Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma - TCC) của ung thư niệu mạc
thường di căn đến hạch bạch huyết, gan, phổi và xương. Tuy nhiên, di căn đến đường tiêu hóa thì rất hiếm.
Trong y văn, chúng tôi thấy có một báo cáo của các giả Nhật Bản ghi nhận có 2 trường hợp ung thư biểu mô tế
bào chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn ruột non. Tại Khoa Nội Tổng hợp BVBD, chúng tôi ghi nhận một
trường hợp ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn đến hồi tràng.
Mục đích: Trình bày trường hợp hiếm gặp này vì bệnh nhân thường vào viện với bệnh cảnh bệnh lý đường
tiêu hóa như tắc ruột, viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng hoặc xuất huyết tiêu hóa. Hầu hết các trường hợp
thường không thể chẩn đoán trước mổ và chỉ chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm GPB sau mổ hoặc nhờ vào làm
phẫu nghiệm tử thi.
Kết luận: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma - TCC) của niệu mạc thường di
căn đến hạch bạch huyết, gan, phổi và xương. Tuy nhiên vẫn có thể di căn đến đường tiêu hóa, hầu hết chẩn đoán
được nhờ vào xét nghiệm sinh thiết sau mổ hoặc phát hiện tình cờ do làm xét nghiệm tử thiết (autopsy); vì thế
cần theo dõi sát diễn tiến của các trường hợp bướu ác niệu mạc và lưu ý khả năng di căn đến những vị trí hiếm
gặp như đường tiêu hóa nêu trên.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp di căn vào lòng ruột non tường thuật trường hợp hiếm gặp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 343
UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO CHUYỂN TIẾP DI CĂN
VÀO LÒNG RUỘT NON TƯỜNG THUẬT TRƯỜNG HỢP HIẾM GẶP
Nguyễn Tuấn Vinh*, La Chí Hải**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma - TCC) của ung thư niệu mạc
thường di căn đến hạch bạch huyết, gan, phổi và xương. Tuy nhiên, di căn đến đường tiêu hóa thì rất hiếm.
Trong y văn, chúng tôi thấy có một báo cáo của các giả Nhật Bản ghi nhận có 2 trường hợp ung thư biểu mô tế
bào chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn ruột non. Tại Khoa Nội Tổng hợp BVBD, chúng tôi ghi nhận một
trường hợp ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn đến hồi tràng.
Mục đích: Trình bày trường hợp hiếm gặp này vì bệnh nhân thường vào viện với bệnh cảnh bệnh lý đường
tiêu hóa như tắc ruột, viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng hoặc xuất huyết tiêu hóa. Hầu hết các trường hợp
thường không thể chẩn đoán trước mổ và chỉ chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm GPB sau mổ hoặc nhờ vào làm
phẫu nghiệm tử thi.
Kết luận: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (Transitional cell carcinoma - TCC) của niệu mạc thường di
căn đến hạch bạch huyết, gan, phổi và xương. Tuy nhiên vẫn có thể di căn đến đường tiêu hóa, hầu hết chẩn đoán
được nhờ vào xét nghiệm sinh thiết sau mổ hoặc phát hiện tình cờ do làm xét nghiệm tử thiết (autopsy); vì thế
cần theo dõi sát diễn tiến của các trường hợp bướu ác niệu mạc và lưu ý khả năng di căn đến những vị trí hiếm
gặp như đường tiêu hóa nêu trên.
Từ khóa: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp, ung thư niệu mạc, di căn ruột non, di căn hồi tràng.
ABSTRACT
METASTATIC ILEAL TUMOR ASSOCIATED WITH TRANSITIONAL CELL CARCINOMA: A CASE
REPORT
Nguyen Tuan Vinh, La Chi Hai
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 343 – 348
Background: Transitional cell carcinoma (TCC) frequently metastasizes to lymph nodes, liver, lungs and
bones. However, metastasis to the gastrointestinal tract is rare. In the medical literature, we find a report of two
cases of bladder tumor which metastasized to the small intestine in Japan. In our hospital, we report one case of
TCC of urothelial cancer which metastasized to the ileum. Intestinal metastases of TCC of the urothelial cancer are
rarely of clinical significance. We report a rare case of the metastatic ileal tumor associated with transitional cell
carcinoma of the urothelial cancer. The patients are admitted with the conditions: occlusion, peritonitis due to
perforation of gastrointestinal tract, or acute gastrointestinal bleeding. Most of these metastases were not
diagnosed clinically and most of them are autopsy or postoperative findings.
Purpose: Here we report a rare case of the metastatic small intestinal tumor associated with transitional cell
carcinoma of the urothelial cancer.
Conclusion: Transitional cell carcinoma (TCC) of the urothelial cancer commonly metastasizes to the pelvic
lymph nodes, lungs, liver, bones. However, metastasis to the gastrointestinal tract can occur even though it is
* Khoa Nội Tổng Hợp – Bệnh Viện Bình Dân ** Khoa Giải phẫu bệnh – Bệnh Viện Bình Dân
Tác giả liên lạc: BS.La Chí Hải ĐT: 0909400111 Email: lachihaihuy@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 344
rare. Most of these metastases were not diagnosed clinically. Most of them are autopsy or postoperative findings.
Consequently, we need to observe the progression of TCC of the urothelial cancer especially unusually site of
metastasis of TCC have also been reported.
Key Words: Transitional cell carcinoma (TCC), urothelial cancer, intestinal metastasis, ileal metastasis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp
(Transitional cell carcinoma - TCC) của ung
thư niệu mạc thường di căn đến hạch bạch
huyết, gan, phổi và xương. Di căn đến đường
tiêu hóa thì rất hiếm. Trong y văn, chúng tôi
thấy có một báo cáo của các giả Nhật Bản ghi
nhận có 2 trường hợp ung thư biểu mô tế bào
chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn ruột
non.
Tại Khoa Nội Tổng hợp BVBD, chúng tôi
ghi nhận một trường hợp ung thư biểu mô tế
bào chuyển tiếp của ung thư niệu mạc di căn
đến hồi tràng.
Mục đích
Chúng tôi trình bày trường hợp hiếm gặp
này vì bệnh nhân thường vào viện với bệnh
cảnh bệnh lý đường tiêu hóa như tắc ruột, viêm
phúc mạc do thủng tạng rỗng hoặc xuất huyết
tiêu hóa. Hầu hết các trường hợp thường không
thể chẩn đoán trước mổ và chỉ chẩn đoán xác
định bằng xét nghiệm GPB sau mổ hoặc nhờ
vào làm phẫu nghiệm tử thi.
Phần trình bệnh án
Họ tên bệnh nhân: Vương Quan H. SHS:
210-18201
Sinh năm: 1943
Địa chỉ: 222 đường Bùi Minh Trực P.5, Q.8,
TP. HCM
Nghề nghiệp:
Nhập viện lần 1 ngày: 15/09/2010
Lý do nhập viện: tiểu máu tái đi tái lại nhiều
lần.
Các xét nghiệm CLS:
- Huyết học: trong giới hạn bình thường.
- Sinh hóa: trong giới hạn bình thường.
- Nội soi bàng quang (29/07/2010): bình
thường.
- CT Scan (28/07/2010): u niệu mạc ở đài bể
thận, cực trên thận (T).
BN được mổ ngày 20/9/2010: mổ nội soi
hông lưng, cắt bỏ thận – niệu quản (T) + mổ hở
cắt chóp bàng quang.
Kết quả GPB (23/9/2010): Ung thư biểu mô tế
bào chuyển tiếp biệt hóa cao ở bể thận & niệu
quản. Mô quanh thận còn nguyên (tiêu bản số
2010-8290) (hình 1).
Hình 1: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp biệt
hóa cao ở bể thận (HE x200)
BN được xuất viện ngày 30/09/2010.
Nhập viện lần 2 ngày: 14/10/2010
BN được hóa trị chu kỳ 1, phác đồ: Paclitaxel
(100 mg x 3 lọ truyền tĩnh mạch) + Carboplatine
(150 mg x 2 lọ truyền tĩnh mạch).
Nhập viện lần 3 ngày: 04/11/2010
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 345
BN được hóa trị chu kỳ 2, phác đồ: Paclitaxel
(100 mg x 3 lọ truyền tĩnh mạch) + Carboplatine
(150 mg x 3 lọ truyền tĩnh mạch).
Nhập viện lần 4 ngày: 24/01/2011
Lý do nhập viện: sốt, lạnh run nhập
HSCC1.
Các xét nghiệm CLS:
Huyết học:
- WBC: 3.38 K/UL
- Neu: 51 %
- RBC: 2.59 M/UL
- HGB: 8.4 g/dl
- Hct: 24.8 %
- Tiểu cầu: 100 K/L
- Sinh hóa:
- US: 8.4 mmol/l
- Creatinine: 155 umol/l
Chẩn đoán
BN được điều trị nội khoa bằng kháng sinh,
dịch truyền.
Xuất viện ngày 26/01/2011.
Nhập viện lần 5 ngày: 28/03/2011
Lý do nhập viện: tiểu máu tái phát.
Các xét nghiệm CLS:
- Huyết học: trong giới hạn bình thường.
- Sinh hóa: trong giới hạn bình thường.
- Nội soi bàng quang kiểm tra (19/03/2011):
bướu bàng quang.
- CT Scan vùng bụng - chậu (21/03/2011): vài
u niệu mạc bàng quang d = 10 mm, chưa thấy
dấu xâm lấn xung quanh.
BN được mổ ngày 29/03/2011: mổ cắt đốt nội
soi bướu bàng quang.
Kết quả GPB (01/04/2011): Ung thư biểu mô
tế bào chuyển tiếp biệt hóa vừa, xâm lấn lớp
dưới niêm (tiêu bản số 2011-2395) (hình 2).
Hình 2: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp biệt
hóa vừa, xâm lấn lớp dưới niêm. (HE x 200)
BN được xuất viện ngày 31/03/2011.
Nhập viện lần 6 ngày: 23/07/2011
Lý do nhập viện: đau khắp bụng + bụng
chướng, táo bón.
Các xét nghiệm CLS:
- Huyết học: trong giới hạn bình thường.
- Sinh hóa: trong giới hạn bình thường.
- Nội soi dạ dày (09/07/2011- MEDIC): viêm
sung huyết phù nề hang vị.
- Siêu âm vùng bụng-chậu (23/07/2011): các
quai ruột dãn, chướng nhiều dịch.
- X Quang bụng đứng không sửa soạn
(24/07/2011): mức nước hơi (+).
- CT Scan vùng bụng - chậu (24/07/2011): tắc
ruột do dính ruột vùng hạ vị hơi thiên sang (P).
BN được mổ ngày 24/07/2011với Δ (+): tắc
hồi tràng do ung thư di căn; mổ cắt đoạn hồi
tràng có khối u d = 4 cm do K di căn; nối tận tận.
Kết quả GPB (27/07/2011): Ung thư biểu mô
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 346
tế bào chuyển tiếp biệt hóa vừa, di căn ruột non
(tiêu bản số 2011-6043) (hình 3) .
Hình 3: Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp biệt
hóa vừa, di căn ruột non. (HE x 200)
BN được xuất viện ngày 01/08/2011.
Tóm tắt bệnh án
Bệnh nhân nam, 68 tuổi. Nhập viện vì tiểu
máu kéo dài, các xét nghiệm sinh hóa, huyết
học bình thường. CT can là u niệu mạc đài bể
thận & cực trên thận (T). Được phẫu thuật nội
soi cắt bỏ toàn bộ thận & niệu quản (T) + chóp
bàng quang, với kết quả Δ GPB là TCC. Sau
đó tiến hành hóa trị với phác đồ Paclitaxel +
Carboplatin, được 2 chu kỳ thì 4 tháng sau BN
nhập viện mổ lại với bệnh cảnh tiểu máu tái
phát do bướu bàng quang dạng TCC xâm lấn
lớp dưới niêm. BN mổ lần thứ ba sau lần mổ
thứ hai 4 tháng vì khối u hồi tràng gây tắc
ruột, được xác định bằng X quang bụng đứng
không sửa soạn, siêu âm và CT scan vùng
bụng – chậu. Δ (+) sau mổ bằng xét nghiệm
GPB là TCC biệt hóa vừa di căn ruột non.
BÀN LUẬN
Bệnh sử tự nhiên của ung thư niệu mạc(3,7)
Bệnh nhân khám bệnh vì các dấu hiệu sau:
- Tiểu máu.
- Đau lưng.
- Mệt mỏi.
- Sụt cân không rõ lý do.
- Tiểu khó hoặc đau khi đi tiểu.
Các phương tiện định bệnh bao gồm:
- Khám thực thể.
- Tổng phân tích nước tiểu.
- Nội soi bàng quang – niệu quản – bể thận,
kết hợp làm sinh thiết.
- Xét nghiệm tế bào học nước tiểu.
- UIV.
- CT scan vùng bụng - chậu.
- Siêu âm bụng - chậu.
Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (TCC)
chiếm 90 - 95 % ung thư ở niệu mạc, 5-10% là
Ung thư biểu mô tế bào gai (SCC) & 1- 2 % Ung
thư biểu mô tuyến (adenocarcinoma)(3,7).
- TCC chiếm 5 - 10% các loại bướu ác
nguyên phát ở thận.
- Giới tính: nam nhiều gấp 2 lần nữ, tỷ lệ 5:2.
- Tuổi: hiếm gặp trước 40 tuổi, đỉnh cao là
lứa tuổi từ 60 – 70.
- Phân giai đoạn:
+ Stage 0: tế bào ung thư khu trú ở niêm
mạc.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 347
+ Stage I: tế bào ung thư xâm nhập lớp mô
liên kết (connective tissue).
+ Stage II: tế bào ung thư xâm lấn tới lớp cơ
của bồn đài thận & niệu quản (muscle layer of
the renal pelvis and/or ureter).
+ Stage III: tế bào ung thư xâm lấn tới lớp
mỡ bên ngoài bồn đài thận và niệu quản (the
layer of fat outside the renal pelvis and/or
ureter; or into the wall of the kidney)
+ Stage IV: tế bào ung thư xâm lấn đến:
- Một tạng lân cận (A nearby organ).
- Lớp mỡ quanh thận (The layer of fat
surrounding the kidney).
- Một hoặc nhiều hạch bạch huyết (One or
more lymph nodes).
- Những cơ quan khác của cơ thể (Other
parts of the body).
Các vị trí di căn thường gặp là hạch vùng,
các tạng thường bị di căn là: phổi, gan & xương.
Những tạng khác có thể bị di căn là não, lách,
tụy, màng não, tử cung, buồng trứng, TLT &
tinh hoàn với xuất độ hiếm hơn.
Bệnh nhân trong trường hợp báo cáo này
cũng có bệnh sử tương tự.
Xuất độ di căn
Có ba con đường để ung thư di căn(3,7):
- Tại chỗ: ung thư xâm nhập vào các tạng
xung quanh.
- Thông qua hệ bạch huyết, ung thư di
chuyển đến các nơi khác của cơ thể.
- Thông qua hệ tuần hoàn, ung thư xâm
nhập vào hệ tĩnh mạch để đến các tạng khác của
cơ thể.
Khảo sát 107 trường hợp của các tác giả
Babaian RJ, Johnson DE, Llamas L, Ayala AG(2),
cho thấy di căn hạch vùng là 78 %, gan 38 %,
phổi 36 %, xương 27 %, tuyến thượng thận 21 %,
và ruột non 13 %.
Trong y văn, chúng tôi thấy có một báo cáo
của các giả Nhật Bản ghi nhận có 2 trường hợp
Ung thư biểu mô chuyển tiếp của niệu mạc di
căn ruột non(4):
+ Trường hợp 1: BN nam, 87 tuổi, bị ung thư
bàng quang loại TCC grade 3, pT2bNoMo, đã
cắt đốt nội soi 3 lần. Hai tháng sau mổ nhập
viện vì viêm phúc mạc do thủng tạng rỗng. BN
được phẫu thuật cắt đoạn hồi tràng thủng. GPB
sau mổ là TCC di căn hồi tràng.
+ Trường hợp 2: BN nam 53 tuổi, nhập viện
vì tiểu máu. Nội soi bàng quang thấy bướu ở
vách (P) bàng quang. CT Scan thấy ăn lan TLT,
pT4aN1Mo. BN được mổ cắt bàng quang toàn
phần; trong lúc mổ thấy có u ruột non 2 cm.
GPB là TCC di căn.
Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp (TCC)
của niệu mạc di căn ruột rất hiếm gặp. Hầu hết
các trường hợp TCC di căn ruột nói riêng
(đường tiêu hóa nói chung) thường chỉ được
chẩn đoán sau mổ hoặc tình cờ nhờ làm
autopsy(6).
Theo Lehmann & cộng sự(5), chỉ phát hiện
2.3% BN bị ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp
di căn ruột trong khi phẫu thuật.
Hoshi & cộng sự(4) báo cáo một trường hợp
thủng hồi tràng do ung thư biểu mô tế bào
chuyển tiếp di căn.
Bệnh nhân của chúng tôi cũng bị di căn ruột
non như các tác giả đã báo cáo.
Phẫu trị(3,7)
Cắt bỏ toàn bộ thận và niệu quản
(Nephroureterectomy).
Cắt đoạn niệu quản (Segmental resection of
the ureter).
Cắt đốt nội soi bướu bàng quang
(transurethral resection of bladder tumor).
Các phương pháp phẫu trị khác:
- Cắt đốt bướu bằng tia điện (fulguration).
- Cắt bán phần thận (segmental resection of
the renal pelvis).
- Cắt đốt bướu bằng tia Laser (Laser
surgery).
Bệnh nhân này của chúng tôi cũng được cắt
bỏ toàn bộ thận, niệu quản & chóp bàng quang.
Sau đó được cắt đốt nội soi bướu bọng đái do
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Bình Dân 2012 348
ung thư tái phát. Mổ lần 3 cắt đoạn hồi tràng do
ung thư niệu mạc di căn hồi tràng gây tắc ruột.
Hóa trị
Theo “The Bethesda Handbook of Clinical
Oncology” của Jame Abraham, James L. Gulley
& Carmen J. Allegra(1), các phác đồ hóa trị gồm
có:
- CISCA (Cyclophosphamide, Doxorubicin,
Cisplatin).
- CMV (Methotrexate, Vinblastin, Cisplatin).
- Docetaxel + Cisplatin.
- Gemcitabine + Cisplatin.
- ITP (Ifosfamide, Mesna, Paclitaxel,
Cisplatin).
- MVAC (Methotrexate, Vinblastin,
Doxorubicin, Cisplatin).
- Paclitaxel (200 mg/m² TTM trên 3 giờ,
ngày 1, lặp lại chu kỳ 21 ngày) + Carboplatin
TTM sau khi truyền Paclitaxel, liều thuốc tính
theo công thức Calvert với AUC là
5mg/ml/phút. Đây là phác đồ chúng tôi đã
chọn để điều trị cho BN này.
KẾT LUẬN
Ung thư biểu mô tế bào chuyển tiếp
(Transitional cell carcinoma - TCC) của niệu mạc
thường di căn đến hạch bạch huyết, gan, phổi
và xương. Tuy nhiên vẫn có thể di căn đến
đường tiêu hóa, hầu hết chẩn đoán được nhờ
vào xét nghiệm sinh thiết sau mổ hoặc phát hiện
tình cờ do làm xét nghiệm tử thiết (autopsy); vì
thế cần theo dõi sát diễn tiến của các trường hợp
bướu ác niệu mạc và lưu ý khả năng di căn đến
những vị trí hiếm gặp như đường tiêu hóa nêu
trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abraham J, Gulley JL, Allegra CJ (2010). The Bethesda
Handbook of Clinical Oncology. Wolters Kluwer/ Lippincott
Williams & Wilkins 3rd edition.
2. Babaian RJ, Johnson DE, Llamas L, Ayala AG (1980). Metastases
from transitional cell carcinoma of urinary bladder. Urology. 16:
142-144.
3. Carlos H.F. Chan, Said A. Al-Busafi, and Kevin A (2011).
Waschke. Massive Upper Gastrointestinal Bleeding Secondary
to Duodenal Metastasis of Transitional Cell Carcinoma of the
Urinary Bladder. Case Rep Gastroenterol. Jan-Apr; 5(1): 246-
248.
4. Hoshi A, Tokunaga M, Usui Y, Yamashita H, Sasaki H,
Kobayashi Y, Shima M, Miyakita H, Terachi T. Hinyokika Kiyo
(2005). Metastatic small intestinal tumor associated with
transitional cell carcinoma: a report of two cases and review of
cases in Japan. The Department of Urology, Tokai University,
School of Medicine: 41-44.
5. Lehmann J, Suttmann H, Albers P, et al. (2009). Complete
resection of urothelial cancer metastases with curative intent.
Urologe A.48: 143-150.
6. Wallmeroth A, Wagner U, Moch H, Gasser TC, Sauter G,
Mihatsch MJ (1999). Patterns of metastasis in muscle-invasive
bladder cancer (pT2-4): An autopsy study on 367 patients. Urol
Int. 62: 69–75.
7. Weizer AZ, Shariat SF, Haddad JL, Escudier S, and Lerner SP
(2002). Metastatic Transitional Cell Carcinoma of the Urinary
Bladder to the Shoulder Girdle. Rev Urol. Spring; 4(2): 97–99.