Mỹ là quốc gia rộng thứ tư trên thế giới, là một trong ba nền kinh tế lớn nhất hành tinh, dân số trên 260 triệu người, thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ châu Âu, số còn lại là dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ gốc Phi. Mĩ La tinh, châu Á và các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đem vào thương trường Mỹ những phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin của riêng họ, hình thành nên nền văn hoá Mỹ đa dạng và phong phú.
Bước vào thế kỷ mới, thế kỷ toàn cầu hoá kinh tế, Việt Nam sẵn sàng làm bạn và hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia, trong đó có Mỹ. Vì vậy nghiên cứu về văn hoá Mỹ trong kinh doanh là điều cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đạt được lợi nhuận tối đa trên thị trường Mỹ.
Chúng ta biết rằng, quan hệ Việt Mỹ là mối quan hệ đặc biệt, đã trải qua những bước thăng trầm lịch sử. Năm 1975, Mỹ đã thất bại tại chiến trường Việt Nam, sau đó Mỹ đã tuyên bố cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, sau hàng loạt nỗ lực của cả hai bên thì mối quan hệ này dần dần quan hệ được cải thiện qua hàng loạt các sự kiện. Ngày 03 – 02 - 1994, Tổng thống Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại đối với với Việt Nam. Ngày 13 tháng 7 năm 2000 đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong quan hệ Việt - Mỹ khi hai nước kí Hiệp định Thương mại Song phương. Hiệp định thương mại được kí kết là bước tiến lớn trong lịch sử ngoại giao của cả hai phía, khép lại một thời kỳ đóng băng về quan hệ giữa hai quốc gia, mở ra một trang sử mới về quan hệ thương mại giữa hai nước. Hiệp định mang tới cho các doanh nghiệp của cả hai phía nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh với nhau. Giao dịch kinh doanh giữa các đối phương trong cùng một nền văn hoá vốn đã khó. Trong giao dịch kinh doanh quốc tế khi các đối tác khác nhau về chủng tộc, tiếng nói, màu da, về các chuẩn mực đạo đức và giao tiếp, công việc giao dịch càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Nguồn gốc của những phức tạp trong giao dịch kinh doanh quốc tế chính là văn hoá. Hiểu biết về văn hoá doanh nghiệp Mỹ là vấn đề cần thiết cho bất kỳ thương gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các thương gia Mỹ. Nó không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
56 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn hoá Mỹ trong giao dịch Thương mại và trong tiêu dùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Mỹ là quốc gia rộng thứ tư trên thế giới, là một trong ba nền kinh tế lớn nhất hành tinh, dân số trên 260 triệu người, thành phần xã hội đa dạng, gồm nhiều cộng đồng riêng biệt. Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ châu Âu, số còn lại là dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số gồm người Mỹ bản xứ, Mỹ gốc Phi. Mĩ La tinh, châu Á và các đảo Thái Bình Dương. Các dân tộc này đã đem vào thương trường Mỹ những phong tục tập quán, ngôn ngữ, đức tin của riêng họ, hình thành nên nền văn hoá Mỹ đa dạng và phong phú.
Bước vào thế kỷ mới, thế kỷ toàn cầu hoá kinh tế, Việt Nam sẵn sàng làm bạn và hợp tác kinh tế với tất cả các quốc gia, trong đó có Mỹ. Vì vậy nghiên cứu về văn hoá Mỹ trong kinh doanh là điều cần thiết để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đạt được lợi nhuận tối đa trên thị trường Mỹ.
Chúng ta biết rằng, quan hệ Việt Mỹ là mối quan hệ đặc biệt, đã trải qua những bước thăng trầm lịch sử. Năm 1975, Mỹ đã thất bại tại chiến trường Việt Nam, sau đó Mỹ đã tuyên bố cấm vận Việt Nam. Tuy nhiên, sau hàng loạt nỗ lực của cả hai bên thì mối quan hệ này dần dần quan hệ được cải thiện qua hàng loạt các sự kiện. Ngày 03 – 02 - 1994, Tổng thống Clinton tuyên bố chấm dứt lệnh cấm vận thương mại đối với với Việt Nam. Ngày 13 tháng 7 năm 2000 đã đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong quan hệ Việt - Mỹ khi hai nước kí Hiệp định Thương mại Song phương. Hiệp định thương mại được kí kết là bước tiến lớn trong lịch sử ngoại giao của cả hai phía, khép lại một thời kỳ đóng băng về quan hệ giữa hai quốc gia, mở ra một trang sử mới về quan hệ thương mại giữa hai nước. Hiệp định mang tới cho các doanh nghiệp của cả hai phía nhiều cơ hội hợp tác kinh doanh với nhau. Giao dịch kinh doanh giữa các đối phương trong cùng một nền văn hoá vốn đã khó. Trong giao dịch kinh doanh quốc tế khi các đối tác khác nhau về chủng tộc, tiếng nói, màu da, về các chuẩn mực đạo đức và giao tiếp, công việc giao dịch càng trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Nguồn gốc của những phức tạp trong giao dịch kinh doanh quốc tế chính là văn hoá. Hiểu biết về văn hoá doanh nghiệp Mỹ là vấn đề cần thiết cho bất kỳ thương gia nào muốn giao dịch, buôn bán với các thương gia Mỹ. Nó không những tạo ra lợi nhuận, mà còn đem lại sự đam mê thực sự cho cả hai phía.
Do đó nghiên cứu văn hoá Mỹ trong kinh doanh là việc làm có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học. “Văn hoá Mỹ trong kinh doanh” là một đề tài rộng, trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi sẽ chỉ nghiên cứu sâu về văn hoá Mỹ trong giao dịch thương mại và trong tiêu dùng. Hy vọng khoá luận này sẽ cung cấp được một số thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn có quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp Mỹ hiện nay.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cho đến nay tuy đã có một số công trình, nhiều tài liệu sách báo, các tác phẩm văn học viết về văn hoá Mỹ nhưng chưa có cuốn sách nào ở nước ta trình bày một cách có hệ thống và sâu sắc về văn hoá Mỹ trong kinh doanh. Trong quá trình làm khoá luận, chúng tôi đã khai thác và sử dụng nhiều nguồn tài liệu. Trên cơ sở tiếp thu và hệ thống những ý kiến của nhiều người đi trước chúng tôi đã hoàn thành được bài khoá luận này. Khoá luận của tôi sử dụng những nguồn tài liệu sau:
Các bài nghiên cứu được trích từ Tạp chí châu Mỹ ngày nay
Các bản tin tài liệu tham khảo của Thông tấn xã Việt Nam
Các tổng luận phân tích và đánh giá trên các báo An ninh, Thế giới, Tiền phong, báo Lao động
Những thông tin chuyên đề do trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ lưu trữ
Một số thông tin của phòng thông tin văn hoá - Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Một số cuốn sách trong và ngoài nước có viết về văn hoá Mỹ trong kinh doanh.
Phương pháp nghiên cứu và kết cấu của luận văn
Để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu, trong khoá luận này chúng tôi đã vận dụng cách tiếp cận có hệ thống, sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương chính:
Chương 1: Khái niệm về văn hoá và các đặc trưng của văn hoá Mỹ Chương 2: Văn hoá Mỹ trong kinh doanh
Chương 3: ảnh hưởng của văn hoá kinh doanh đến đời sống người Mỹ
Ngoài phần nội dung chính bài khoá luận còn phần phụ lục và phần tài liệu tham khảo bao gồm các tài liệu sách, báo tham khảo viết về văn hoá Mỹ trong kinh doanh.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ MỸ
I. VĂN HÓA
Theo định nghĩa của Unesco " văn hoá là những giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử, văn hoá cũng là đời sống tinh thần của con người, là trí tuệ khoa học thể hiện trình độ học vấn, thể hiện lối sống cách ứng xử có trình độ cao và là một dạng biểu hiện của văn minh "
Trong lịch sử con người, “văn hoá theo ý nghĩa rộng nhất của nó là văn hoá được truyền giao theo con đường xã hội hơn là theo di truyền. Đó là văn hoá mà trẻ em được học vì chúng được nuôi dưỡng trong một nhóm người này nhiều hơn trong một nhóm người khác, và xét trên toàn bộ, đó là văn hoá phân biệt một nhóm người này với một nhóm người khác. Trong văn hoá có ngôn ngữ, phong tục tập quán, đạo lý, các loại hình kinh tế và công nghệ, nghệ thuật và kiến trúc, cách thức giải trí, hệ thống pháp lý, tôn giáo, hệ thống giáo dục và nuôi dạy, và ngoài ra còn nhiều cái khác nữa”; nói một cách khác, mọi thứ mà nhờ đó thành viên của một nhóm tìm thấy mục đích và ý nghĩa trong các hoạt động của mình” 1.
Văn hoá ở đây có thể được hiểu rõ hơn là tập hợp các thái độ, sự cảm nhận, lối cư xử mà một cộng đồng dân tộc, quốc gia cùng chia xẻ, cùng thực hiện một cách tự động hoá. Văn hoá là tổng thể kết hợp giữa các phép ứng xử xã hội chuẩn mực, phương pháp tư duy, thái độ biểu hiện ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm được coi là đương nhiên trong phạm vi một cộng đồng mà nếu làm trái thì sẽ bị lên án. Một khi được hình thành, văn hoá có sức sống riêng của nó, có thể truyền từ đời này sang đời kia và tạo thành truyền thống như tinh thần nhân văn, tình yêu đồng loại, tình yêu quê hương vẫn có cảm giác con người chỉ khác nhau tiếng nói, màu da còn con tim thì ở đâu cũng như nhau. Song không chỉ có thế, những khác biệt văn hoá thực sự gây trở ngại trong giao tiếp đặc biệt là trong đàm phán kinh doanh.
Hầu hết người Mỹ có nguồn gốc từ châu Âu. Họ đem vào thương trường Mỹ văn hoá riêng của họ. Vì vậy để tìm hiểu văn hoá Mỹ trong kinh doanh chúng ta không thể không bắt đầu xem xét từ văn hoá phương Tây. Văn hoá phương Tây có ba yếu tố: chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp - La Mã, yếu tố Do Thái - Ki Tô giáo, chủ nghĩa duy lí và khoa học.
“Người Hy Lạp đã sáng tạo ra tất cả những lý tưởng nhân bản mà chúng ta thường coi là đặc trưng cho phương Tây” 22 . Tự do, lạc quan, chú trọng đến hạnh phúc con người ở trần thế, đề cao lý tính, văn hoá, tôn trọng cả thân thể lẫn tinh thần, tôn trọng nhân phẩm và giá trị của cá nhân, số phận cá nhân chỉ có thể do đa số định đoạt. Tuy nhiên, những lý tưởng này đều bị hạn chế bởi lịch sử, giai cấp, nhưng là những ngọn đuốc sáng so với những chế độ cận Đông đương thời mang đậm dấu ấn độc đoán, uy lực, mê tín, hướng về đời sống bên kia trần thế coi thường đời sống cá nhân. Văn học nghệ thuật cổ Hy Lạp cho đến nay vẫn là nguồn cảm hứng dồi dào, nhất là triết học với những tổ sư Platon, và Aristote.
Chủ nghĩa nhân văn cổ đại phát triển rực rỡ nhất ở Hy Lạp vào các thế kỷ IV và V trước công nguyên. Tiếp thu chủ nghĩa nhân văn Hy Lạp, La Mã đã có ảnh hưởng sâu đậm cho đến nay đối với phương Tây về nhiều mặt: kiến trúc, luật pháp, văn học (ảnh hưởng Hy Lạp nhiều hơn), tổ chức tôn giáo (Giáo hội Thiên chúa giáo), tư tưởng về uy lực tuyệt đối của Nhà nước, quan điểm cá nhân không có quyền gì trừ do quyền nhà nước ban cho, khái niệm đế chế do một dân tộc ngự trị. Trong lĩnh vực triết học, người La Mã hướng về hành động hơn là tư duy, không xuất sắc bằng Hy Lạp. Vào hậu kỳ cổ đại Hy Lạp, trong qúa trình đế chế La Mã hình thành, triết học Hy Lạp đã làm nẩy mầm ba trường phái sẽ chi phối triết học La Mã (chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa hoài nghi). Ba khuynh hướng này trở đi trở lại trong tư tưởng phương Tây.
Yếu tố Do Thái - Ki Tô giáo là một đặc trưng sâu sắc của văn hoá phương Tây. Vào hậu kỳ cổ đại Hy Lạp (hellénestique), trên lãnh thổ Hy Lạp - La Mã, nhất là cận Đông, quần chúng hướng về những tôn giáo tín ngưỡng dựa vào xúc cảm, tình yêu Thượng đế, nội tâm, thần bí, khác với những tôn giáo tín ngưỡng Hy Lạp - La Mã dựa vào tổ chức bên ngoài, quy tắc máy móc. Đạo Do Thái, một đạo ra đời từ lâu, đã để lại cho phương Tây, ít nhiều qua đạo Ki Tô, một số tư tưởng chính trị và luật pháp, nhân phẩm và giá trị cá nhân, những yếu tố sau này dẫn đến khái niệm hiện đại về dân chủ.
Chủ nghĩa duy lí, nguồn gốc của tư duy khoa học, xuất hiện từ thế kỷ XVI (thời kỳ Phục Hưng) và tự khẳng định vào thế kỷ XVII với triết học Descartes. Chủ nghĩa này đề cao lý tính, nhà triết học có thể hiểu biết chân lý bằng lý trí, nhà toán học dùng lý trí giải quyết toán. Thuyết cơ giới quy các hình thức vận động phức tạp khác nhau của thế giới vào một hình thức vận động đơn giản nhất: vận động cơ học. Sự ra đời của thuyết cơ giới gắn liền với những thành tựu của cơ học Newton. Tiêu chuẩn chân lý ở phương Tây dần kết tinh ở lý tính và khoa học. Giáo sư CRANE Brinton đã phân tích rất xác đáng ba yếu tố khiến cho tư tưởng Tây Âu - Bắc Mỹ hiện đại (tức là tư tưởng của giai cấp tư sản) hình thànhn đó là chủ nghĩa nhân văn, cải cách tôn giáo, chủ nghĩa duy lý (gốc của đầu óc khoa học)3. Chủ nghĩa nhân văn đề cao con người phát triển toàn vẹn, hưởng hạnh phúc trần thế, cái đẹp của tinh thần và cả thân thể, phát triển nghệ thuật. Trào lưu văn nghệ Phục Hưng xuất phát từ ý (thế kỷ XIV) rồi lan ra phương Tây và trung Âu (thế kỷ XVI). Phản ánh tư tưởng giai cấp tư sản đương lên, nó chủ trương phục hưng chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp - La Mã, nhấn mạnh tự do tư tưởng, chống chủ nghĩa kinh viện Trung cổ. Triết học ánh sáng (thế kỷ XVIII) chuẩn bị tinh thần cho Cách mạng tư sản Pháp 1789 với những lý tưởng "Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Điều này đã đưa phương Tây vào thời kỳ hiện đại.
Những yếu tố trên đã góp phần hình thành nên nền văn hoá Mỹ và tác động rất nhiều đến văn hoá Mỹ trong kinh doanh.
II. VĂN HÓA MỸ
Người ta thường coi văn hoá Mỹ bắt đầu từ 1607, với sự nhập cư ổn định của người Anh. Văn hoá Mỹ đa dạng và phức tạp, không thể có một định nghĩa chung. Nó thừa hưởng và chắp nhặt tinh hoa của văn hoá phương Tây thổi thêm vào đó sức sống và hơi thở mới. Cuối thế kỷ XIX, tại Mỹ đã phát triển một nền văn hoá thực sự đại chúng, nhằm thoả mãn sở thích của tầng lớp trung lưu đang hình thành, và nhằm hoà nhập những người nhập cư. Sau khi tìm hiều về văn hoá Mỹ tôi thấy nền văn hoá này có những điểm nổi bật sau:
Hoa kỳ là một quốc gia trẻ, tính đến nay mới được hơn hai trăm năm, và là một quốc gia đa dạng các dân tộc, các cộng đồng. Họ cùng nhau xây dựng và phát triển tổ quốc chung của họ. Họ có thể hoà đồng với nhau và có những đặc điểm mới rất “Mỹ” chính là tác dụng của “nồi hầm nhừ”.
Một khái niệm khá phổ biến định nghĩa "dân tộc" là "khối cộng đồng người ổn định, thành lập trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, lãnh thổ, sinh hoạt kinh tế và hình thành tâm lý, biểu hiện trong cộng đồng văn hoá". ở phương Tây, "dân tộc" xuất hiện trong thời kỳ giai cấp tư sản đang lên, khắc phục sự cát cứ phong kiến trên cơ sở những mối liên hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa tạo ra thị trường dân tộc (chung cho một quốc gia) hình thành từ những bộ lạc và tộc người khác nhau. Định nghĩa này khó áp dụng vào dân tộc Mỹ, hoặc chỉ có thể áp dụng một cách tương đối, khá lỏng lẻo. Khái niệm thường áp dụng cho Hoa Kỳ và dân tộc Mỹ là "nồi hầm nhừ" (Melting pot), "Melting pot" là một kiểu nồi nấu tan ra (có thể là kim khí), làm nhừ nhuyễn, y như do tác động của lò tôi luyện. Về nghĩa bóng, từ điển tiếng Anh BBC (1993) định nghĩa Melting pot như sau: một nơi, một tình hình trong đó những con người, những nền văn hoá và tư tưởng các loại trà trộn với nhau.
Người đầu tiên đưa ra khái niệm này đối với dân tộc Mỹ có lẽ là một người Pháp đã từng biết nước Mỹ ngay từ buổi đầu, ông Crèvecoeur. Năm 1782, ông cho là ở Mỹ, "những cá nhân thuộc đủ các dân tộc trà trộn nhuần nhuyễn thành một chủng tộc mới". Ông tin là từ đó sẽ xuất hiện "con người mới", với nhiều đặc điểm kiểu Mỹ.
Trong cơ cấu dân cư của Mỹ, 83% là người da trắng, 12 % là da đen, và 5 % là người á da vàng. Khách đến Mỹ thường ngạc nhiên về sự đa dạng về màu da của cư dân nước này, người Mỹ coi đây là một điều đương nhiên. Chỉ cần qua vài thế hệ, những phong tục tập quán của "cố quốc" mà người dân nhập cư mang đến Mỹ sẽ bị "ninh nhừ" trong cái "nồi hầm" văn hoá Mỹ. Cái chất mới được tạo ra đựoc nhà văn Mỹ vĩ đại Mark Twain chỉ ra khi so sánh khí chất người Anh với khí chất người Mỹ. Ông miêu tả người Anh là "người làm một cái gì đó vì việc đó đã có người làm rồi" còn người Mỹ là người "làm một việc gì đó vì chưa có ai làm". Người Mỹ thích thử sức với cái mới vì tin rằng cái mới hơn là cái tốt hơn. Huyền thoại "nồi hầm nhừ" cũng nói lên một ước mơ, một hoài vọng, lý tưởng: Những con người ở khắp tứ phương được lò Mỹ tôi luyện thành những "người mới", giàu có và có nhân phẩm. ít khi người ta nhấn mạnh về sự đóng góp giá trị của bản thân người nhập cư. Sự thành công của "nồi hầm nhừ" quả là kỳ diệu. Theo Jean Pierre Fichou Hoa Kỳ trở thành nước đa nguyên về sinh lý học và về văn hoá. những cuộc hôn nhân giữa các nhóm dân tộc, tuy gần đây mới phổ biến hơn, cũng phần nào giúp vào sự hoà đồng giữa những người Arieng, Do Thái, da đen, da vàng…Con cái họ mang dấu ấn của hai cộng đồng bố mẹ và cả của cộng đồng chung Hoa Kỳ qua giáo dục nhà trường. Tiếng Anh trở thành chiếc cầu nối chung. Có thể do sự bất ổn về di truyền ấy, nên trong tâm lý chung ở Mỹ phát triển sự khoan dung, đầu óc phóng khoáng, sự ham thích những tình thế tạm thời, quá độ. Cũng có thể do đó mà người Mỹ ít chú ý đến dĩ vãng mà hướng nhiều về tương lai.
Dân nhập cư mang đến cho Hoa Kỳ những nền văn hoá gốc của họ, và đầu óc thực dụng, một nét rất Mỹ. Có một mối liên quan rất biện chứng giữa từng nhóm sắc tộc và bản sắc Mỹ chung qua vận động của thời gian, sắc tộc trở thành chuyện riêng tư của từng nhóm, còn bản sắc Mỹ trở thành cái chung, tinh thần quốc gia rất mạnh vẫn đi đôi được với tinh thần sắc tộc. Tinh thần quốc gia Mỹ rất đặc biệt, khác với các nước như Pháp chẳng hạn. Tinh thần quốc gia Mỹ rất đặc biệt, khác với các nước như Pháp chẳng hạn. Tinh thần quốc gia Pháp dựa vào huyết thống dĩ vãng, lịch sử văn hoá tinh thần quốc gia Mỹ không có cơ sở ấy, mà xuất phát từ "một thứ hợp đồng tư tưởng" (theo S. Body - Grendrot) trên một nền tảng chính trị tự nguyện bỏ giai cấp, chức tước, vị trí cũ để thành một "người mới" thuộc cộng đồng chính trị Mỹ mới. Lò luyện rất thúc đẩy kinh tế: những người lao động nhập cư thường dễ dãi, chịu nhận lương ít, sẵn sàng thay đổi nghề nghiệp. Sức lao động dồi dào ấy có nhiều kết quả, nhất là khi người nhập cư đang tuổi năng động, xông ra phía trước vì tự xét chẳng có gì để mất; lớp đến sau đẩy lớp đến trước lên. Những lớp đến trước cần tự bảo vệ bằng cách tiến lên, tự khẳng định mình là người Mỹ. Có một sự chuyển động hai chiều: nếu nhập cư tạo ra văn minh Mỹ thì văn minh Mỹ tạo ra nhập cư.
Trên thực tế sự diệt chủng người da đỏ, sự nô lệ hoá người da đen, sự bất bình đẳng giữa các chủng tộc vẫn còn tồn tại khiến cho các nhà nghiên cứu cho "nồi hầm nhừ" Mỹ chẳng qua chỉ là một cái bẫy giương để đánh lừa chim non, một huyền thoại bởi ngay những người da trắng với nhau cũng có sự phân biệt đối xử. Thực ra "nồi hầm nhừ" chỉ là một ước vọng, một sự lý tưởng hoáđôi khi dùng để cổ vũ hay tuyên truyền. Sự hoà đồng thật là tương đối và tính dân chủ và bình đẳng chỉ áp dụng cho một số người da trắng có đặc quyền. Nhiều nhóm dân tộc ra khỏi lò tôi luyện mà không biến cải, họ sống đối diện với nhau hơn là sát cánh với nhau. Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà Hoa Kỳ, người gốc Anh đã có ý áp đặt quyền ưu tiên của họ. Trong khi các vị tổ sư Jefferson và Lincoln bảo vệ quyền tự do tôn giáo và tự do theo phong tục tập quán riêng thì ngay từ năm 1845, các nhóm người châu Âu "gốc Mỹ chính cống" đã tỏ ra hốt hoảng về sự cạnh tranh kinh tế của nhóm người đến sau, về ảnh hưởng xấu của sự pha trộn chủng tộc: Từ đó xuất hiện một quan niệm hẹp hòi, hạn chế việc nhập cư và đề cao các dân tộc da trắng, gốc Anglo saxon theo tân giáo protestant.
Bộ phận da trắng ưu tiên này gọi là WASP = White : da trắng + Anglo + Saxon + Protestant. Tiêu chuẩn để nhảy vào "nồi hầm nhừ" khắt khe dần. Cuối thế kỷ XIX, những người nào khác xa với WASP đều bị hạn chế. Các sách học nhà trường đề cao truyền thống Anh, coi như là các thành phần chủ yếu và lãnh đạo, cần Mỹ hoá (tức là Anh hoá) các thành phần khác.
Toà án Tối cao đã phải nhiều lần can thiệp để bảo vệ quyền con cái các dân tộc khác được học ngôn ngữ của bố mẹ, quyền được giữ phong tục tập quán của mỗi sắc tộc. Trong cộng đồng Hoa Kỳ, bị phân biệt đối xử, những nhóm thiểu số lại càng bám gốc rễ của họ, ngược với ý đồ "nồi hầm nhừ". Họ tụ nhau do lý do tôn giáo, do thuận lợi cho cuộc sống, do nguyên nhân lịch sử (người da đen ở miền Nam và các thành phố lớn), lý do nghề nghiệp (người Đức ở Trung Tây, người Hà Lan ở Michigan - trồng rau và hoa, người Bắc Âu làm nghề sữa, người Pháp và người ý làm giày… )
Nồi hầm nhừ chỉ có hiệu quả thật sự trong một số mặt của sinh hoạt cộng đồng: nhà trường, thể thao, doanh nghiệp và khoa học. ở nhà rất nhiều kiểu sống dân tộc, phong tục riêng vẫn được tiếp tục. Do đó đặc điểm "nồi hầm" chỉ có tính tương đối và vẫn là ước mơ đối với mọi người dân Mỹ.
Dân chủ - ở phương Tây người ta thường nghĩ là nước Anh mang đến cho thế giới chế độ đại nghị, nước Pháp cách mạng 1789 với khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái ", Hoa Kỳ là nền dân chủ hiện đại. Tinh thần dân chủ ở Hoa Kỳ đã tác động nhiều đến văn hoá Mỹ trong kinh doanh.
Bình đẳng - Sự tin tưởng lớn nhất của người Mỹ từ khi lập quốc là mọi người đều có cơ hội ngang nhau để thành công. Khái niệm này có thể còn ưu tiên hơn cả "tự do", hay ít nhất cũng bổ sung cho tự do. Đất nước rộng mênh mông, của cải nhiều, nên ai cũng được tự do cạnh tranh một cách bình đẳng. Năm 1782, nhà văn Pháp Crèvecoeur nhận định là quá trình từ "tớ" thành "chủ" là quá trình trở thành người Mỹ. Thực tế thì có vẫn có sự phân biệt chủng tộc, phân biệt địa vị xã hội nhưng huyền thoại về bình đẳng vẫn tồn tại trong tiềm thức cộng đồng, ít nhất là một bộ phận da trắng nói chung. Con người thường thích người giàu và thích làm giàu. Xã hội phải được bình đẳng về "cơ hội" nhưng không bình quân về lợi tức. Có sự bất bình đẳng vì ai có khẳ năng sẽ vượt lên. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ giúp cho lòng tin ấy tồn tại. Họ muốn bình đẳng do vậy người Mỹ thường khó chịu khi người khác đối xử với họ quá cung kính. Phụ nữ cũng phải được kính trọng như nam giới. Tại Hoa Kỳ không phải không có sự bất bình đẳng trong tuổi tác, giới tính, của cải, địa vị, nhưng cách thể hiện rất tế nhị (giọng nói - ưu tiên nói trước nói sau, - ngồi ở đầu bàn - có thể người có địa vị cao hơn đặt tay lên vai người có địa vị thấp hơn).
Hướng về tương lai - Người châu á thường hay lấy dĩ vãng, lịch sử và truyền thống làm chuẩn. Những nền văn hoá A- rập, Latinh, châu á dễ tin vào định mệnh, và gây một thái độ buông trôi. Người nhập cư Mỹ đã bỏ nước ra đi không hi vọng quay về nên chỉ gắn bó với hiện tại và tương lai. Người Mỹ chỉ nghĩ đến tương lai trước mắt đẹp hơn, do đó lạc quan. Ngay cả ngày nay, tinh thần vẫn luôn tồn tại mặc dù Mỹ gặp nhiều khó khăn (vũ khí nguyên tử, ô nhiễm môi trường, thất nghiệp, vai trò cường quốc kinh tế lung lay). Người Mỹ luôn tin là có thể thay đổi được thực trạng, do đó họ luôn vội vã, hối hả. Khen ai có nghị lực là lời khen cao nhất. Khoa học dự báo và tiểu thuyết khoa học rất hợp với người Mỹ.
Tinh thần độc lập - Cao bồi tuy ngày càng ít ở Mỹ, vẫn có thể đặc trưng cho một lý tưởng Mỹ về nhiều mặt: tự tin, phiêu lưu, cứng rắn, nam nhi, một mình đương đầu với mọi hiểm nguy. ở nhiều dân tộc, cá nhân gắn bó với tập thể (gia đình, cộng đồng lớn hơn…) nhiều quyết định do tập thể gây ra. Tại Mỹ cá nhân quyết định là chính. Trẻ