Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao ngành tài chính – ngân hàng trong tiến trình hội nhập kinh tê quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh

Trong bối cảnh thế giới chuyển biến mạnh mẽ, cuộc cách mạng 4.0 diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đây là một cơ hội và cũng là thách thức rất lớn để nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính Việt Nam nói riêng phải tận dụng được đòn bẩy về công nghệ lớn lao này. Trong đó, hệ thống tài chính có vai trò huyết mạch, chủ chốt trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Muốn vậy, việc tái cấu trúc lại một thị trường tài chính hiện đại giữa thị trường tài chính tiền tệ và thị trường vốn càng trở nên quan trọng. Để làm được điều đó ngoài yếu tố về máy móc thì yếu tố về nguồn nhân lực trong ngành tài chính ngân hàng là điều quan trọng nhất, quyết định việc hạn chế và giải quyết các khoản nợ xấu, xử lý các ngân hàng yếu kém, có thể bắt kịp và thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực sẵn sàng tiến kịp các nước Châu Á. Trước những biến động quá lớn của thế giới thì tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chiếm 6,21% chủ yếu do sự đóng góp của các ngành như khai khoáng và nông nghiệp thì hệ thống tài chính Việt Nam vẫn chưa đóng vai trò động lực thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế xã phát triển. Bên cạnh đò, các yếu tố đe dọa ổn định vĩ mô trong nước (thâm hụt ngân sách, nợ công, nợ xấu, quá trình tái cơ cấu kinh tế) vẫn là một lực cản kìm hãm tốc độ tăng trưởng và bứt phá của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, để nắm lấy cơ hội và vượt qua khó khăn thì vốn con người, công nghệ, hiệu quả quản lý là điều mà hệ thống tài chính Việt Nam cần phải tái cơ cấu để phát.

pdf7 trang | Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 531 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao ngành tài chính – ngân hàng trong tiến trình hội nhập kinh tê quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO NGÀNH TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TÊ QUỐC TẾ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Phương Nam* TÓM TẮT Trong bối cảnh thế giới chuyển biến mạnh mẽ, cuộc cách mạng 4.0 diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đây là một cơ hội và cũng là thách thức rất lớn để nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính Việt Nam nói riêng phải tận dụng được đòn bẩy về công nghệ lớn lao này. Trong đó, hệ thống tài chính có vai trò huyết mạch, chủ chốt trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Muốn vậy, việc tái cấu trúc lại một thị trường tài chính hiện đại giữa thị trường tài chính tiền tệ và thị trường vốn càng trở nên quan trọng. Để làm được điều đó ngoài yếu tố về máy móc thì yếu tố về nguồn nhân lực trong ngành tài chính ngân hàng là điều quan trọng nhất, quyết định việc hạn chế và giải quyết các khoản nợ xấu, xử lý các ngân hàng yếu kém, có thể bắt kịp và thu hẹp khoảng cách với các * ThS. Công Ty Dịch Vụ Mobifone khu vực 2. NCS. Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM. Email: nam.ntp@mobifone.vn nước trong khu vực sẵn sàng tiến kịp các nước Châu Á. Trước những biến động quá lớn của thế giới thì tình hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chiếm 6,21% chủ yếu do sự đóng góp của các ngành như khai khoáng và nông nghiệp thì hệ thống tài chính Việt Nam vẫn chưa đóng vai trò động lực thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế xã phát triển. Bên cạnh đò, các yếu tố đe dọa ổn định vĩ mô trong nước (thâm hụt ngân sách, nợ công, nợ xấu, quá trình tái cơ cấu kinh tế) vẫn là một lực cản kìm hãm tốc độ tăng trưởng và bứt phá của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, để nắm lấy cơ hội và vượt qua khó khăn thì vốn con người, công nghệ, hiệu quả quản lý là điều mà hệ thống tài chính Việt Nam cần phải tái cơ cấu để phát. Từ khóa: nguồn nhân lực, giáo dục – đào tạo, phát triển, hội nhập quốc tế THE ROLE OF HIGH QUALITY FINANCIAL RESOURCE - BANK IN THE INTERNATIONAL BILATERAL INTEGRATION PROCESS IN HOCHIMINH CITY ABSTRACT In the context of a rapidly changing world, the 4.0 revolution is taking place on a global scale. This is an opportunity and a great challenge for the Vietnamese economy in general and for the Vietnamese financial system. We have to make the leverage of this great technology. In particular, the financial system plays a vital role in the total investment of the whole society. To do so, the restructuring of a modern financial market 41 between the financial and monetary markets becomes even more important. To do that, apart from mechanical factors, the factor of human resources in the banking and finance industry is the most important, deciding the restriction and resolution of bad debts, dealing with weak banks. , can catch up and narrow the gap with countries in the region ready to catch up with Asian countries. In spite of the great fluctuations of the world, Vietnam’s economic growth rate is 6.21% mainly due to the contribution of industries such as mining and agriculture, the financial system of Vietnam has not played a role. The dynamics of promoting the commune economic development. Beside, the threat to domestic macroeconomic stability (budget deficit, public debt, bad debt, economic restructuring) is still an obstacle to the growth and development of the economy. Vietnam economy. Therefore, in order to seize opportunities and overcome difficulties, human capital, technology and management efficiency are what Vietnam’s financial system needs to restructure. Keywords: human resources, education - training, development, international integration 1. ĐẶT VẤN ĐÊ Trong quá trình đổi mới toàn diện của đất nước, ngành tài chính – ngân hàng đã có bước phát triển mạnh mẽ về công nghệ, trình độ quản lý, năng lực tài chính và nguồn nhân lực, qua đó từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Song khách quan mà nói, trong khi nguồn nhân lực được đào tạo từ các trường đại học là rất lớn nhưng đang thiếu đi nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong một số lĩnh vực như quản lý, quản trị rủi ro, đầu tư quốc tế, hoạch định chiến lược... Do đó, tìm ra một giải pháp căn cơ, lâu dài nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu cho ngành tài chính - ngân hàng vẫn là bài toán nan giải đối với hệ thống tài chính - ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của cả nước, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là trung tâm kinh tế năng động và đi đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nên nhiều năm qua, TP. Hồ Chí Minh luôn giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, chiếm 1/3 tổng sản phẩm quốc nội (GDP); 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp, 30% tổng thu ngân sách quốc gia, hơn 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, thu hút một phần ba tổng số dự án FDI. Riêng lĩnh vực tài chính - ngân hàng, TP. Hồ Chí Minh chiếm 30% tổng dư nợ cho vay và vốn huy động của các ngân hàng cả nước. Nếu cộng thêm thị trường chứng khoán và số vốn huy động của thị trường bảo hiểm thì tổng tài sản tài chính chiếm gần 50% tổng tài sản tài chính của cả nước. Thành phố còn tập trung đông đảo đội ngũ trí thức và hệ thống các trường cao đẳng, đại học, viện nghiên cứu... để trở thành một trung tâm công nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế và tài chính - ngân hàng lớn trong khu vực. Nằm giữa miền Ðông và Tây Nam Bộ, Thành phố có đường hàng không, cảng biển, hệ thống đường bộ thuận tiện kết nối trực tiếp với các nước trong khu vực và thế giới. Là địa phương dẫn đầu về số lượng ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các công ty, tập đoàn tài chính, với hệ thống mạng lưới kết nối dày đặc. Với những lợi thế và điều kiện thuận lợi như trên, Thành phố Hồ Chí Minh được mệnh danh là “thủ đô” và trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất cả nước. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế ngành tài chính-ngân hàng Việt Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Tài chính – Ngân hàng ... 42 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng vẫn chưa bắt kịp sự phát triển của ngành tài chính-ngân hàng trên thế giới, do thiếu nguồn nhân lực tài chính – ngân hàng chất lượng cao như thiếu kiến thức chuyên môn ở tầm quốc tế, đội ngũ quản trị điều hành (cán bộ quản lý, lãnh đạo) có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích, tổng hợp, am hiểu luật pháp và linh hoạt, độc lập xử lý các vấn đề của thực tế và thiếu đội ngũ cán bộ chuyên môn cao về quản trị ngân hàng hiện đại, phân tích tài chính, kiểm soát, kiểm toán nội bộ, phân tích và thẩm định dự án đầu tư, quản trị rủi ro Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm, giai đoạn 2016-2020 là: “Thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Do đó. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành tài chính - ngân hàng nói riêng là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội đối với thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Tại Hội thảo “Chất lượng nguồn nhân lực tài chính ngân hàng trong quá trình hội nhập” do Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia TP Hồ Chí Minh vừa tổ chức, nhiều ý kiến đánh giá: ngành (TCNH) tài chính - ngân hàng lâu nay vẫn tồn tại tình trạng nguồn nhân lực vừa thừa lại vừa thiếu, cụ thể thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong nhiều lĩnh vực chuyên sâu như xây dựng chiến lược phát triển, quản trị rủi ro, thanh toán quốc tế, đầu tư quốc tế... Theo dự báo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nhu cầu nhân lực chất lượng cao ngành tài chính ngân hàng vào năm 2020 là 120.900 người, tăng gấp hai lần so với năm 2016 (61.000 người)1. Nếu các cơ sở đào tạo không thay đổi chiến lược đào tạo nguồn lực, thì đến năm 2020 lực lượng lao động chất lượng cao trong ngành sẽ thiếu hụt trầm trọng. Tuy nhiên, theo tiến sỹ Lê Huyền Ngọc, nguyên Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Đông Sài Gòn, thực tế nhân lực trong ngành “vừa thừa, vừa thiếu” khi nhân lực có trình độ đại học thừa, nhưng lại thiếu kỹ năng, yếu kiến thức, khó thích nghi với sự thay đổi; thậm chí cả đạo đức nghề nghiệp khi nhiều nhân viên ngân hàng đã trục lợi, lừa đảo người gửi tiền để rút tiền rồi bỏ trốn, gây thất thoát và thiệt hại cho người dân và cả các ngân hàng, công ty tài chính hàng ngàn tỷ đồng. Bên cạnh đó, theo Quy hoạch phát triển nhân lực ngành tài chính - ngân hàng giai đoạn 2011-2020: Về cơ cấu, nhân lực trong ngành tài chính - ngân hàng có độ tuổi từ 30-50 chiếm 35,05%; độ tuổi trên 50 trở lên chiếm tỷ lệ 4,26% 2. Chất lượng nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành và nền kinh tế, chưa thể đảm bảo cho sự phát triển ổn định, vững chắc trong quá trình hội nhập quốc tế về lĩnh vực tài chính- ngân hàng; tính chuyên nghiệp của nhân lực tại một số vị trí công việc ở nhiều ngân hàng chưa cao; kiến thức về kinh tế, chuyên môn ngân hàng và kiến thức bổ trợ của một bộ phận không nhỏ cần phải đào tạo. Ngân hàng Nhà nước thiếu đội ngũ chuyên gia kinh tế, quản 1Thông tấn xã Việt Nam (2016) Ngành tài chính ngân hàng khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng cao. https://bnews.vn/nganh-tai-chinh-ngan-hang-khan-hiem-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao/27481.html. 2 Quyết định 219/QĐ-NHNN Của Thống Đốc Về Việc Phê Duyệt Quy Hoạch Phát Triển Nhân Lực Ngành Ngân Hàng Giai Đoạn 2011 – 2020. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tien-te-Ngan-hang/Quyet- dinh-219-QD-NHNN-nam-2012-phe-duyet-Quy-hoach-phat-trien-nhan-luc-nganh-Ng-134669.aspx 43 lý vĩ mô với yêu cầu sở hữu năng lực nghiên cứu, dự báo, xây dựng chiến lược, định hướng phát triển hệ thống ngân hàng, tái cơ cấu ngân hàng, xây dựng chính sách vĩ mô về tiền tệ ngân hàng, thanh tra giám sát an toàn hệ thống và thanh toán. Các tổ chức tín dụng thiếu. Theo đánh giá gần đây của Ngân hàng Thế giới - World Bank (WB) cho biết: chất lượng nguồn nhân lực tài chính – ngân hàng ở Việt Nam hiện chỉ đạt 3,39 trên thang điểm 10. Trong khi đó, Hàn Quốc là 6,91 điểm, Ấn Độ là 5,76 điểm, Malaysia là 5,59 điểm và Thái Lan là 4,94 điểm. Theo TS. Vũ Văn Thực (Agribank, chi nhánh Tân Bình) thì, số liệu thống kê từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho thấy nguồn nhân lực ngành tài chính - ngân hàng đã có bước phát triển nhanh chóng trong giai đoạn vừa qua, cụ thể: năm 2000, tổng số cán bộ công nhân viên làm việc trong ngành tài chính - ngân hàng là 67.558 người, tuy nhiên đến năm 2012 con số này đã là 180.000 người, trong đó: số nhân sự làm việc tại hệ thống NHNN là hơn 6.000 người, số còn lại làm việc trong các ngân hàng thương mại (NHTM). Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ cán bộ được đào tạo trong tài chính - ngành ngân hàng cao hơn các ngành kinh tế khác, tuy nhiên tỷ lệ được đào tạo chuyên ngành lại thấp hơn các ngành khác, cụ thể: nguồn nhân lực có trình độ đại học chuyên ngành tài chính - ngân hàng là 30,06%, trình độ đại học các ngành khác là 34,9%; cao học ngành tài chính - ngân hàng 1,35%, cao học các ngành khác là 1,75%. Ngày 22/12/2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 2076/QĐ-TTg Theo Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 và Quốc hội thông qua cơ chế đặc thù cho TP. Hồ Chí Minh. Đặc biệt, TP.HCM sẽ triển khai dự án xây dựng Trung tâm tài chính TP.HCM ở Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2. Đây là điều kiện thuận lợi để TP. HCM trở thành một vùng đô thị lớn phát triển năng động và bền vững và trung tâm tài chính – ngân hàng trong khu vực Đông Nam Á và hướng tới quốc tế. Thời gian tới, theo các chuyên gia kinh tế, việc thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao ngành TCNH là rất lớn, chủ yếu tập trung ở các vị trí chuyên gia quản lý rủi ro, quản lý cấp trung và chuyên gia tài chính đầu tư. Vì thế, sự thiếu hụt nhân lực các nhân viên tại công ty tài chính, ngân hàng hiện nay phần lớn là nhân lực quản trị ngân hàng, có chuyên môn cao với khả năng phân tích và dự báo, am hiểu về pháp luật cũng như linh hoạt xử lý các vấn đề thực tế. Thực tế cho thấy nguồn nhân lực đã qua đào tạo cơ bản đáp ứng được yêu cầu của ngành TCNH, song khách quan mà nói, chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo còn thấp, không ít sinh viên sau khi ra trường còn “hổng” về kiến thức cả về kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Do đó, hầu như sau khi tuyển dụng, các ngân hàng đều phải mất thời gian đào tạo lại mới có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Thành phố Hồ Chí Minh, một địa phương có hệ thống TCNH hoạt động sôi động nhất trong cả nước, theo dự báo thì nhu cầu nhân lực nhóm ngành TCNH đến 2020 chiếm tỷ trọng 4% tổng số chỗ làm việc cần tuyển hàng năm khoảng 11.000 lao động trong đó trình độ đại học, cao đẳng chiếm tỷ lệ trên 50% nhu cầu tuyển dụng1. Đặc biệt, ở một số lĩnh vực chuyên sâu, nhu cầu tuyển dụng là rất lớn và hiện nay nhiều NHTM phải bỏ ra chi phí rất nhiều để thuê các chuyên gia nước ngoài vào làm việc ở một số bộ phận như: 1Phát triển & hội nhập Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 Giáo Dục & Đào Tạo 112 Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Tài chính – Ngân hàng ... 44 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật quản trị điều hành, chiến lược phát triển mạng lưới, quản trị rủi ro, đầu tư quốc tế... Nguyên nhân hạn chế: Chưa xây dựng được chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành TCNH; chiến lược phát triển của ngành TCNH chưa thực sự phù hợp với chiến lược phát triển nguồn nhân lực của chính các nhóm ngành này; Nguồn nhân lực được đào tạo còn thiếu kỹ năng mềm: Khả năng giao tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng ứng xử...của nguồn nhân lực ngành TCNH còn nhiều yếu kém, đặc biệt là sinh viên mới ra trường; Còn có lỗ hổng nhất định về kiến thức trong đào tạo: Thực tế cho thấy nguồn nhân lực vẫn còn có những lỗ hổng về kiến thức chuyên ngành, quản trị, quản lý và đầu tư; bên cạnh đó, khối kiến thức bổ trợ như ngoại ngữ, tin học, giao tiếp đối với khách hàng vẫn còn yếu kém. Chương trình đào tạo còn mang nặng tính hàn lâm, chưa mang tính ứng dụng cao cho nên sinh viên khi ra trường còn phải đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu công việc thực tế; thiếu tính hiện đại, liên thông quốc tế, kiến thức vẫn còn những môn học của thời kỳ bao cấp. Để xây dựng được đội ngũ nhân lực chất lượng cao ngành TCNH có đủ số lượng, đảm bảo chất lượng thực hiện tốt mục tiêu của ngành, trên cơ sở thực trạng nhân lực và thực trạng công tác đào tạo, căn cứ kết quả dự báo nhân lực và công tác quy hoạch phát triển nhân lực có thể nhận thấy, ngành ngân hàng không bị sức ép lớn về việc tăng quy mô nhân lực, tăng quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo ngành ngân hàng hiện có, hoặc phải mở thêm trường đào tạo nhân lực cho ngành ngân hàng. Các giải pháp đề ra theo tinh thần Quyết định 219/QĐ-NHNN 1, những giải pháp sẽ tập trung vào mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực trong ngành, nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo ngành tài chính - ngân hàng. Thứ nhất, cần nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo bồi dưỡng của cơ sở đào tạo trong ngành. Bao gồm cả các cơ sở đào tạo thuộc ngành trong hệ thống giáo dục quốc dân, các trường bồi dưỡng, trung tâm đào tạo của các ngân hàng - nơi đào tạo nguồn tuyển dụng mới, đào tạo sau đại học, đào tạo bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho nhân lực trong ngành. Giải pháp này bao gồm 3 nội dung sau: - Với các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân: Hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập (phòng học, trang thiết bị, thư viện, phòng mô phỏng, hệ thống thông tin) đạt chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Với các trường bồi dưỡng, trung tâm đào tạo đảm bảo có đủ cơ sở vật chất để học viên có điều kiện học tập, giao lưu, tạo dựng các mối quan hệ công tác tốt. - Xây dựng được đội ngũ giảng viên cơ hữu, giảng viên kiêm chức tham gia giảng dạy và nghiên cứu đủ về số lượng, có trình độ chuyên môn cao và phương pháp giảng dạy tốt. Điều chỉnh chính sách liên quan đến hoạt động phát triển đội ngũ giảng viên như ưu đãi trong việc cử đi đào tạo ở nước ngoài, được tham dự các hội thảo khoa học có liên quan đến nội dung giảng dạy, được gửi tài liệu và các ấn phẩm nghiên cứu khoa học của ngành, có chế độ về tài chính hợp lý khi tham gia giảng dạy và nghiên cứu, và các quyền lợi khác đối với đội ngũ giảng viên. 1 Quyết định 219/QĐ-NHNN Của Thống Đốc Về Việc Phê Duyệt Quy Hoạch Phát Triển Nhân Lực Ngành Ngân Hàng Giai Đoạn 2011 – 2020. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tien-te-Ngan- hang/Quyet-dinh-219-QD-NHNN-nam-2012-phe-duyet-Quy-hoach-phat-trien-nhan-luc-nganh- Ng-134669.aspx 45 - Xây dựng hệ thống chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của các đơn vị tuyển dụng theo tiêu chí mở, cập nhật và linh hoạt, trong xu thế hội nhập và chuẩn hóa theo thông lệ quốc tế phù hợp nhất. Ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, mở rộng các hình thức học tập, đáp ứng nhu cầu đa dạng của học viên, giúp người học hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, hiểu biết pháp lý, yêu cầu công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Chương trình đào tạo bồi dưỡng phải sát với nhu cầu thực tiễn mà cụ thể là nội dung đào tạo theo chức danh nghề nghiệp, cán bộ chuyên môn về các mảng nghiệp vụ; thanh tra giám sát, hoạch định chính sách tiền tệ, nghiên cứu phát triển dịch vụ ngân hàng, quản lý quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro, công nghệ thông tin ngân hàng, kinh doanh vốn, tín dụng Thứ hai, thực hiện đổi mới công tác quản lý, đào tạo phát triển để nâng cao năng lực thực hiện công việc của đội ngũ nhân lực trong ngành. - Thực hiện tốt, khoa học công tác quy hoạch và kế hoạch phát triển nhân lực và định hướng phát triển của từng tổ chức ngân hàng, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo, kế hoạch triển khai thực hiện và kế hoạch bố trí, sử dụng nhân lực hợp lý sau khi đào tạo. - Xây dựng tiêu chuẩn chức danh các công việc ngân hàng, tiêu chuẩn nghề nghiệp ngân hàng, tương đương với tiêu chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực. Trong đó, đặc biệt lưu ý các yêu cầu về kiến thức chuyên môn và kỹ năng cần có để thực hiện công việc làm cơ sở quản lý và sử dụng nhân lực theo vị trí việc làm. Đây là một công cụ quan trọng không thể thiếu trong quản lý và nâng cao chất lượng nhân lực. - Xây dựng các chính sách hợp lý: chính sách về tuyển dụng, chính sách sử dụng nhân sự, chính sách trả lương theo vị trí việc làm, làm cơ sở khuyến khích tốt nhất năng lực thực hiện công việc của đội ngũ nhân lực, gắn đào tạo với sử dụng, với nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Thứ ba, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực. - Mở rộng hợp tác với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, các cơ sở đào tạo nước ngoài về đào tạo nhân lực trong ngành, trên cơ sở đa dạng hóa đối tượng hợp tác và hình thức hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, chương trình, nội dung đào tạo, giảng viên và phương pháp giảng dạy. - Khuyến khích các cơ sở đào tạo trong ngành hợp tác với các cơ sở giáo dục nước ngoài để nâng cao năng lực quản lý, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. - Tăng nguồn ngân sách dành cho đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài: tăng xuất học bổng đào tạo sau đại học, tăng số lượng cán bộ