Vai trò của xét nghiệm chải tế bào trong chẩn đoán bệnh niêm mạc miệng

Mở đầu: Ung thư hốc miệng thường có tiên lượng xấu, nguyên nhân chính là do chẩn đoán và điều trị trễ. Phát hiện sớm ung thư là yếu tố quan trọng nhất để điều trị hiệu quả. Mục tiêu: Xác định mức độ hiệu quả của xét nghiệm chải tế bào trong chẩn đoán ung thư, tiền ung thư và viêm niêm mạc miệng. Phương pháp: Thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 186 bệnh nhân có các tổn thương niêm mạc miệng lâu lành đến khám tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM và Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM năm 2011 và 2012. Dùng bàn chải MasterAmpTM (Mỹ) thực hiện chải tế bào ở bề mặt tổn thương, trải bệnh phẩm trên phiến kính, cố định và nhuộm Papanicolaou. Chẩn đoán tế bào học được đối chiếu với chẩn đoán giải phẫu bệnh từ mô sinh thiết. Kết quả: Theo kết quả mô bệnh học, có tổng cộng 154 tổn thương ác tính (gồm 149 ca carcinôm tế bào gai, 3 ca carcinôm tuyến và 2 ca mêlanôm ác) và 32 tổn thương lành tính (gồm 20 ca tăng sản biểu mô lát tầng và 12 ca viêm mạn tính). Đối chiếu kết quả chải tế bào với mô bệnh học cho thấy xét nghiệm chải tế bào có độ nhạy 93,5%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác 94,6%, giá trị tiên đoán dương 100% và giá trị tiên đoán âm 76,2%. Đây là một xét nghiệm dễ thực hiện, chi phí không cao, hầu như không xâm lấn, không đau và không biến chứng. Kết luận: Xét nghiệm chải tế bào có giá trị hỗ trợ lâm sàng chẩn đoán bệnh lý niêm mạc miệng, nhất là phát hiện ung thư hốc miệng

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 347 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của xét nghiệm chải tế bào trong chẩn đoán bệnh niêm mạc miệng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 312 VAI TRÒ CỦA XÉT NGHIỆM CHẢI TẾ BÀO TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH NIÊM MẠC MIỆNG Nguyễn Thị Hồng*, Nguyễn Phan Thế Huy*, Nguyễn Quốc Trưởng*, Trần Ngọc Liên* TÓM TẮT Mở đầu: Ung thư hốc miệng thường có tiên lượng xấu, nguyên nhân chính là do chẩn đoán và điều trị trễ. Phát hiện sớm ung thư là yếu tố quan trọng nhất để điều trị hiệu quả. Mục tiêu: Xác định mức độ hiệu quả của xét nghiệm chải tế bào trong chẩn đoán ung thư, tiền ung thư và viêm niêm mạc miệng. Phương pháp: Thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 186 bệnh nhân có các tổn thương niêm mạc miệng lâu lành đến khám tại Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM và Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM năm 2011 và 2012. Dùng bàn chải MasterAmpTM (Mỹ) thực hiện chải tế bào ở bề mặt tổn thương, trải bệnh phẩm trên phiến kính, cố định và nhuộm Papanicolaou. Chẩn đoán tế bào học được đối chiếu với chẩn đoán giải phẫu bệnh từ mô sinh thiết. Kết quả: Theo kết quả mô bệnh học, có tổng cộng 154 tổn thương ác tính (gồm 149 ca carcinôm tế bào gai, 3 ca carcinôm tuyến và 2 ca mêlanôm ác) và 32 tổn thương lành tính (gồm 20 ca tăng sản biểu mô lát tầng và 12 ca viêm mạn tính). Đối chiếu kết quả chải tế bào với mô bệnh học cho thấy xét nghiệm chải tế bào có độ nhạy 93,5%, độ đặc hiệu 100%, độ chính xác 94,6%, giá trị tiên đoán dương 100% và giá trị tiên đoán âm 76,2%. Đây là một xét nghiệm dễ thực hiện, chi phí không cao, hầu như không xâm lấn, không đau và không biến chứng. Kết luận: Xét nghiệm chải tế bào có giá trị hỗ trợ lâm sàng chẩn đoán bệnh lý niêm mạc miệng, nhất là phát hiện ung thư hốc miệng. Từ khóa: chải tế bào, sinh thiết chải, bệnh niêm mạc miệng, ung thư hốc miệng, mô bệnh học ABSTRACT ORAL BRUSH CYTOLOGY IN THE DIAGNOSIS OF ORAL MUCOSAL DISEASES Nguyen Thi Hong, Nguyen Phan The Huy, Nguyen Quoc Truong, Tran Ngoc Lien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 2 - 2013: 312 - 317 Background: Oral cancer has a poor prognosis mainly due to its late diagnosis and treatment. Early detection of oral cancer is the most important factor to improve the chance of successful treatment. Objectives: To determine the efficiency of the brush cytology in the diagnosis of oral cancer, precancer and stomatitis. Methods: A cross-sectional study was conducted on 186 patients with non-healing oral mucosal lesions from the Clinic of the Faculty of Odonto-Stomatology, University of Medicine and Pharmacy at HCM city and from the HCMC Oncology Hospital. Brush cytology was performed using MasterAmpTM Buccal Swap Brush (USA) and transferred to a glass slide, followed by immediate fixation and Papanicolaou staining. Cytological diagnosis was compared with the histopathological ones obtained by punch or scalpel biopsy. Results: The histopathological diagnostic reported a total of 154 malignant lesions (including 149 squamous cell carcinomas, 3 adenocarcninomas and 2 malignant melanomas) and 32 benign lesions * Khoa Răng hàm Mặt ĐH Y Dược Tp.HCM Tác giả liên hệ: PGS TS Nguyễn Thị Hồng, ĐT: 0903810003, Email: nguyopat@gmail.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 313 (including 20 epithelial hyperplasias and và 12 chronic stomatitis). Comparing the result of brush cytology and scapel biopsy showed that oral brush cytology had 93.5% sensitivity, 100% specificity, 94.6% accuracy, 100% positive predictive value and 76.2% negative predictive value. Brush cytology was an easily practicable, cheap, noninvasive, painless and safe method. Conclusion: Brush cytology effectively supported the practitioners in the diagnosis of oral mucosal diseases, especially in the detection of oral cancer. Key words: brush cytology, brush biopsy, oral mucosal diseases, oral cancer, detection ĐẶT VẤN ĐỀ Phát hiện sớm ung thư là yếu tố quan trọng nhất để điều trị thành công. Hơn 40 năm qua, hai xét nghiệm có thể hỗ trợ bác sĩ lâm sàng phát hiện sớm ung thư hốc miệng (UTHM) là phết tế bào bong và test xanh toluidin(11). Tuy nhiên cho đến nay, đa số (hơn 70%) ung thư vẫn phát hiện ở giai đoạn trễ và tiên lượng vẫn không cải thiện nhiều (tiên lượng sống còn 5 năm khoảng 40- 50%)(1,6). Hạn chế của phết tế bào bong là chỉ lấy được những tế bào nông, nên độ nhạy phát hiện UTHM không cao lắm, tỉ lệ âm tính giả có thể đến 30%(5). Từ năm 1999, chải tế bào hay còn gọi là sinh thiết chải được giới thiệu trong nha khoa để khắc phục hạn chế của phương pháp phết tế bào bong. Phương pháp này sử dụng một bàn chải sinh thiết lấy được một mẫu sinh thiết xuyên biểu mô, với sự hiện diện các tế bào từ lớp tế bào đáy, lớp trung gian và lớp nông. Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy xét nghiệm chải tế bào hữu ích trong việc phát hiện sớm ung thư biểu mô với độ nhạy cao trên 90%(8,9). Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá giá trị của chẩn đoán của xét nghiệm chải tế bào trong chẩn đoán bệnh lý niêm mạc miệng, với các mục tiêu sau: (1) xác định độ nhạy, độ chuyên, độ chính xác, giá trị tiên đoán dương, giá trị tiên đoán âm của chải tế bào trong chẩn đoán ung thư, tiền ung thư và viêm miệng, (2) đánh giá những thuận lợi và khó khăn của phương pháp chải tế bào niêm mạc miệng. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Mẫu nghiên cứu 186 bệnh nhân có tổn thương niêm mạc miệng, có chỉ định sinh thiết do tổn thương không lành trên 2 tuần, đến khám tại phòng khám của Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược Tp.HCM và Khoa Khám của Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM, từ 01/01/2011 đến 31/06/2012. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang. Các bước tiến hành Bước 1 Tại phòng khám, hỏi bệnh sử, khám lâm sàng và chải tế bào tổn thương niêm mạc miệng theo kỹ thuật sau: - Ghi tên và tuổi của bệnh nhân, mã số trên phần nhám của phiến kính. - Xác định vị trí tổn thương. - Làm ẩm bản chải sinh thiết với nước và áp vào các bề mặt tổn thương. Xoay bàn chải trên bề mặt tổn thương 10-15 lần, với lực vừa phải để lấy các tế bào biểu mô, cho đến khi thấy xuất hiện điểm lấm tấm đỏ thì dừng lại. Chải toàn bộ bề mặt tổn thương. - Trải bệnh phẩm lên phiến kính ở mặt không nhám bằng cách lăn tròn bàn chải theo một chiều cho đến khi dàn đều thành lớp mỏng. - Ngâm cố định phiến kính trong cồn 950 trên 30 phút và gửi đến Khoa Giải Phẫu Bệnh. Bước 2 Bác sĩ phòng khám thực hiện sinh thiết bấm hoặc chuyển sinh thiết bằng dao tổn thương niêm mạc miệng. Bệnh phẩm được ngâm cố định trong formalin 10% và gửi đến Khoa Giải Phẫu Bệnh. Bước 3 Tại Khoa Giải Phẫu Bệnh, nhiều mẫu tế bào Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 314 được nhuộm Papanicolaou cùng lúc, và chẩn đoán tế bào học do hai bác sĩ của Khoa Giải phẫu bệnh Bệnh viện Ung Bướu Tp.HCM, với độ nhất trí 100%. Mẫu mô sinh thiết được xử lý, đúc khối paraffin, cắt lát mỏng, nhuộm Hematoxylin - Eosin và chẩn đoán mô bệnh học cũng do chính hai bác sĩ Giải phẫu bệnh trên đọc kết quả (nhưng không được biết kết quả tế bào học của ca đang đọc). Bảng 1: Tiêu chuẩn chẩn đoán tế bào học(11). Dương tính Có tế bào ác tính rõ Âm tính Không có ñặc ñiểm ác tính Nghi ngờ (Không ñiển hình) Tế bào không ñủ các tiêu chuẩn ác tính ñể kết luận dương tính, nhưng bất thường nên phải tiếp tục theo dõi hay xét nghiệm thêm. Không kết luận ñược Mẫu không tốt hoặc quá ít tế bào ñể chẩn ñoán Kết quả tế bào học dương tính cho phép chẩn đoán tế bào học là ung thư. Kết quả tế bào học âm tính, nghi ngờ hoặc không kết luận được cho phép chẩn đoán tế bào học là không ung thư. Đối chiếu kết quả tế bào học với mô bệnh học để đánh giá giá trị chẩn đoán của chải tế bào. KẾT QUẢ Mẫu nghiên cứu 186 bệnh nhân có tổn thương niêm mạc miệng gồm 118 nam và 68 nữ, với tỉ lệ nam:nữ là 1,7:1; riêng ở nhóm trên 60 tuổi có tỉ lệ nam và nữ tương đương nhau. Đa số bệnh nhân trên 40 tuổi, chiếm 89% (Bảng 2). Bảng 2: Tuổi và giới tính bệnh nhân tổn thương niêm mạc miệng. Tuổi Nam Nữ Tổng Số ca % Số ca % Số ca % < 40 12 60 8 40 20 11 40-60 75 71 30 29 105 56 > 60 31 51 30 49 61 33 Tổng 118 100 68 100 186 100 Vị trí tổn thương thường gặp nhất ở lưỡi (41%), tiếp theo là nướu răng (23%) và sàn miệng (18%). Ba vị trí phổ biến hàng đầu ở nam giới là lưỡi (39%), sàn miệng (25%) và nướu răng (15%); ở nữ giới là lưỡi (44%), nướu răng (37%) và niêm mạc má (9%) (Bảng 3). Bảng 3: Vị trí tổn thương niêm mạc miệng. Vị trí Nam Nữ Tổng Số ca % Số ca % Số ca % Lưỡi 46 39 30 44 76 41 Nướu răng 18 15 25 37 43 23 Sàn miệng 29 25 4 6 33 18 Khẩu cái 10 8 1 1 11 6 N.mạc má 10 8 6 9 16 9 Môi 0 0 1 1 1 1 Hậu hàm 5 4 1 1 6 3 Tổng 118 100 68 100 186 100 Khảo sát tế bào học cho thấy số lượng và chất lượng hình dạng tế bào tương đối đạt yêu cầu để chẩn đoán, không có trường hợp nào phải chải lại. Trong số 186 tổn thương niêm mạc miệng lâu lành, kết quả tế bào học144 trường hợp ác tính rõ (77%), 2 trường hợp không điển hình (1%) do nghi ngờ carcinôm nhưng không đủ cơ sở kết luận và 40 trường hợp các tế bào biểu mô biến đổi lành tính (22%) (Bảng 4). Bảng 4. Kết quả tế bào học. Chẩn ñoán tế bào Số ca % Dương tính 144 77 Không ñiển hình 2 1 Âm tính 40 22 Tổng 186 100 Hình ảnh tế bào học dương tính với sự hiện diện của các tế bào bất thường sắp xếp rời rạc hoặc thành từng đám. Carcinôm tế bào gai biểu hiện các tế bào gai di dạng, nhân to, tỉ lệ nhân/bào tương tăng lên rõ rệt, nhuộm màu đậm, màng nhân méo mó, nhiễm sắc chất thô, có thể có sự xuất hiện của hạt nhân (Hình 1B). Carcinôm tuyến cho thấy các tế bào ác tính có nhân to, dị dạng, bào tương có không bào rất lớn chiếm gần hết thể tích của tế bào, chứa chất tiết, ép đẩy nhân về một phía. Mêlanôm ác cho thấy các tế bào ác tính sẫm màu do có chứa các hạt mêlanin trong bào tương. Kết quả âm tính với hình ảnh các tế bào gai có hình dạng bình thường và kích thước tương đối đồng đều, bào tương nhiều và bắt màu cam hay hồng nhạt, nhân tròn nhỏ không tăng sắc. Một số tế bào có nhân bị vỡ vụn thành các hạt nhỏ rải rác trong bào tương (Hình 1A). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 315 a b Hình 1: Kết quả hình ảnh tế bào học của chải tế bào (Pap, X400). a. Tế bào biểu mô bình thường b. Tế bào gai ác tính Theo kết quả chẩn đoán mô bệnh học của mẫu mô sinh thiết, có tổng cộng 154 tổn thương ác tính, trong đó chiếm đa số là carcinôm tế bào gai (149 ca), còn lại là carcinôm tuyến (3 ca) và mêlanôm ác (2 ca) (Bảng 5). Trong số 3 ca carcinôm tuyến, có 2 ca ung thư tuyến nước bọt phụ có giải phẫu bệnh là carcinôm bọc dạng tuyến và 1 ca carcinôm tuyến ở nướu răng do carcinôm ống tuyến vú di căn đến nướu răng. Ngoài ra, có 32 tổn thương lành tính, bao gồm 20 ca tăng sản biểu mô lát tầng phù hợp chẩn đoán lâm sàng bạch sản (3 ca), bướu nhú (1 ca) và tăng sinh biểu mô (16 ca) và 12 ca mô viêm mạn tính phù hợp với chẩn đoán lâm sàng liken (5 ca), pemphygoid (1 ca), u hạt sinh mũ (3 ca) và viêm loét niêm mạc miệng (3 ca). Bảng 5: Kết quả mô bệnh học. Chẩn ñoán mô bệnh học Số ca % Ác tính Carcinôm tế bào gai 149 80 tuyến 3 2 Mêlanôm 2 1 Lành tính Mô viêm loét mạn tính 12 6 Tăng sản biểu mô lát tầng 20 11 Tổng 186 100 Đối chiếu các kết quả cho thấy 176 tổn thương có chẩn đoán tế bào học phù hợp với chẩn đoán mô bệnh học, gồm 144 trường hợp ung thư và 32 trường hợp lành tính (Bảng 6). Bảng 6: Đối chiếu kết quả chải tế bào với mô bệnh học. Kết quả Mô bệnh học Tổng Ác tính Lành tính Chải tế bào Ác tính 144 0 144 Lành tính 10 32 42 Tổng 154 32 186 Độ nhạy = Dương tính thật / (Dương tính thật + Âm tính giả) = 144/154 = 93,5%. Độ đặc hiệu = Âm tính thật / (Âm tính thật + Dương tính giả) = 32/32 = 100%. Độ chính xác = (Dương tính thật + Âm tính thật) / Tổng số ca= (144 + 32)/186= 94,6%. Giá trị tiên đoán dương = Dương tính thật/(Dương thật+Dương giả) = 144/(144+0) = 100%. Giá trị tiên đoán âm = Âm tính thật / (Âm tính thật + Âm tính giả) = 32/42 = 76,2%. Phân tích 10 trường hợp âm tính giả của xét nghiệm chải tế bào có đặc điểm chung dạng lâm sàng tổn thương là dạng chồi sùi (có loét hoặc không), đa số (8 ca) có mô học là carcinôm tế bào gai grad 1 (Bảng 7). Bảng 7: Phân tích các trường hợp âm tính giả Chải tế bào Vị trí bướu Dạng lâm sàng Giai ñoạn Mô bệnh học Âm tính giả Sàn miệng Sùi/Sùi loét II / IV Grad 1 Lưỡi Sùi loét II / IV Grad 1 Hậu hàm Sùi IV Grad 1 Niêm mạc má Sùi II Grad 2 BÀN LUẬN Mức độ tương hợp giữa chẩn đoán chải tế bào với mô bệnh học Trong nghiên cứu này, tất cả các chẩn đoán tế bào học của 186 trường hợp đều được đối chiếu với chẩn đoán mô bệnh học. Độ tương hợp cao 93,5% giữa chẩn đoán tế bào học được tiến hành bằng phương pháp chải niêm mạc miệng so với chẩn đoán xác định bằng mô bệnh học chứng tỏ chải tế bào là một xét nghiệm đáng tin cậy và hữu ích trong việc chẩn đoán các tổn thương niêm mạc miệng. Trong 10 trường hợp không tương hợp giữa kết quả mô bệnh học trả lời ác tính nhưng kết quả tế bào học lành tính, chúng tôi ghi nhận có 8 trường hợp là carcinôm tế bào gai grad 1. Điều này có thể được giải thích là do carcinôm tế bào gai grad 1 có độ biệt hóa cao nên hình thái và cấu trúc của tế bào và của nhân tế bào đôi khi rất khó phân biệt với các tế bào bình thường dưới kính Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 316 hiển vi quang học. Hơn nữa, số lượng các tế bào bất thường thu được trong những trường hợp này là ít nên việc tìm kiếm hạn chế, dẫn đến việc không thể đưa ra được chẩn đoán tế bào học đúng. Những trường hợp này nếu thấy có các tế bào nghi ngờ, cần phải sinh thiết bấm/bằng dao và khảo sát mô bệnh học để nhìn thấy rõ toàn bộ kiến trúc của mẫu mô thì mới có thể đưa ra chẩn đoán chính xác. Về độ nhạy và độ đặc hiệu của chải tế bào Nhiều nghiên cứu trên thế giới dùng bàn chải niêm mạc miệng OralCDx để khảo sát các kết quả tế bào học(2,3,8,10,12). Chúng tôi dùng bàn chải MasterAmpTMBuccal Swap Brush (Mỹ) có cấu tạo hơi khác hơn so với bàn chải OralCDx, nhưng kỹ thuật thực hiện tương tự và các kết quả thu được không có nhiều khác biệt. Điều này cho thấy bàn chải MasterAmpTMBuccal Swap Brush cũng có hiệu quả lấy mẫu tương tự như bàn chải OralCDx. Trên thế giới, đa số các kết quả tế bào học của chải niêm mạc miệng được đọc dưới sự hỗ trợ của phần mềm máy tính. Hệ thống này được thiết kế để có thể phát hiện bất kỳ những bất thường về hình thái bao gồm sự thay đổi về hình dạng, kích thước của tế bào và nhân, mức độ sừng hóa, sự bắt màu của nhân. Chính vì vậy chải tế bào được thực hiện dưới sự hỗ trợ của máy tính có độ nhạy rất cao (hơn 90%), làm cho kỹ thuật này trở nên phổ biến để phát hiện sớm UTHM. Nghiên cứu qui mô lớn của Sciubba và cs (1999)(9) bằng hệ thống chải OralCDx với sự hỗ trợ của máy tính ghi nhận độ nhạy và độ chuyên 100%. Trong nghiên cứu này, các kết quả chải tế bào được các bác sĩ giải phẫu bệnh đọc dưới kính hiển vi quang học thông thường mà không có sự hỗ trợ của hệ thống máy tính được lập trình tự động. Kết quả cho thấy độ nhạy, độ chuyên và độ tương hợp cao tương tự nhiều nghiên cứu trên thế giới (Bảng 8), chứng tỏ xét nghiệm này chính xác và đáng tin cậy. Bảng 8: So sánh hiệu quả chải tế bào niêm mạc miệng giữa các nghiên cứu. Tác giả (năm) Số ca ðộ nhạy (%) ðộ ñặc hiệu (%) Sciubba (1999)(9) 945 100 100 Scheifele (2004)(8) 80 92 94 Poate (2004)(7) 120 71 32 Driemel (2007)(3) 159 79 93 Delavarian (2009)(2) 25 89 100 Seijas-Naya (2010)(10) 24 73 92 Mehrotra (2011)(4) 7 96 100 Nghiên cứu này 198 93,5 100 Về hình ảnh tế bào học Các kết quả tế bào học của chải tế bào khá đa dạng trong việc chẩn đoán các bệnh lý niêm mạc miệng. Đối với những trường hợp carcinôm biệt hóa vừa và kém, các tế bào có biến đổi hình thái rất rõ như nhân dị dạng, tăng sắc, kích thước nhân tăng lên bất thường làm cho tỉ lệ nhân/tế bào chất tăng, màng nhân dị dạng, gập góc. Đối với những trường hợp carcinôm biệt hóa cao, hình thái của những tế bào ác tính gần giống với tế bào bình thường, do đó có thể khó phát hiện và khó chẩn đoán hơn. Ngoài các kết quả dương tính (ác tính), các kết quả âm tính cũng được chẩn đoán chính xác. Các tổn thương như bạch sản, liken, pemphigoid, viêm loét mạn tính đều có thể dùng phương pháp này để hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng. Nghiên cứu này cũng ghi nhận 3 trường hợp carcinôm tuyến và 2 trường hợp mêlanôm ác khẩu cái cứng. Điều này cho thấy chải tế bào không chỉ hiệu quả đối với các trường hợp carcinôm tế bào gai là các dạng điển hình của UTHM mà nó còn có thể giúp phát hiện những trường hợp hiếm gặp hơn. Thuận lợi và khó khăn của xét nghiệm chải tế bào Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy đây là một xét nghiệm hầu như không xâm lấn, thực hiện được ở phòng khám, có thể tiến hành nhanh, không đòi hỏi nhiều về mặt phương tiện, kỹ thuật đơn giản, không cần gây tê, không hay ít gây đau, dễ được bệnh nhân chấp nhận hơn các phương pháp sinh thiết khác. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 2 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 317 Mặt khác, do chải khắp bề mặt tổn thương nên có thể cho chẩn đoán chính xác hơn sinh thiết một phần nếu như sinh thiết không lấy đúng chỗ đại diện tổn thương. Trong nghiên cứu này, có một trường hợp tổn thương 1 cm ở bờ lưỡi, kết quả sinh thiết một phần là mô viêm nhưng kết quả chải tế bào ác tính, nên sau đó đã cho sinh thiết lại và chẩn đoán xác định là carcinôm tế bào gai grad 2. Đối với bác sĩ răng hàm mặt, việc chải răng chải nướu quá quen thuộc trong điều trị lâm sàng hàng ngày nên việc thực hiện kỹ thuật chải niêm mạc miệng được xem là rất thuận lợi và dễ thao tác, nhất là tránh phải sinh thiết ở những vị trí dễ chảy máu hay khó sinh thiết bằng dao như lưỡi, sàn miệng. Do vậy, đây là một xét nghiệm mà các bác sĩ răng hàm mặt có thể tự thực hiện được để hỗ trợ chẩn đoán bệnh lý niêm mạc miệng, nhất là phát hiện sUTHM. Với kỹ thuật đơn giản và hiệu quả, xét nghiệm chải tế bào có thể được chỉ định rộng rãi ở các cơ sở khám chữa bệnh Răng Hàm Mặt ở các địa phương, nhất là những nơi mà thiếu nguồn nhân lực chuyên môn nhưng nhu cầu chẩn đoán lại cao. Chải niêm mạc không thể thu thập được một mẫu mô có cấu trúc hoàn chỉnh mà chỉ lấy được các tế bào của lớp biểu mô. Vì vậy, để chẩn đoán xác định bệnh, chải tế bào niêm mạc miệng chỉ là một bước chẩn đoán trung gian trước khi làm sinh thiết bằng dao hay sinh thiết bấm, chứ không hoàn toàn thay thế được sinh thiết chẩn đoán mô bệnh học. KẾT LUẬN Xét nghiệm chải tế bào có giá trị trong chẩn đoán bệnh lý niêm mạc miệng, nhất là trong phát hiện ung thư với độ nhạy 93,5%, độ đặc hiệu 100% và độ chính xác 94,6%. Chải tế bào lấy được các tế bào khắp bề mặt tổn thương trong khi sinh thiết một phần có thể cho chẩn đoán sai nếu lấy không đúng chỗ. Về mặt kỹ thuật, chải tế bào có nhiều ưu điểm là hầu như không xâm lấn, dễ thực hiện và cho kết quả khá nhanh, không biến chứng, chi phí không cao, thực hiện được ở phòng khám, trên nhiều tổn thương cùng lúc. Do đó, có thể áp dụng rộng rãi tại các cơ sở khám chữa bệnh để hỗ trợ lâm sàng phát hiện UTHM và chẩn đoán một số bệnh lý niêm mạc miệng. Tuy nhiên, cần tiếp tục nghiên cứu với qui mô lớn hơn để có thể đưa ra kết luận chính xác về hiệu quả và ứng dụng của phương pháp chải tế bào trong việc tầm soát và phát hiện sớm UTHM. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Böcking A, Sproll C, Stöcklein N, Naujoks C, Rita Depprich R, Kübler NR, Handschel J (2011).
Tài liệu liên quan