Vai trò của chi trả dịch vụ môi trường rừng trong quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng: Trường hợp nghiên cứu tại Bản Duống, xã Hoàng Trĩ, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn

Chi trả dịch vụ môi trường (DVMT) là một công cụ sử dụng các khuyến khích về kinh tế cho việc bảo vệ, duy trì hoặc làm gia tăng việc phân phối các lợi ích cho mọi người từ các hệ thống tự nhiên (Bulte và cs., 2008; Muradian và cs., 2010). Chính vì vậy, chi trả dịch vụ môi trường đang trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng. Hiệu quả của công cụ này còn được nhân lên gấp đôi khi thực hiện ở các quốc gia nghèo và đang phát triển, do có thể kết hợp các mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ rừng với hoạt động xóa đói, giảm nghèo cho những người dân địa phương sống dựa vào rừng (van Wilgen và cs., 1998). Ở nước ta, hoạt động chi trả DVMT rừng đã được thể chế hóa thông qua Nghị định số 99/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Chính sách này đã thúc đẩy các hoạt động chi trả DVMT rừng diễn ra một cách mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, số tiền huy động từ những người sử dụng DVMT cho hoạt động bảo vệ rừng đạt 3.440 tỷ đồng năm 2014 (VNFF, 2015). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tính hiệu quả, tính minh bạch trong chi trả DVMT rừng còn thấp (García - Amado và cs., 2011; Pascual và cs., 2010). Tiếp cận quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng đã được ghi nhận thành công ở một số quốc gia (Rodriguez-Robayo và cs., 2016).

pdf20 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của chi trả dịch vụ môi trường rừng trong quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng: Trường hợp nghiên cứu tại Bản Duống, xã Hoàng Trĩ, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
158 VAI TRÒ CỦA CHI TRẢ DỊCH VỤ MÔI TRƯỜNG RỪNG TRONG QUẢN LÝ RỪNG DỰA TRÊN CƠ SỞ CỘNG ĐỒNG: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU TẠI BẢN DUỐNG, XÃ HOÀNG TRĨ, HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN Cao Trường Sơn, Nguyễn Thanh Lâm Bộ môn Quản lý Môi trường, Học viện Nông nghiệp Việt Nam Trần Đức Viên Bộ môn Sinh thái Nông nghiệp, Học viện Nông nghiệp Việt Nam MỞ ĐẦU Chi trả dịch vụ môi trường (DVMT) là một công cụ sử dụng các khuyến khích về kinh tế cho việc bảo vệ, duy trì hoặc làm gia tăng việc phân phối các lợi ích cho mọi người từ các hệ thống tự nhiên (Bulte và cs., 2008; Muradian và cs., 2010). Chính vì vậy, chi trả dịch vụ môi trường đang trở thành một công cụ hữu hiệu để quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên rừng. Hiệu quả của công cụ này còn được nhân lên gấp đôi khi thực hiện ở các quốc gia nghèo và đang phát triển, do có thể kết hợp các mục tiêu bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ rừng với hoạt động xóa đói, giảm nghèo cho những người dân địa phương sống dựa vào rừng (van Wilgen và cs., 1998). Ở nước ta, hoạt động chi trả DVMT rừng đã được thể chế hóa thông qua Nghị định số 99/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Chính sách này đã thúc đẩy các hoạt động chi trả DVMT rừng diễn ra một cách mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, số tiền huy động từ những người sử dụng DVMT cho hoạt động bảo vệ rừng đạt 3.440 tỷ đồng năm 2014 (VNFF, 2015). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến tính hiệu quả, tính minh bạch trong chi trả DVMT rừng còn thấp (García - Amado và cs., 2011; Pascual và cs., 2010). Tiếp cận quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng đã được ghi nhận thành công ở một số quốc gia (Rodriguez-Robayo và cs., 2016). Ở Việt Nam, sau khi Nghị định số 99/NĐ-CP được ban hành, nhiều điểm nghiên cứu về chi trả DVMT rừng đã được triển khai ở nước ta, tiêu biểu như ở Lâm Đồng, Sơn 159 La, Bắc Kạn, Thanh Hóa... (Cao Trường Sơn, 2015). Hầu hết các chương trình chi trả DVMT này là chi trả DVMT nước giữa các nhà máy thủy điện với những người dân ở khu vực rừng đầu nguồn, có tác dụng giữ nước cho các nhà máy này. Bên cạnh đó, tại một số địa phương như Thái Nguyên, Bắc Kạn, Lâm Đồng, cũng xuất hiện những mô hình chi trả đối với các DVMT về bảo về nguồn nước, duy trì cảnh quan và bảo tồn đa dạng sinh học (VNFF, 2014). Tại các địa phương nói trên, Bắc Kạn là một khu vực có hoạt động chi trả DVMT nổi bật nhất do có cả hai loại hình chi trả DVMT gián tiếp (chi trả của các nhà máy thủy điện) và trực tiếp (chi trả tự nguyện có sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ). Do đó, chúng tôi lựa chọn thực hiện đề tài này trên địa bàn huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, nhằm chỉ rõ vai trò của hoạt động chi trả DVMT rừng tới hoạt động bảo vệ rừng dựa trên cơ sở cộng đồng, từ đó đưa ra các khuyến nghị kịp thời để duy trì và nâng cao hiệu quả cho việc quản lý rừng thông qua chính sách chi trả DVMT ở nước ta trong thời gian tới. 1. ĐỊA ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Địa điểm nghiên cứu 1.1.1. Mô tả cộng đồng vùng cao Bản Duống nằm tại tọa độ 48Q 0568403 - UTM 2468091, là một thôn vùng cao của xã Hoàng Trĩ, huyện Ba Bể. Toàn thôn có 29 hộ gia đình, sinh sống trong đó có 24 hộ là người dân tộc Tày đã sinh sống và định cư lâu đời, còn lại 5 hộ là người dân tộc Dao di cư từ Cao Bằng tới vào những năm 1970. Tính đến cuối năm 2015, dân số của bản Duống là 143 người, trong đó 91,61% là dân tộc Tày và 8,39% là dân tộc Dao. Sinh kế của người dân nơi đây phần lớn dựa vào hoạt động nông nghiệp và khai thác rừng. Tuy nhiên, kể từ ngày 10/11/1992, với Quyết định số 83/TTg của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Vườn Quốc gia (VQG) Ba Bể, bản Duống được quy hoạch là vùng đệm của VQG, vì vậy hoạt động khai thác rừng của người dân bản Duống bị hạn chế (Ban Quản lý VQG Ba Bể, 2016). Rừng cộng đồng thuộc bản Duống tuy có diện tích không lớn (180 ha), nhưng lại nằm ở vị trí đầu nguồn của lưu vực sông (LVS) Tà Lèng, một trong ba nguồn cung cấp nước chính cho hồ Ba Bể. Do đó, khu rừng này không những có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ thôn bản, cung cấp nước cho nông nghiệp, sinh hoạt của bản Duống, mà còn giữ vai trò quan trọng trong việc điều tiết nước và lưu giữ cảnh quan cho hồ Ba Bể. Các hoạt động sinh kế và bảo vệ rừng của bản Duống vì vậy có 160 ảnh hưởng lớn tới hoạt động du lịch cảnh quan ở khu vực xung quanh hồ Ba Bể. Hình 1. Vị trí địa lý khu vực nghiên cứu 1.1.2. Mô tả cộng đồng vùng thấp Xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể có 2 bản du lịch nổi tiếng nằm cạnh hồ Ba Bể là bản Pác Ngòi và bản Bó Lù. Dân số bản Pác Ngòi là 145 người (2015), với 100% là dân tộc Tày. Trong khi đó, dân số của Bó Lù là 116 người (2015), thuộc 3 thành phần dân tộc: Tày (88,8%), Kinh (9,48%) và Nùng (1,72%). Do nằm sát hồ Ba Bể, nên sinh kế của người dân nơi đây chủ yếu dựa vào hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch (nhà nghỉ và lái xuồng chở khách tham quan hồ Ba Bể). Chính vì vậy, thu nhập bình quân của người dân nơi đây khá cao, cụ thể là 22,18 triệu đồng/người/năm (Pác Ngòi) và 10,99 triệu đồng/ người/năm (Bó Lù). Ý thức được vai trò của hoạt động bảo vệ rừng đầu nguồn của bản Duống đến hoạt động du lịch của thôn bản mình, nên những hộ kinh doanh du lịch tại hai bản Pác Ngòi và Bó Lù đã tình nguyện đóng góp một phần kinh phí để hỗ trợ người dân bản Duống bảo vệ rừng và vệ sinh môi trường, từ đó hình thành nên mô hình chi trả DVMT trực tiếp giữa người dân bản Duống và xã Nam Mẫu vào năm 2013. 161 1.2. Phương pháp nghiên cứu 1.2.1. Phương pháp tiếp cận Tiếp cận nghiên cứu trên cơ sở đánh giá mối tác động tương hỗ giữa hệ thống xã hội và hệ thống tự nhiên tại bản Duống với cộng đồng người dân vùng thấp (xã Nam Mẫu ở vùng lõi VQG Ba Bể) tại thời điểm trước và sau khi triển khai chi trả dịch vụ môi trường rừng năm 2013 (Hình 2). Hệ thống xã hội bao gồm dân số, tri thức địa phương, phương thức sinh kế, các giá trị, hệ thống tổ chức, quy định và các phương thức quản lý tài nguyên. Hệ thống tự nhiên bao gồm tài nguyên rừng, đất, nước, cây trồng, vật nuôi và dịch hại (Hình 3). Các hệ thống này hình thành hệ sinh thái nhân văn của vùng thấp và vùng cao tại huyện Ba Bể. Như vậy, chi trả dịch vụ môi trường được xác định có tầm ảnh hưởng ở bên trong nội bộ bản Duống và có tác động đến bên ngoài (xã vùng thấp). Hình 2. Tác động tương hỗ giữa cộng đồng vùng cao và vùng thấp thông qua chi trả dịch vụ môi trường rừng tại huyện Ba Bể 162 Hình 3. Khung tiếp cận nghiên cứu hệ sinh thái nhân văn Nguồn: Marten, 2001. 1.2.2. Các phương pháp nghiên cứu Thu thập số liệu thứ cấp: Tiến hành thu thập các số liệu thống kê (dân số, điều kiện tự nhiên, diện tích đất đai, rừng, các hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền địa phương, thống kê về công tác chi trả DVMT, các chương trình phát triển rừng ở địa phương) từ các cơ quan chức năng (UBND xã, huyện Ba Bể, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Hạt Kiểm lâm, VQG Ba Bể) trên địa bàn nghiên cứu và các tài liệu khoa học đã được xuất bản và công bố có liên quan tới đề tài và khu vực nghiên cứu. Phỏng vấn cấu trúc: Tiến hành thiết kế bảng hỏi để tiến hành phỏng vấn cấu trúc đối với toàn bộ 29 hộ gia đình của người dân bản Duống. Các nội dung bảng hỏi tập trung vào các vấn đề: các thông tin cơ bản về hộ; lý do tham gia/không tham gia chương trình chi trả DVMT; các lợi ích thu được/mất đi; hiểu biết về chi trả DVMT và bảo vệ rừng; mong muốn và đánh giá về chương trình chi trả DVMT. 163 Phương pháp họp nhóm cộng đồng: Tiến hành mời từ 5-7 người dân bản Duống, bao gồm cả nam và nữ ở các lứa tuổi khác nhau, tham gia họp nhóm để tiến hành thảo luận và thực hiện một số công cụ đánh giá nhanh nông thôn (RRA). Các công việc triển khai gồm: - Vẽ sơ đồ thôn/bản: Cùng người dân bản địa thảo luận và vẽ sơ đồ thôn bản ở thời điểm hiện tại và sơ đồ thôn bản cách đây 5 năm, từ đó thấy được sự khác biệt và tìm ra khu vực rừng quan trọng của thôn, rừng hay bị chặt phá và đường tuần tra rừng. - Lược sử thôn/bản: Phân tích lược sử thôn bản được chia làm 2 giai đoạn, gồm: giai đoạn trước năm 2013 và sau năm 2013 (thời điểm bắt đầu có hoạt động chi trả DVMT), nhằm chỉ ra sự khác biệt của các thôn bản về cảnh quan, cơ sở hạ tầng, hoạt động quản lý rừng và hoạt động khai thác, sử dụng rừng. - Phân tích SWOT: Tiến hành phân tích SWOT có sự tham gia của 7 người dân, nhằm chỉ ra được các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của địa phương, từ đó đưa ra các giải pháp và chiến lược trong việc quản lý và bảo vệ rừng của từng thôn/bản. Phương pháp tổ chức hội thảo: Hội thảo trình bày kết quả và xin ý kiến chính quyền địa phương, lãnh đạo xã, VQG, được tổ chức vào 29 - 30/7/2016. Phương pháp xử lý số liệu: Các dữ liệu nghiên cứu của đề tài được tổng hợp và xử lý thống kê trên phần mềm Excel 2010 và Stata 12. 2. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 2.1. Đặc trưng cơ bản hoạt động sinh kế tại bản Duống Cuộc sống của người dân bản Duống còn nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ mang tính chất tự cung tự cấp, thu nhập bình quân chỉ đạt gần 5,2 triệu đồng/người/năm, cơ cấu thu nhập của người dân bản Duống năm (2015) được chỉ ra trong Hình 4. 164 Hình 4. Cơ cấu các nguồn thu nhập của người dân bản Duống Nguồn: Tổng hợp phiếu điều tra hộ, 2015. Theo Hình 4, lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt chiếm tới hơn 66,5% tổng thu nhập của người dân bản Duống, tỷ trọng thu nhập từ rừng ở mức tương đối, với 9,83%. Hoạt động kinh doanh và ngư nghiệp chiếm tỷ nhỏ. Nhìn chung cuộc sống của người dân bản Duống còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao, chiếm 50% (trong đó hộ nghèo là 21,43% và hộ cận nghèo là 28,57%). Một số đặc trưng cơ bản của bản Duống được tóm tắt trong Bảng 1. Bảng 1. Một số đặc trưng cơ bản của bản Duống, xã Hoàng Trĩ, huyện Ba Bể TT Chỉ tiêu Đơn vị Số lượng 1 Dân số (2015) người 143 2 Số hộ hộ 29 3 Thành phần dân tộc + Tày + Dao % 100 91,61 8,39 4 Thu nhập bình quân đồng/người/năm 5.193.000 5 Tỷ lệ hộ nghèo % 21,43 6 Tỷ lệ hộ cận nghèo % 28,57 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra hộ, 2015. 165 Mặc dù là khu vực nhỏ, mật độ dân cư thấp và điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng bản Duống có vị trí địa lý rất quan trọng đối với VQG Ba Bể. Đây là khu vực thượng nguồn của một trong ba nguồn cung cấp nước sạch chính cho hồ Ba Bể (thượng nguồn sông Tà Lèng), do đó hoạt động sản xuất, bảo vệ rừng của người dân bản Duống có ý nghĩa quan trọng đối với việc duy trì nguồn nước sạch, giữ gìn cảnh quan cho hồ Ba Bể và cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho người dân phía dưới hạ nguồn. Mặt khác, diện tích rừng của bản Duống thuộc vùng đệm, nên là lá chắn ngăn chặn các hoạt động khái thác trái phép của người dân bên ngoài tác động đến khu vực vùng lõi của VQG Ba Bể. 2.2. Hoạt động khai thác và quản lý rừng cộng đồng tại bản Duống 2.2.1. Hiện trạng rừng bản Duống Hình 5. Sơ đồ bản Duống được người dân địa phương phác thảo Nguồn: Điều tra thực địa, 2015. Hiện bản Duống có tổng số 550 ha rừng, trong đó có 180 ha rừng phòng hộ đầu nguồn, 350 ha rừng sản xuất và 20 ha diện tích rừng 166 trồng và khoanh nuôi. Diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn (180 ha) là diện tích rừng chung của thôn (rừng cộng đồng), đây là diện tích rừng nằm ở vị trí hiểm trở, khó đi lại và xa khu dân cư, do đó không có hộ gia đình nào nhận chăm sóc. Tuy nhiên, đây lại là diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn có ý nghĩa quan trọng: cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, nước tưới cho sản xuất nông nghiệp, bảo vệ thôn và có chất lượng tốt nhất. Khu vực này cũng là nơi thường xuyên xảy ra các hoạt động khai thác gỗ trái phép từ những người bên ngoài. Chính vì vậy, để hạn chế các khó khăn trong việc quản lý và bảo vệ diện tích rừng này, UBND xã Hoàng Trĩ đã giao cho cộng đồng bản Duống cùng nhau theo dõi và bảo vệ. Vị trí của khu vực rừng cộng đồng được chỉ ra trong Hình 5. 2.2.2. Các áp lực đối với rừng cộng đồng của bản Duống Theo kết quả điều tra và thảo luận nhóm, các áp lực chính làm suy giảm chất lượng rừng cộng đồng của bản Duống gồm: hoạt động khai thác gỗ từ những người bên ngoài cộng đồng (tỷ lệ trả lời 100%), hoạt động khai thác lâm sản của các thành viên trong cộng đồng (tỷ lệ trả lời 89,66%), cháy rừng (24,14%), dịch bệnh (6,9%) và một số nguyên nhân khác như: thời tiết, khí hậu, thiên tai... (10,34%). Trong đó, nguyên nhân khai thác trái phép từ bên ngoài cộng đồng là quan trọng nhất, tiếp đó là do hoạt động khai thác của người dân trong cộng đồng và thứ 3 là do cháy rừng. Hoạt động khai thác gỗ trái phép trong rừng cộng đồng diễn ra phổ biến do khu vực này là khu giáp ranh với xã khác (xã Nam Cường), nên các đối tượng bên ngoài rất dễ xâm nhập và khai thác. Việc rừng cộng đồng nằm xa khu dân cư cũng khiến cho việc theo dõi, phát hiện các cuộc phá rừng gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, do sinh kế của người dân bản Duống còn nhiều khó khăn, nên việc người dân thường xuyên vào rừng kiếm củi đun, rau, măng và các lâm sản khác cũng góp phần khiến cho rừng cộng đồng của bản bị suy giảm về chất lượng. Các nguyên nhân khác như cháy rừng, dịch bệnh, thiên tai... cũng ảnh hưởng đến rừng cộng đồng của bản Duống, nhưng tần suất không thường xuyên và mức độ tác động thấp. 167 Bảng 2. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến rừng cộng đồng của bản Duống Nguyên nhân Số lượng trả lời có (người) Tỷ lệ (%) Khai thác trái phép từ bên ngoài 29 100 Khai thác từ thành viên cộng đồng 26 89,66 Cháy rừng 7 24,14 Dịch bệnh 2 6,90 Khác 3 10,34 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra hộ, 2015. 2.2.3. Hoạt động bảo vệ rừng cộng đồng của người dân bản Duống Ngay sau khi được giao bảo vệ 180 ha rừng phòng hộ đầu nguồn (năm 2010), bản Duống đã tiến hành thành lập Tổ tuần rừng của thôn, mỗi hộ gia đình cử một người tham gia vào Tổ. Tổ tuần rừng được chia làm 2 tổ (mỗi tổ hơn 10 người), tiến hành tuần tra rừng cộng đồng từ 1-2 lần/năm. Các thành viên của Tổ tuần rừng thường là đàn ông, tuy nhiên khi những người này có công việc bận không tham gia được, các hộ có thể cử một thành viên khác trong gia đình đi thay thế. Những người này có thể là bất cứ một thành viên nào trong gia đình, kể cả nữ giới, chỉ cần có đủ sức khỏe tham gia vào các cuộc tuần rừng. Độ tuổi của các thành viên Tổ tuần rừng không được quy định cụ thể, nhưng chủ yếu là từ tuổi thanh niên đến trung niên, những người già và trẻ nhỏ không tham gia vào các cuộc tuần tra rừng. Với cách bố trí như trên bảo đảm tất cả các hộ gia đình trong bản đều tham gia vào Tổ tuần rừng, lực lượng của Tổ luôn được bảo đảm do có sự thay thế linh động, việc không phân biệt giới tính trong Tổ tuần rừng cũng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ tham gia vào công việc quản lý rừng cộng đồng. Kể từ sau năm 2013, Tổ tuần rừng của bản Duống được chia làm 4 tổ, thay nhau đi tuần tra trong năm, tần suất tuần tra rừng cũng được gia tăng lên 1 lần/tháng. Hình 5 chỉ ra tuyến đường tuần tra rừng của bản Duống, đội tuần tra rừng thường xuất phát từ nhà Trưởng thôn và di chuyển tới bìa rừng. Tại đây, họ sẽ chia làm 2 ngả đi theo hai hướng khác nhau, tạo thành một vòng khép kín xung quanh rừng cộng đồng của thôn. Thời gian cho một đợt tuần tra rừng mất từ 2-3 ngày và mỗi thành viên của đội sẽ được hỗ trợ 50.000 đ/ngày/người. 168 2.2.4. Nhận thức của người dân về vai trò của rừng Kết quả điều tra tại 29 hộ dân bản Duống cho thấy, có tới 93,1% những người trả lời cho rằng, rừng có ảnh hưởng tới cuộc sống của họ và gia đình họ từ mức trung bình đến rất quan trọng (20,68% rất quan trọng, 10,34% quan trọng và 62,07% bình thường). Chỉ có 6,9% số người được hỏi trả lời là rừng cộng đồng không quan trọng đối với họ và gia đình họ. Bảng 3. Tỷ lệ nhận biết vai trò của rừng cộng đồng của người dân bản Duống Chức năng của rừng cộng đồng Số người trả lời có (người) Tỷ lệ (%) Cung ứng Cung cấp vật liệu làm nhà cửa (chủ yếu là gỗ) 21 72,41 Cung cấp lương thực, thực phẩm 17 58,62 Cung cấp thuốc men, dược liệu 11 37,93 Cung cấp giống cây trồng, vật nuôi 8 27,59 Cung cấp củi đun 22 75,86 Điều tiết Điều hòa khí hậu 29 100 Điều tiết nguồn nước 29 100 Bảo vệ đất, chống xói mòn 29 100 Kiểm soát dịch bệnh 7 24,14 Cố định các bon 6 20,69 Văn hóa Hoạt động văn hóa, tinh thần 12 41,38 Du lịch sinh thái 8 27,59 Tín ngưỡng 8 27,59 Giáo dục con cái 25 86,21 Hỗ trợ Tái tạo chất dinh dưỡng 0 0 Kiến tạo đất 0 0 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra hộ, 2015. 169 Để tìm hiểu sâu hơn về vai trò của rừng cộng đồng đối với cuộc sống của người dân bản Duống, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu về các chức năng của rừng cộng đồng như: chức năng cung ứng, chức năng điều tiết, chức năng văn hóa và chức năng hỗ trợ. Theo Bảng 3, đối với chức năng cung ứng, việc cung cấp vật liệu làm nhà (72,41%), cung cấp củi đun (75,86%) và cung cấp lương thực, thực phẩm (58,62%) được người dân nhận biết và đánh giá một cách rõ ràng nhất. Chức năng cung cấp thuốc men, giống vật nuôi cây trồng của rừng cộng đồng cũng được đề cập, tuy nhiên với tỷ lệ không cao. Bên cạnh đó, đối với nhóm chức năng điều tiết khả năng điều hòa khí hậu, điều tiết nguồn nước và bảo vệ đất của rừng cộng đồng được người dân bản Duống nhận biết rõ ràng nhất, với tỷ lệ đều là 100%. Các chức năng kiểm soát dịch bệnh và cố định cacbon có được xác nhận ở mức độ không cao, với tỷ lệ lần lượt là 24,14% và 20,69%. Trong khi đó, đối với chức năng văn hóa vai trò của rừng cộng đồng với việc giáo dục con cái (86,21%) và duy trì đời sống văn hóa, tinh thần (41,38%) được người dân đánh giá cao. Đối với chức năng hỗ trợ của rừng, như tái tạo chất dinh dưỡng cho đất, kiến tạo đất..., hoàn toàn không được nhận biết từ các thành viên trong cộng đồng (0%), do đây là những kiến thức và nội dung rất mới, lạ đối với người dân địa phương. Với đánh giá trên có thể thấy, người dân bản Duống có nhận thức khá cao về vai trò của rừng cộng đồng đối với cuộc sống của gia đình và bản của họ. Đây sẽ là động lực quan trọng để duy trì hoạt động bảo vệ rừng bền vững ở nơi đây. 2.3. Tác động của hoạt động chi trả DVMT đến quản lý rừng dựa trên cơ sở cộng đồng tại bản Duống 2.3.1. Hoạt động chi trả DVMT tại bản Duống Kể từ năm 2013, hoạt động chi trả DVMT được triển khai trên địa bàn huyện Ba Bể. Bản Duống là khu vực nhận được tiền chi trả của 2 chương trình chi trả gồm: Chương trình chi trả gián tiếp giữa nhà máy thủy điện Na Hang với các chủ rừng thuộc lưu vực sông Năng và chương trình chi trả trực tiếp trên lưu vực sông Tà Lèng giữa người dân bản Duống với những người kinh doanh hoạt động du lịch tại 2 bản Pác Ngòi và Bó Lù, xã Nam Mẫu. Hiện trạng các chương trình chi trả DVMT tại bản Duống được tổng hợp trong Bảng 4. Theo đúng các cam kết, với tổng diện tích 180 ha rừng cộng đồng, bản Duống sẽ nhận được số tiền là 96,6 triệu đồng/năm. Trong 170 đó, 76 triệu đồng từ mô hình chi trả trực tiếp trên lưu vực sông Tà Lèng giữa người dân bản Duống với những người kinh doanh du lịch tại xã Nam Mẫu. Bảng 4. Tổng hợp các nguồn kinh phí từ hoạt động chi trả dịch vụ môi trường tại bản Duống TT Nguồn tiền Đơn giá Tổng số tiền (đồng/năm) Hiện trạng thực hiện Mô hình chi trả trực tiếp (lưu vực sông Tà Lèng) 1 Các hộ kinh doanh du lịch, HTX xuồng Nam Mẫu đồng/năm 26.000.000 Đã thực hiện năm 2013, đến 2014 bị tạm dừng 2 Hỗ trợ từ VQG Ba Bể đồng/năm 40.000.000 Cam kết, chưa thực hiện Mô hình chi trả gián tiếp (lưu vực sông Năng) 3 Chi trả từ nhà máy thủy điện Na Hang, Tuyên Quang 170.000 đồng/ha/ năm 30.600.000 Đã nhận được tiền chi trả cho giai đoạn 2014 - 2016 Tổng 96.600.000 Nguồn: Tổng hợp kết quả điều tra thực địa, 2015, 2016. Ngoài ra, bản Duống sẽ nhận được 30,6 triệu đồng/năm tiền chi trả DVMT từ nhà máy thủy điện Na Hang
Tài liệu liên quan