Mở đầu: Bảng câu hỏi (BCH) Berlin được sử dụng rộng rải để đánh giá nguy cơ mắc ngưng thở lúc ngủ tắc
nghẽn (NTLNTN) ở các nước nói tiếng Anh.
Mục tiêu: Xác định vai trò của BCH Berlin phiên bản tiếng Việt trong tầm soát NTLNTN trên các đối
tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam, so sánh với tiêu chuẩn vàng là đa ký giấc ngủ (ĐKGN).
Phương pháp: BCH Berlin được dịch sang tiếng Việt và khảo sát trên 123 đối tượng có triệu chứng rối loạn
giấc ngủ. Đối tượng cho kết quả dương tính với ít nhất 2 phần của BCH Berlin sẽ được xếp vào nhóm nguy cơ cao
mắc NTLNTN. Chỉ số ngưng thở-giảm thở (Apnea Hyponea Index (AHI)) được xác định bằng ĐKGN qua đêm.
Kết quả: Giá trị nội tại của BCH được đánh giá bằng hệ số Cronbach alpha, là 0,81 cho phần 1 và 0,66 cho phần
2. Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin lần lượt là 84,29% và 66,04% tương ứng với ngưỡng chẩn đoán AHI ≥
5; 88,24% và 55,56% với AHI >15; 90,63% và 47,52% với AHI> 30. Với ngưỡng chẩn đoán AHI=5, BCH Berlin có
tỉ số khả dĩ dương là 2,48, tỉ số khả dĩ âm là 0,24. Chỉ có các phần liên quan tới triệu chứng ngáy, ngáy gây ảnh
hưởng người ngủ chung, ngưng thở lúc ngủ và tăng huyết áp/béo phì có mối liên quan có ý nghĩa với AHI.
Kết luận: Mặc dù với độ nhạy khá cao, tuy nhiên BCH Berlin chưa thật sự là công cụ tầm soát hiệu quả trên
các đối tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam do sự hạn chế về độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ dương và tỉ số khả dĩ âm.
7 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 252 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của bảng câu hỏi Berlin trong tầm soát ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 123
VAI TRÒ CỦA BẢNG CÂU HỎI BERLIN
TRONG TẦM SOÁT NGƯNG THỞ LÚC NGỦ TẮC NGHẼN
Trần Minh Huy*, Lê Thị Tuyết Lan**, Nguyễn Xuân Bích Huyên***
TÓM TẮT
Mở đầu: Bảng câu hỏi (BCH) Berlin được sử dụng rộng rải để đánh giá nguy cơ mắc ngưng thở lúc ngủ tắc
nghẽn (NTLNTN) ở các nước nói tiếng Anh.
Mục tiêu: Xác định vai trò của BCH Berlin phiên bản tiếng Việt trong tầm soát NTLNTN trên các đối
tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam, so sánh với tiêu chuẩn vàng là đa ký giấc ngủ (ĐKGN).
Phương pháp: BCH Berlin được dịch sang tiếng Việt và khảo sát trên 123 đối tượng có triệu chứng rối loạn
giấc ngủ. Đối tượng cho kết quả dương tính với ít nhất 2 phần của BCH Berlin sẽ được xếp vào nhóm nguy cơ cao
mắc NTLNTN. Chỉ số ngưng thở-giảm thở (Apnea Hyponea Index (AHI)) được xác định bằng ĐKGN qua đêm.
Kết quả: Giá trị nội tại của BCH được đánh giá bằng hệ số Cronbach alpha, là 0,81 cho phần 1 và 0,66 cho phần
2. Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin lần lượt là 84,29% và 66,04% tương ứng với ngưỡng chẩn đoán AHI ≥
5; 88,24% và 55,56% với AHI >15; 90,63% và 47,52% với AHI> 30. Với ngưỡng chẩn đoán AHI=5, BCH Berlin có
tỉ số khả dĩ dương là 2,48, tỉ số khả dĩ âm là 0,24. Chỉ có các phần liên quan tới triệu chứng ngáy, ngáy gây ảnh
hưởng người ngủ chung, ngưng thở lúc ngủ và tăng huyết áp/béo phì có mối liên quan có ý nghĩa với AHI.
Kết luận: Mặc dù với độ nhạy khá cao, tuy nhiên BCH Berlin chưa thật sự là công cụ tầm soát hiệu quả trên
các đối tượng rối loạn giấc ngủ người Việt Nam do sự hạn chế về độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ dương và tỉ số khả dĩ âm.
Từ khóa: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn, bảng câu hỏi Berlin
ABSTRACT
ROLE OF THE BERLIN QUESTIONNAIRE AS A SCREENING TOOL
FOR OBSTRUCTIVE SLEEP APNEA
Tran Minh Huy, Le Thi Tuyet Lan, Nguyen Xuan Bich Huyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 123 - 129
Background: Berlin questionnaire (BQ) is extensively used for identifying patients at risk for obstructive
sleep apnea (OSA) in English speaking countries.
Aim: To determine the validity of the Vietnamese version of the BQ in screening for OSA in sleep-disorder
patients compared with polysomnography (PSG) as the gold standard.
Methods: The Berlin questionnaire was translated into Vietnamese and administered to 123 patients with
symptoms of sleep disorder. Patients with positive responses in any two of three symptom categories of the BQ were
considered having a high risk at for OSA. The apnea and hypopnea index (AHI) was obtained by overnight PSG.
Results: Internal consistency reliability, as evaluated with Cronbach’s alpha was 0.81 and 0.66 for category
1, and 2 respectively. The sensitivity and specificity of BQ were respectively 84.3 and 66.0% for AHI≥5, 88.2 and
55.6% for AHI>15, and 90.6 and 47.5% for AHI>30. At the cut-off of AHI=5, BQ performed with a 2.48 positive
likelihood ratio and a 0.24 negative likelihood ratio. Only the items related to snoring, annoying snoring,
* Khoa Y, Đại học Y Dược TPHCM **Bộ môn Sinh Lý học – khoa Y – Đại học Y Dược
*** Trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng (CHAC), TPHCM.
Tác giả liên lạc: BS Trần Minh Huy, ĐT: 0914577333, Email: t.minhhuy@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 124
witnessed apnea and hypertension/obesity were significantly associated with AHI.
Conclusions: Although BQ displays a moderately high level of sensitivity, it is not an appropriate screening
tool for OSA in sleep-disorder patients because of its limited specificity and likelihood ratios.
Keyword: Obstructive Sleep Apnea, Berlin Questionnaire
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn (NTLNTN)
đang ngày càng trở thành vấn đề sức khỏe
quan trọng trong vài thập niên gần đây với tỉ
lệ hiện mắc trong dân số chung là 4% ở nam
và 2% ở nữ (1993)(14). NTLNTN đã được chứng
minh là một nguy cơ độc lập của tăng huyết
áp (THA)(5), bệnh mạch vành, suy tim, rối loạn
nhịp(11), đột quỵ(4), rối loạn dung nạp glucose
và đái tháo đường týp 2(7). Ngoài ra, NTLNTN
còn làm giảm chức năng nhận thức của thần
kinh, tăng nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông-
lao động, giảm chất lượng cuộc sống(13).
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán NTLNTN là
khảo sát đa ký giấc ngủ (ĐKGN). Tuy nhiên với
sự hạn chế về điều kiện trang thiết bị, nhân lực
và chi phí thực hiện, ĐKGN không thể áp dụng
để chẩn đoán rộng rãi trong cộng đồng. Từ thực
tiễn đó, các bảng câu hỏi tầm soát đã ra đời với
ưu điểm là một công cụ tầm soát nhanh, thuận
tiện, tiết kiệm chi phí đặc biệt trong lĩnh vực
thực hành y khoa chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Bảng câu hỏi (BCH) Berlin ra đời vào tháng
4/1996 tại hội thảo chăm sóc giấc ngủ ban đầu ở
Berlin, là một trong những BCH được chấp nhận
nhiều nhất hiện nay. Trên thế giới đã có các công
trình nghiên cứu (NC) về giá trị của BCH Berlin
trong việc tầm soát NTLNTN. Trong các NC trên
đối tượng không có tiền sử rối loạn giấc ngủ,
BCH Berlin có độ nhạy và độ đặc hiệu tương đối
cao: 85,5%-86% cho độ nhạy, 77-95,2% cho độ
đặc hiệu(8,12). Tuy nhiên trong 2 NC trên nhóm
dân số có tiền sử rối loạn giấc ngủ, BCH Berlin
có độ nhạy, độ đặc hiệu không cao(1,2).
Hiện tại chưa có công trình NC về giá trị của
BCH Berlin trong tầm soát NTLNTN trên các đối
tượng bênh nhân Việt Nam. Để góp phần làm rõ
vấn đề này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với
các mục tiêu sau: (i) xác định vai trò của BCH
Berlin trong tầm soát ngưng thở lúc ngủ tắc
nghẽn trên các đối tượng rối loạn giấc ngủ người
Việt Nam; (ii) xác định mối liên hệ giữa các
thành phần của BCH Berlin với chỉ số ngưng thở
giảm thở (Apnea-Hypopnea Index (AHI)).
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và thiết kế nghiên cứu
Chúng tôi chọn thiết kế NC cắt ngang mô tả.
Đối tượng NC là các bệnh nhân có đến khám tại
phòng khám rối loạn giấc ngủ trung tâm chăm
sóc sức khỏe cộng đồng (CHAC) của viện
nghiên cứu và phát triển sức khỏe cộng đồng
TPHCM từ 07/201101/2012, thỏa các yêu cầu
sau: (i) đối tượng là người Việt Nam từ 18 tuổi
trở lên, (ii) đồng ý tham gia NC (trả lời BCH
Berlin và đo đa ký giấc ngủ (ĐKGN)), (iii) không
có tiền căn chẩn đoán và điều trị NTLNTN. Tiêu
chuẩn loại trừ là: (i) không hoàn thành BCH NC,
(ii) có triệu chứng viêm đường hô hấp trên trong
vòng 1 tuần vừa qua.
Để tính cỡ mẫu cho NC, chúng tôi dựa vào
kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin
theo NC của Sharma N tương ứng là 85,5% và
95,2%(12), tính được số ca bệnh cần thiết và số ca
không bệnh cần thiết cho NC lần lượt là 55 và 22.
Chúng tôi chọn cỡ mẫu 123, trong đó số ca bệnh
là 70, số ca không bệnh là 53.
Phương pháp tiến hành
Vào đêm thực hiện ĐKGN, các đối tượng
được phỏng vấn trực tiếp bằng BCH Berlin,
được đo huyết áp, chỉ số vòng cổ, vòng bụng,
cân nặng và chiều cao. Sau đó sẽ tiến hành đo
ĐKGN.
BCH Berlin gồm 10 câu hỏi được chia thành
3 phần. Phần 1 gồm 6 câu hỏi: 1 câu hỏi giới
thiệu (tuổi, giới, cân nặng, chiều cao) và 5 câu hỏi
liên quan tới ngáy và cơn ngưng thở lúc ngủ
được chứng kiến. Phần 2 liên quan đến triệu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 125
chứng buồn ngủ ban ngày quá mức (3 câu hỏi và
1 câu hỏi phụ về tần suất của triệu chứng buồn
ngủ khi điều khiển phương tiện giao thông).
Phần 3 liên quan đến THA/béo phì (1 câu hỏi).
Mỗi phần được tính điểm riêng. Nếu cho kết quả
dương tính với ít nhất 2 phần, đối tượng sẽ được
xếp vào nhóm nguy cơ cao, ngược lại được xếp
vào nhóm nguy cơ thấp mắc NTLNTN. BCH
Berlin được hiệu chỉnh ở phần 3, béo phì cho
người Việt Nam được xác định khi chỉ số khối cơ
thể (BMI) ≥ 27,5 Kg/m2 (Phụ lục 1).
Các đối tượng được đo ĐKGN bằng 1 trong
2 thiết bị Somnolab v2.05 WeiNMANN hoặc
Alice 5. AHI được tính là tổng số lần ngưng thở
và giảm thở trong một giờ ngủ. Ngưng thở được
xác định khi có hiện tượng giảm luồng khí lưu
thông qua mũi miệng hơn 90% so với luồng khí
cơ bản ban đầu trong thời gian ít nhất 10 giây.
Giảm thở được xác định khi có hiện tượng luồng
khí lưu thông qua mũi miệng giảm hơn 30% so
với luồng khí cơ bản ban đầu kéo dài ít nhất 10
giây kèm theo giảm độ bảo hòa oxy lớn hơn hoặc
bằng 4%; hoặc khi luồng khí lưu thông qua mũi
miệng giảm hơn 50% kèm theo giảm độ bảo hòa
oxy lớn hơn hoặc bằng 3% hoặc kèm vi thức giấc.
Mức độ nặng của NTLNTN được phân chia theo
AHI: 5,15,30 tương ứng cho các mức độ nhẹ,
trung bình và nặng(3).
Xử lý số liệu
Nhập số liệu và phân tích bằng phần mềm
Stata 10. Các biến định lượng (tuổi, BMI, số đo
vòng cổ, số đo vòng bụng, chỉ số huyết áp) được
mô tả bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn.
Các biến định tính (nhóm tuổi, giới, triệu chứng
lâm sàng, béo phì, THA) được mô tả bằng tần số
và tỉ lệ phần trăm.
Dùng hệ số Cronbach α để đánh giá giá trị
nội tại (Internal validity) của các câu hỏi trong
mỗi phần của BCH Berlin. Ngưỡng chấp nhận
của hệ số Cronbach α là 0,7, 0,8-0,9:sự tương
quan của các câu hỏi tốt, >0,9: sự tương quan rất
tốt. Dùng tỉ số khả dĩ (Likelihood Ratio) để ước
tính trực tiếp sự thay đổi khả năng mắc
NTLNTN của BCH Berlin. Tỉ số khả dĩ dương
>10: khả năng mắc bệnh cao, 5-10: khả năng mắc
bệnh trung bình, 2-5: khả năng mắc bệnh thấp,
<2: khả năng mắc bệnh rất thấp. Tỉ số khả dĩ âm
<0,1: khả năng không mắc bệnh cao, 0,1-0,2: khả
năng không mắc bệnh trung bình, 0,2-0,5: khả
năng không mắc bệnh thấp, >0,5: khả năng
không mắc bệnh rất thấp(9). Dùng tương quan
logistic để tính tỉ số số chênh của mỗi thành
phần BCH với ngưỡng chẩn đoán AHI ≥5. Phân
tích số liệu có ý nghĩa thống kê khi p ≤0,05.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
NC bao gồm 123 đối tượng, tuổi trung bình
là 49,0 ± 13,3 tuổi, giới nam chiếm 71,7% (n = 87).
Theo kết quả ĐKGN, có 70 đối tượng mắc
NTLNT (AHÍ ≥ 5 lần/giờ), 53 đối tượng không
mắc NTLNTN (AHÍ < 5 lần/giờ). Nhóm mắc
NTLNTN có độ tuổi trung bình là 51,3 ± 12,2,
đỉnh tuổi là 45-64 tuổi, có tỉ lệ giới nam cao hơn
nhóm không mắc NTLNTN (P < 0,05). Nhóm
NTLNTN có BMI cao hơn có ý nghĩa so với
nhóm không mắc NTLNTN (P < 0,05). Về các
triệu chứng lâm sàng, trừ triệu chứng buồn ngủ
ban ngày quá mức, các triệu chứng khác: ngáy,
ngưng thở lúc ngủ, THA, béo phì đều cao hơn có
ý nghĩa so với nhóm không mắc NTLNTN (p <
0,05) (bảng 1).
Giá trị của bảng câu hỏi Berlin trong chẩn
đoán NTLNTN
Chúng tôi ghi nhận sự tương đồng kết quả
của các câu hỏi trong phần 1 là tốt với giá trị
Cronbach α là 0,81, tuy nhiên sự tương đồng kết
quả của các câu hỏi trong phần 2 là thấp với giá
trị Cronbach α là 0,65.
Theo BCH Berlin, trong 123 đối tượng, có 77
đối tượng (62,6%) được xếp vào nhóm có nguy
cơ cao mắc NTLNTN, có 46 đối tượng (37,4%)
được xếp vào nhóm nguy cơ thấp mắc NTLNTN
(Bảng 2). Tỉ lệ đồng thuận giữa BCH Berlin và
AHI là 76,4% (n=94).
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 126
Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng của 2 nhóm mắc và
không mắc NTLNTN
Biến số NTLNTN Không NTLNTN
Tuổi 51,3± 12,2 46,1±14,2
Giới nam ,% (n) 81,4(57)* 56,6 (30)
Chu vi vòng cổ
Nam(cm) 40,1 ± 2,5* 37,7±2,7
Nữ (cm) 35,1 ± 3,2 34,1±1,5
Chu vi vòng bụng
Nam (cm) 96,1 ± 7,1* 87,3±6,9
Nữ (cm) 89,8 ± 7,3 85,3±6,6
BMI (Kg/m
2
)
Nam 25,7 ±3,0* 23,4±2,8
Nữ 26,2 ± 3,6* 23,1±2,2
Ngáy (%) 98,6* 73,6
NTLN (%) 58,6* 9,4
BNBN (%) 47,1 45,3
THA (%) 68,6* 26,4
Béo phì (%) 25,7* 3,8
AHI (lần/giờ) 33,6±24,4 1,1±1,3
NTLNTN: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn, NTLN:
Ngưng thở lúc ngủ, BNBN: Buồn ngủ ban ngày, BMI:
Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể), AHI: Apnea-
Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).
*: khác biệt có ý nghĩa thống kê với P <0,05.
Độ nhạy của BCH Berlin trong tầm soát
NTLNTN khá cao lần lượt là 84,3%, 88,2% và
90,6% cho các ngưỡng chẩn đoán AHI≥
5,>15,>30. Tuy nhiên, độ đặc hiệu của BCH Berlin
không cao: 66,0%, 55,6%, 47,5% tương ứng cho
các ngưỡng chẩn đoán AHI ≥ 5,>15,>30 (Bảng 3).
Bảng 2. Sự tương quan giữa kết quả bảng câu hỏi
Berlin và AHI
AHI Nguy cơ cao NTLNTN
Số BN (Tỉ lệ %)
Nguy cơ thấp NTLNTN
Số BN (Tỉ lệ %)
<5 18(23,4) 35(76,1)
5-15 14 (18,2) 5(10,9)
15-30 16 (20,8) 3(6,5)
>30 29(37,6) 3(6,5)
Tổng 77(100) 46(100)
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở),
NTLNTN: Ngưng thở lúc ngủ tắc nghẽn.
Bảng 3. Giá trị của bảng câu hỏi Berlin với từng
ngưỡng chẩn đoán
BCH Berlin AHI≥5 AHI>15 AHI>30
Độ nhạy (%) 84,3 88,2 90,6
Độ đặc hiệu (%) 66,0 55,6 47,5
BCH Berlin AHI≥5 AHI>15 AHI>30
Tỉ số khả dĩ dương 2,48 1,99 1,72
Tỉ số khả dĩ âm 0,24 0,21 0,20
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).
Tỉ số khả dĩ dương, tỉ số khả dĩ âm của BCH
Berlin lần lượt là 2,48 và 0,24 tương ứng với
ngưỡng chẩn đoán AHI ≥ 5, 1,99 và 0,21 với AHI
>15, 1,72 và 0,20 với AHI>30.
Mối liên hệ giữa các thành phần bảng câu
hỏi Berlin với AHI
Trong các thành phần của BCH, chỉ có câu
hỏi 1 (có ngáy hay không), câu hỏi 4 (ngáy có
ảnh hưởng người ngủ chung), câu hỏi 5 (có cơn
ngưng thở lúc ngủ) và phần 3 (THA, béo phì) là
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với ngưỡng
chẩn đoán AHI≥5 (Bảng 4).
Bảng 4. Tỉ số số chênh hiệu chỉnh của các thành phần
BCH Berlin với ngưỡng AHI≥5
Thành phần BCH Tỉ số số chênh hiệu chỉnh
(OR, 95%CI)
Phần 1 10,0 (3,0-33,5)
Câu hỏi 1 14,9 (1,1-206,8)
Câu hỏi 2 1,9 (0,4-8,1)
Câu hỏi 3 0,4 (0,1-2,1)
Câu hỏi 4 4,4 (1,1-17,7)
Câu hỏi 5 6,1 (1,1-35,4)
Phần 2 1,3 (0,5-3,0)
Câu hỏi 6 0,4 (0,1-1,5)
Câu hỏi 7 1,9 (0,5-7,2)
Câu hỏi 8 2,4 (0,2-32,6)
Câu hỏi 9 1,6 (0-632,7)
Phần 3 (Câu hỏi 10) 6,3 (2,2-18,5)
AHI: Apnea-Hypopnea Index (Chỉ số ngưng thở-giảm thở).
BÀN LUẬN
Trong NC này, khi áp dụng tầm soát
NTLNTN trên các đối tượng rối loạn giấc ngủ
người Việt Nam, BCH Berlin cho độ nhạy khá
cao (84,3%- 90,6%) tuy nhiên độ đặc hiệu (47,5%-
66,0%), tỉ số khả dĩ dương (1,72-2,48) và tỉ số khả
dĩ âm (0,20-0,24) thấp. Do đó, BCH Berlin chưa
thật sự là công cụ tầm soát hiệu quả trên các BN
có rối loạn giấc ngủ, tuy nhiên trong điều kiện
thiếu trang thiết bị chẩn đoán như hiện nay,
BCH có thể ứng dụng trong việc tầm soát các đối
tượng NTLNTN mức độ nặng (AHI>30) với tỉ lệ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 127
bỏ sót có thể chấp nhận được là 9,4%.
Các NC trước đây cũng ghi nhận giá trị của
BCH Berlin rất thay đổi. Trong các NC thực hiện
trên dân số không có tiền sử liên quan đến rối
loạn giấc ngủ, BCH Berlin cho độ nhạy và độ đặc
hiệu khá cao, Netzer NC và cộng sự ghi nhận với
ngưỡng chẩn đoán AHI ≥5, độ nhạy và độ đặc
hiệu tương ứng của BCH Berlin lần lượt là 86%
và 77%(8). Tương tự Sharma SK và cộng sự cũng
ghi nhận độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao cho
BCH Berlin là 85,5% cho độ nhạy và 95,2% cho
độ đặc hiệu(12). Tuy nhiên các NC thực hiện trên
dân số có tiền sử rối loạn giấc ngủ lại ghi nhận
độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin không
cao. Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin lần
lượt là 72,1% và 50% theo A.P.Var(1), 68% và 49%
theo Ahmadi N(2).
Độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin
trong tầm soát NTLNTN trên các đối tượng rối
loạn giấc ngủ không cao có thể do tỉ lệ hiện mắc
NTLNTN cao trên các đối tượng này (trong NC
của chúng tôi là 57,3% (n=70), điều này sẽ làm
cho tăng số bệnh nhân dương tính giả và âm
tính giả theo BCH Berlin. Khi so sánh với các NC
trước đây cùng được thực hiện trên các đối
tượng rối loạn giấc ngủ, NC của chúng tôi ghi
nhận độ nhạy và độ đặc hiệu của BCH Berlin cao
hơn. Điều này có thể được lý giải là do trong NC
này, có một tỉ lệ không nhỏ (34%) các đối tượng
đến khám vì lí do mất ngủ không liên quan đến
các triệu chứng của NTLNTN, ngoài ra 2 nhóm
đối tượng chiếm tỉ lệ cao nhất là nhóm AHI<5
(42,7%) và nhóm AHI>30 (25,8%).
Một trong các lý do có thể giải thích BCH
Berlin có độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ dương và tỉ số
khả dĩ âm không cao là do không có câu hỏi nào
trong phần 2 (triệu chứng buồn ngủ ban ngày
quá mức) có mối liên quan với AHI. Kết quả này
tương tự với các NC trước đây. A.P.Var và cộng
sự cũng ghi nhận không có câu hỏi nào của phần
2 có tương quan với AHI, chỉ có câu hỏi 2, 5 của
phần 1 (liên quan tới mức độ ngáy to, cơn ngưng
thở lúc ngủ được chứng kiến) và phần 3
(THA/béo phì) tương quan với AHI(1). Ahmadi N
cũng ghi nhận tương tự, không có mối liên quan
giữa kết quả phần 2 với chỉ số rối loạn hô hấp
(Respiratory Disturbance Index)(12). Hay trong
NC phân tích gộp của Ramachandran, tác giả
cũng ghi nhận chỉ có BMI, tiền sử THA và triệu
chứng thở nấc ban đêm là những yếu tố tăng độ
chính xác của các xét nghiệm chẩn đoán(10). Điều
này có thể được lý giải là do triệu chứng buồn
ngủ ban ngày không đặc hiệu cho bệnh
NTLNTN, triệu chứng này có thể là hậu quả của
nhiều loại rối loạn giấc ngủ khác như mất ngủ
do các nguyên nhân, hội chứng chân không yên,
chứng ngủ rũTrong NC của chúng tôi có tới
34% các đối tượng đến khám vì mất ngủ mà đa
phần là do các nguyên nhân tâm lý chính điều
này có thể làm tăng tỉ lệ dương tính giả của phần
2. Bên cạnh đó khi tiến hành khảo sát BCH,
chúng tôi cũng ghi nhận câu 8 trong phần 2
(Buồn ngủ khi điều khiển phương tiện giao
thông) không thật sự phù hợp với đối tượng Việt
Nam, do đặc điểm giao thông ở Việt Nam chủ
yếu sử dụng xe gắn máy, mật độ giao thông rất
cao nên tỉ lệ này không tương đồng với các nước
sử dụng xe ô tô và mật độ giao thông thấp hơn.
Do đó, để có thể áp dụng hiệu quả hơn
BCH Berlin trong chẩn đoán NTLNTN, cần
hiệu chỉnh lại các câu hỏi trong phần 2 liên
quan đến triệu chứng buồn ngủ ban ngày theo
hướng giảm vai trò của các câu hỏi này trong
kết quả chung của BCH.
Những hạn chế của NC này gồm: Thứ
nhất, đây là NC mô tả cắt ngang nên không
chỉ ra được sự liên quan giữa NTLNTN và các
yếu tố khác có phải là liên quan nhân quả hay
không. Thứ hai, tuy BCH Berlin trong NC
được dịch sang tiếng việt và được sửa lại bởi 2
chuyên gia về rối loạn giấc ngủ nhưng chưa
đáp ứng được yêu cầu về quy trình dịch xuôi,
dịch ngược trong NC khoa học. Thứ ba, trong
NC này kết quả AHI được đo bởi 2 máy
ĐKGN khác nhau. Thứ tư, NC này được thực
hiện tại trung tâm chẩn đoán y khoa tư nhân
tại TP. HCM. Mặc dù, các đối tượng được lấy
liên tục trong 7 tháng tuy nhiên để tăng tính
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Chuyên Đề Nội Khoa I 128
đại diện của mẫu lên cần những NC đa trung
tâm và thời gian dài hơn. Với hạn chế đó, cần
chú ý khi sử dụng giá trị bên ngoài của NC.
Tóm lại, với sự hạn chế của trang thiết bị
chẩn đoán hiện nay, BCH Berlin có thể sử dụng
để tầm soát các đối tượng NTLNTN mức độ
nặng với độ nhạy khá cao. Tuy nhiên, BCH
Berlin vẫn chưa thật sự là công cụ tầm soát
NTLNTN hiệu quả trên các đối tượng rối loạn
giấc ngủ người Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vaz AP, Drummond M et al (2011). Translation of Berlin
Questionnaire to Portuguese language and its application in
OSA identification in a sleep disordered breathing clinic. Rev
Port Pneumol, 17(2), 59-65.
2. Ahmadi N, Chung SA, Gibbs A, Shapiro CM (2008). The Berlin
questionnaire for sleep apnea in a sleep clinic population:
Relationship to polysomnographic measurement of respiratory
disturbance. Sleep Breath, 12-39.
3. American Academy of Sleep Medicine Task Force (1999).
Sleep- related breathing disorders in adults: recommendations
for syndrome definition and measurement techniques in
clinical research. Sleep, 22, 667-689.
4. Arzt M, Young T, Finn L, Skatrud JB, Bradley TD (2005).
Association o