú U diệp thể
12 5 1 2
60% 25% 5% 10%
Chẩn đoán tế bào học
Bảng 7
U xơ vú
lành
tính
U nang
vú
Tăng
sản
tuyến vú
Nghi ngờ
ung thư
Sarcoma
vú
U diệp
thể
11 1 1 2 1 4
55% 5% 5% 10% 5% 20%
Chẩn đoán mô bệnh học trước đó: Ghi nhận
trong những trường hợp u diệp thể tái phát
được chẩn đoán là u xơ vú lành tính 10/20 # 20%
trường hợp.
Phân loại mô bệnh học
Bảng 8:
U lành U giáp biên U ác
14 4 2
70% 20% 10%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 117
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Theo y văn tỷ lệ u diệp thể bắt gặp từ < 1 –
4% tổng số các trường hợp bệnh lý ở vú. Trong
một nghiên cứu về dịch tể khác cho thấy tỷ lệ u
này chiếm từ 2,3 – 3,1 / 1 triệu phụ nữ Mỹ(9,15).
Trong khi đó các nghiên cứu ở Việt Nam cho
thấy tỷ lệ u dao động từ 2 – 5 % tùy theo sự ghi
nhận của các tác giả, tùy vào đơn vị và thời
điểm điều trị bệnh nhân(7,13,23). Tại đơn vị của
chúng tôi tỷ lệ u diệp thể / bệnh lý tuyến vú
chiếm khoảng 2,3% trường hợp, nằm trong giới
hạn ghi nhận của các tác giả khác.
Kết quả này cho thấy tỷ lệ mắc bệnh u diệp
thể ở nước ta cao hơn ở các nước Âu Mỹ. Điều
này đã được một số tác giả ghi nhận là u diệp
thể có tỉ lệ cao ở phụ nữ Châu Á và phụ nữ da
trắng ở khu vực Châu Mỹ La Tinh(8,9,14).
Về giới – tuổi
Trong 20 trường hợp của chúng tôi u diệp
thể đều gặp ở nữ giới phù hợp với nhận định
của y văn: Đa số trường hợp u diệp thể đều gặp
ở bệnh nhân nữ. Tuy nhiên u diệp thể cũng có
gặp ở nam giới, chỉ có 10 trường hợp được
thông báo trong đó có 6 trường hợp phát hiện
trong tình trạng bệnh lý nữ hóa tuyến vú nam
giới(6).
Các tác giả khác đều ghi nhận u diệp thể
thường gặp nhất ở lứa tuổi 35-55 tuổi, lớn hơn
20 tuổi so với u xơ vú lành tính. Tuổi trung bình
là 39,6 tuổi, 47 tuổi, 52 tuổi tùy theo sự ghi nhận
của các tác giả khác nhau(6,15,11).
Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho
thấy ở độ tuổi 40-50 có tỷ lệ mắc bệnh u diệp thể
cao hơn hẳn các nhóm tuổi khác chiếm 60%
trường hợp và không tìm thấy u ở < 30 tuổi,
tương tự với nghiên cứu khác ở TP Hồ Chí
Minh vào hai thời điểm khác nhau(7,13). Một
nghiên cứu khác cho thấy u diệp thể cũng có thể
gặp ở lứa tuổi < 20 tuổi(7,12). Một số tác giả còn
nhấn mạnh yếu tố chủng tộc trong u diệp thể,
lứa tuổi mắc bệnh ở phụ nữ Châu Á và Châu
Mỹ La Tinh có xu hướng trẻ hơn nhóm chủng
tộc khác(11) và tỷ lệ tái phát cao hơn(9,11).
Tuổi cũng được coi là một yếu tố quan trọng
có liên quan đến bản chất u diệp thể. U diệp thể
giáp biên ác và ác tính chiếm 77,3% bệnh nhân
lớn tuổi, tỷ lệ ác tính gia tăng có ý nghĩa với lứa
tuổi và được xem là một yếu tố nguy cơ cao khi
bệnh nhân > 35 tuổi(6). Qua nghiên cứu của
Phạm Văn Ngà cũng cho thấy u ác cũng tập
trung ở lứa tuổi 50(13).
Về kích thước u
Kích thước u diệp thể thực sự là một hình
ảnh lâm sàng rất ấn tượng, các y văn đều ghi
nhận u đều có kích thước lớn và thường có sự
tiến triển nhanh kèm theo. Nghiên cứu chúng
tôi 50% khối u có kích thước > 5cm. Theo
Nguyễn Sào Trung 80,8% u diệp thể có kích
thước lớn > 5cm trong đó 56,2% u diệp thể >
8cm(13), các tác giả trong nước cũng ghi nhận u
diệp thể thường có kích thước từ 5-8cm chiếm
40,1%: trung bình là 8,5cm(7,23).
Đối với các tác giả ngoài nước u diệp thể
vẫn có kích thước thường gặp cũng tượng tự
như ở chúng ta. Kích thước u thường nằm trong
khoảng từ 5-7cm, trung bình dao động từ 7 hoặc
8,3cm cho đến 10cm(2,6,15). Trong một thống kê
khác cho thấy: < 5cm chiếm 34,7%, 5-10cm:
44,1%,> 10cm: 21,1% trường hợp(15).
Kích thước u cũng được một số tác giả ghi
nhận có một mối liên quan đến bản chất của u,
đa số khối u quá lớn có khả năng giáp biên ác và
ác tính cao hơn so với u có kích thước nhỏ(9,15,23).
Kích thước những u này trung bình là 79-86mm.
Karim cũng cho rằng u diệp thể có kích
thước lớn hơn u xơ vú từ 4-5cm nhưng không
thể dựa vào đó để chẩn đoán phân biệt u diệp
thể với u xơ vú(9).
Vị trí u
Tỷ lệ mắc bệnh ít có sự khác biệt giữa hai
vú, các nghiên cứu cho thấy có vẻ vú bên trái
nhiều hơn bên phải: vú trái chiếm 51,4%-
55%(2,6,11,16,17). Tuy nhiên theo một ghi nhận
được Shahida trích dẫn cho thấy u diệp thể lại
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 118
gặp nhiều ở bên vú phải trên bệnh nhân
không sinh đẻ tỷ lệ lên đến 87,5%(17).
Theo Nguyễn Sào Trung tỷ lệ mắc bệnh ở
hai vú gần giống nhau và tỷ lệ u diệp thể ở ¼
trên ngoài vú thường gặp hơn ở các vị trí khác.
Ở Việt Nam gặp từ 29,2 % - 35%(3,12) và lại lên
đến 61% ở vị trí này theo ghi nhận của
Stebing(19).
Ở nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ vú phải
tương đương vú trái, u ở ¼ trên ngoài chiếm
45%, ¼ trên trong chiếm 35% và trong đó có đến
15% trường hợp bệnh nhân u diệp thể chiếm
toàn bộ tuyến vú, thấp hơn so với ghi nhận của
Nguyễn Sào Trung cách đây khá nhiều năm với
tỷ lệ chiếm toàn bộ vú chiếm 41,7%(13).
Tỷ lệ u diệp thể có ở hai vú ở nghiên cứu
chúng tôi cũng như trong nghiên cứu của các
tác giả khác trong nước chưa ghi nhận(7,13) trong
khi đó u diệp thể cũng có thể tìm thấy ở hai vú
và tỷ lệ rất thấp từ 1/33 # 3% trường hợp đến
1/106 # 0,9% trường hợp bệnh nhân(6,11). Ngoài ra
vị trí u diệp thể có thể gặp ở nách và âm hộ
cũng được thông báo qua sự trích dẫn của y
văn.
Về sự tiến triển lâm sàng của u diệp thể
Trong nghiên cứu này có ghi nhận được các
hình ảnh tiến triển của u: U tiến triển chậm
trong vòng vài năm sau đó lại lớn nhanh có tỷ lệ
3/20 # 15% trường hợp. U tiến triển nhanh ngay
từ khi phát hiện 9/20 # 45% trường hợp. U tiến
triển chậm được phát hiện u diệp thể sau khi
phẩu thuật và bị tái phát: 8/20 #40% trường hợp.
Trong nghiên cứu của Reinfes M cho thấy triệu
chứng u thay đổi từ 2 tháng đến 30 năm. 23,5%
trường hợp u tiến triển thành hai giai đoạn: giai
đoạn 1 kéo dài trung bình 10 năm, giai đoạn 2
ngắn hơn trung bình là 7 tháng. 45,5% u diệp thể
tuyến vú tiến triển chậm trung bình là 9 năm.
31,5% u diệp thể tuyến vú tiến triển nhanh trung
bình là 5 tháng(15).
Trong một nghiên cứu khác được ghi nhận
đa số bệnh nhân phát hiện u khoảng 2 – 3 năm
trước đó và 5 – 6 tháng lớn nhanh nhưng không
chia ra rõ loại cụ thể(20). Theo Ben J chỉ có 24%
tiến triển nhanh trung bình là 9 tháng và triệu
chứng khó chịu ở vú hiện diện từ 14 – 42% bệnh
nhân(6). Như vậy sự lớn nhanh và / hoặc có một
sự thay đổi kích thước đột ngột trên một khối u
có trước có thể cần được xem như là một dấu
hiệu để nghĩ đến u diệp thể tuyến vú.
Bên cạnh đó, với một tỷ lệ 8/20 u diệp thể
# 40% trường hợp có một sự tiến triển chậm,
chính những trường hợp này khi kết hợp
thêm với các yếu tố lâm sàng khác như lứa
tuổi, kích thước u – đã dễ dàng làm cho một
số Bác sỹ lâm sàng ít có kinh nghiệm bỏ qua
chẩn đoán u diệp thể để thực hiện những can
thiệp ngoại khoa không thích hợp.
U tái phát và tiến triển nhanh sau mổ, trên
một bối cảnh lâm sàng u tiến triển chậm trước
đó cần phải cảnh giác một trường hợp u diệp
thể. Và cũng không thể chủ quan trong những
trường hợp u vú có một tiến triển chậm.
Trong 20 trường hợp u diệp thể được nghi
nhận 2/20 case # 10% được lâm sàng chẩn đoán
là u diệp thể và nghi ngờ u diệp thể phù hợp với
kết quả GPBL. Cho thấy tỷ lệ phù hợp giữa chẩn
đoán GPBL với chẩn đoán lâm sàng còn thấp,
nhận xét này tương tự với ghi nhận của Nguyễn
Sào Trung(13).
Trong những trường hợp chẩn đoán không
phù hợp thường liên quan đến các tuyến y tế cơ
sở không có đơn vị chuyên trách về ung bướu.
Thực tế lâm sàng cho thấy u diệp thể xuất
hiện rời rạc với một số lượng ít trong năm.
Trong những trường hợp u tiến triển chậm, u
nhỏ, ít kinh nghiệm và ít nhạy cảm lâm sàng nên
rất dể chẩn đoán nhầm sang u xơ vú hoặc u vú
lành tính một cách chung chung.
Về chẩn đoán tế bào học và mô bệnh học u
diệp thể
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ chẩn
đoán tế bào học u diệp thể có độ chính xác thấp
khi so sánh với chẩn đoán mô bệnh học nhất là
những trường hợp u nhỏ và tiến triển chậm, tỷ
lệ này chỉ đạt 4/20 # 20% trường hợp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 119
Về độ chính xác của FNA trong u diệp thể
vẫn còn nhiều tranh cãi, có tác giả cho rằng FNA
có độ chính xác thấp trong việc chẩn đoán u
diệp thể, có tác giả lại cho rằng hầu hết các
trường hợp có thể phân biệt được u diệp thể và
u xơ vú, tỷ lệ chính xác có một sự thay đổi khá
lớn từ 14% – 93%(8,21,23).
Việc phân biệt u diệp thể với các tổn thương
lành tính khác của u và đặc biệt là với u xơ vú là
một công việc rất có giá trị góp phần cho lâm
sàng có những chủ động hợp lý hơn trong điều
trị u diệp thể.
Các tác giả đòi hỏi nên làm FNA ở nhiều vị
trí khác nhau trên u để gia tăng độ chính xác vì
u diệp thể có tổn thương không đồng nhất. Đòi
hỏi tiêu bản FNA phải có đủ thành phần tế bào
cho chẩn đoán(12, 23).
Theo Selena,u diệp thể thường chẩn đoán
nhầm sang u xơ vú: 14/80 u diệp thể # 17,5%
trường hợp được chẩn đoán là u xơ vú vì sự
phân biệt qua hình ảnh, kích thước mô đệm của
những loại u này nhiều khi cũng rất khó khăn(3).
Các y văn đều nhấn mạnh sự có mặt các
thành phần mô đệm trên tiêu bản FNA, được
coi là tiêu chuẩn quan trọng và quytết định để
chẩn đoán u diệp thể. 82% trường hợp hiện
diện hình ảnh này(21).
Sự hiện diện tế bào mô đệm trên 30% diện
tích vi trường, kích thước và hình dạng của
các đám tế bào biểu mô lớn hơn 1mm, mật độ
tế bào mô đệm cao kể cả tế bào nhân trần 2
cực. Sự co cụm của các tế bào ống tuyến quá
sản và sự vắng mặt các tế bào đỉnh tiết sẽ
hướng đến một chẩn đoán u diệp thể(9,3).
Ngoài ra trong u diệp thể, các đám tế bào biểu
mô có xu hướng dài ra, gợn sóng và xếp nếp
trong khi đó ở u xơ vú các tế bào tuyến tạo
các ống tuyến nhỏ, tạo nhánh đầu tù(9).
Trong những u vú có kích thước 4cm trở
lên cần thận trọng chẩn đoán là u diệp thể hay
u xơ vú(21).
Việc chẩn đoán u diệp thể là carcinôm vú
cũng được một số tác giả ghi nhận khi làm
FNA(12). Sự thay đổi bất thường của tế bào biểu
mô trong u diệp thể rất dễ nhầm với carcinôm
vú, khi đó sự hiện diện của các tế bào mô đệm
sẽ giúp chúng ta chẩn đoán phân biệt u diệp thể
với carcinôm vú(3).
Để có được một chẩn đoán FNA có giá trị
cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẻ với lâm
sàng, cần lưu ý đến sự tiến triển u(21), lưu ý đến
những trường hợp u tái phát và tiến triển nhanh
sau một chẩn đoán u xơ tuyến vú. Độ chính xác
của FNA đều tăng lên 14% - 25% trong trường
hợp u tái phát(3).
Ngoài ra do sự thoái hóa, giãn rộng và chứa
chất dịch ở một số ống tuyến trong u diệp thể
cũng đã dẫn đến một tình huống mà chúng tôi
gặp phải là khi làm FNA rút ra một lượng dịch
nhất định giống với một tổn thương u nang vú.
Sự lặp lại FNA vào vùng u tồn tại sau hút
dịch và chính sự hiện diện các đám tế bào mô
đệm là các yếu tố để chẩn đoán u diệp thể.
Về chẩn đoán mô bệnh học
U diệp thể chỉ được xác địnhqua chẩn đoán
mô bệnh học với những hình ảnh đặc trưng của
những thành thành phần biểu mô và mô đệm.
Thành phần biểu mô ống tuyến bị chèn ép
kéo dài, có một hình ảnh giống lá (tương tự với
u xơ vú dạng trong ống). Thành phần mô đệm
liên kết tăng sinh rất mạnh giống như hình ảnh
nhú lồi vào trong lòng ống tuyến, nhiều hơn
hẳn so với u xơ tuyến vú, thường gặp ở vùng
quanh ống tuyến., sự tăng sinh quá mức của mô
đệm được xác định khi vắng mặt thành phần
biểu mổ trong ít nhất một vi trường lớn (x 40)(5).
Ngoài ra còn gặp những biểu hiện chuyển sản
các loại ở thành phần biểu mô và mô đệm.
Sự có mặt của những thành phần mô đệm và
biểu mô là cần thiết để xác định chẩn đoán u
diệp thể(14).
Dựa vào đặc tính của tế bào mô đệm để
phân lọai u lành – u giáp biên – u ác. Chỉ có tế
bào mô đệm mới có tiềm năng di căn. Sự thay
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Giải Phẫu Bệnh 120
đổi ác tính biểu hiện tăng sinh tế bào mô đệm
với sự không điển hình về mặt tế bào học và
hoạt động phân bào.>5/10 HPF, thiếu vắng
thành phần biểu mô là các tiêu chuẩn thường
được tác giả áp dụng để phân loại mô bệnh học.
Nhiều tác giả khác nhau đưa ra các tiêu
chuẩn khác nhau để phân biệt u diệp thể lành
tính, ác tính hay giáp biên ác.Theo Azzopardi(14):
Bảng 9
U lành U giáp biên U ác
Bờ u Có chèn ép Không rõ Xâm nhiễm
Mức độ tế bào
mô đệm
Thấp Trung bình Cao
Tỉ lệ nhân chia /
10hpf
10
Sự đa dạng
hình thái tế bào
Nhẹ Vừa Nặng
Theo WHO: Bờ u, mật độ tế bào mô đệm, sự
đa dang hình thái tế bào cũng tương tự như
Azzopardi nhưng chỉ số phân bào lại đánh giá
trên vi trường 10.trên 10 phân bào trên một
quang trường 10 là ác, ít hơn 4 phân bào trên
một quang trường 10 là lành và thêm tính chất
mô đệm phân bố đồng nhất, phân bố không
đồng nhất hay quá phát U ác tính hiện diện ở
mức tối đa ít nhất là 4 yếu tố kể trên.
U lành tính ít nhất 3 yếu tố ở mức thấp nhất
và có không quá 2 yếu tố ở mức độ trung bình.
Giáp biên: khi không thuộc các nhóm trên(5).
Trong nghiên cứu này tỷ lệ các loại u lành,
giáp biên ác và u ác phân bố như sau: 70%, 20%
và 10% tổng số các trường hợp u diệp thể.
Tỷ lệ các nhóm bệnh trong các nghiên cứu
khác được ghi nhận như sau.
Bảng 10
Tác giả U lành tính U giáp biên U ác tính
Ng S Trung 85,4% 7,3% 7,3%
Huỳnh H Hạnh(7) 66,7% 14,4% 18,9%
Lehard MS(11) 40% 27% 33%
Karim RZ(9) 53,8% 35% 11,2%
Reinfuss M(15) 54% 11,3% 34,7%
Tỷ lệ u diệp thể ác tính thay đổi từ 8-45%
trường hợp(14) hoặc từ 1-54% trường hợp(19) một
trong những nguyên nhân gây nên sự thay đổi
khá rộng rãi này có thể là do tỷ lệ u diệp thể và
kết quả trên những nhóm bệnh nhân nhỏ ở
những nghiên cứu riêng biệt và thiếu hụt những
tiêu chuẩn cụ thể trên hình ảnh mô bệnh
học(11,19).
Mặt cắt của mẫu bệnh phẩm trên tiêu bản -
đặc biệt trong những trường hợp u lớn nó có thể
thể hiện c