Mục tiêu của nghiên cứu là xếp hạng mức độ tài chính bao trùm tại
các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi thực hiện phân tích thành phần
chính hai bước để tính chỉ số tài chính bao trùm và ba cấu phần của
nó. Chúng tôi nhận thấy các quốc gia phát triển có chỉ số tài chính
bao trùm cao và ổn định hơn. Cấu phần gửi và vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong việc giải thích sự biến động của tài chính bao trùm, tiếp
theo sau là cấu phần tài khoản và thanh toán mặc dù sự khác biệt
giữa ba cấu phần là không đáng kể. Để cải thiện tài chính bao trùm,
những người làm chính sách cần thực hiện các giải pháp tại cả ba
cấu phần một cách đồng thời và bền vững.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 14 trang
14 trang | 
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chỉ số tài chính bao trùm: Kết quả từ phương pháp phân tích thành phần chính hai bước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X 
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019
Xây dựng chỉ số tài chính bao trùm: 
Kết quả từ phương pháp phân tích thành phần 
chính hai bước
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ 
Chu Khánh Lân
Nguyễn Minh Phương
Trương Hoàng Diệp Hương
Ngày nhận: 20/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 09/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019
Mục tiêu của nghiên cứu là xếp hạng mức độ tài chính bao trùm tại 
các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi thực hiện phân tích thành phần 
chính hai bước để tính chỉ số tài chính bao trùm và ba cấu phần của 
nó. Chúng tôi nhận thấy các quốc gia phát triển có chỉ số tài chính 
bao trùm cao và ổn định hơn. Cấu phần gửi và vay chiếm tỷ trọng lớn 
nhất trong việc giải thích sự biến động của tài chính bao trùm, tiếp 
theo sau là cấu phần tài khoản và thanh toán mặc dù sự khác biệt 
giữa ba cấu phần là không đáng kể. Để cải thiện tài chính bao trùm, 
những người làm chính sách cần thực hiện các giải pháp tại cả ba 
cấu phần một cách đồng thời và bền vững.
Từ khóa: tài chính bao trùm, phân tích thành phần chính
1. Giới thiệu
ài chính bao 
trùm dù là một 
vấn đề quan 
trọng nhưng vẫn 
còn là vấn đề 
mới nổi trong lý thuyết kinh 
tế hiện đại. Do đó, số lượng 
các nghiên cứu thực nghiệm 
liên quan đến chủ đề này còn 
khá hạn chế. Mỗi nghiên cứu 
lại đưa ra một định nghĩa khác 
nhau về tài chính bao trùm, 
nhưng tất cả đều thừa nhận 
rằng tài chính bao trùm là một 
nỗ lực nhằm loại bỏ rào cản 
trong việc sử dụng các dịch 
vụ tài chính. Trong đó, Mohan 
(2006) nhận định tài chính bao 
trùm là tình huống mà những 
người chưa tiếp cận tới hệ 
thống tài chính được cung cấp 
các sản phẩm tài chính với chi 
phí thấp, an toàn và hợp lý. 
Tương tự, Ajide (2015) cũng 
cho rằng tài chính bao trùm là 
việc cung cấp các dịch vụ tài 
chính có giá cả phải chăng, kịp 
thời và dễ tiếp cận tới tất cả 
các thành viên trong xã hội. 
Chúng tôi xây dựng chỉ số tài 
chính bao trùm và ba cấu phần 
của tài chính bao trùm, gồm 
tài khoản, thanh toán, vay và 
gửi. Sử dụng dữ liệu Tài chính 
bao trùm toàn cầu của Ngân 
hàng Thế giới (WB), chúng tôi 
thực hiện phân tích thành phần 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
chính hai bước để tính chỉ 
số tài chính bao trùm cho 95 
quốc gia trong hai năm 2014 
và 2017.
Thông qua việc xây dựng chỉ 
số tài chính bao trùm trên cơ 
sở dữ liệu có tính toàn diện 
cao, nghiên cứu đã giúp nhà 
làm chính sách hiểu hơn về 
thực trạng tài chính bao trùm, 
các cấu phần của tài chính bao 
trùm, giúp họ xây dựng được 
các chính sách phù hợp. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy, các 
quốc gia phát triển có chỉ số 
tài chính bao trùm và các cấu 
phần bên trong cao và ổn định 
hơn các quốc gia đang phát 
triển. Cấu phần vay và gửi 
giải thích nhiều nhất sự biến 
động trong chỉ số tài chính 
bao trùm, kế đến là cấu phần 
tài khoản và thanh toán, mặc 
dù sự khác biệt trong tỷ trọng 
của từng cấu phần là khá thấp. 
Phần còn lại của nghiên cứu 
được trình bày như sau: Phần 
2 trình bày các nghiên cứu 
liên quan tới xây dựng chỉ số 
tài chính bao trùm, Phần 3 mô 
tả phương pháp và dữ liệu sử 
dụng để tính chỉ số tài chính 
bao trùm và các cấu phần của 
nó, Phần 4 trình bày và thảo 
luận kết quả, Phần 5 trình bày 
kết luận. 
2. Tổng quan nghiên cứu
Cuộc khủng hoảng tài chính 
gần đây đã nhấn mạnh tầm 
quan trọng của tài chính bao 
trùm trong việc thúc đẩy 
tăng trưởng kinh tế, giảm đói 
nghèo và giảm bất bình đẳng 
thu nhập. Kể từ đó, chủ đề này 
đã thu hút sự quan tâm của 
các nhà nghiên cứu, các nhà 
hoạch định chính sách nhằm 
khám phá khái niệm tài chính 
bao trùm, đo lường mức độ 
tiếp cận, đo lường các nhân 
tố ảnh hưởng và tác động của 
tài chính bao trùm ở các nhóm 
quốc gia khác nhau. 
Theo báo cáo mới nhất của 
WB (2017) về việc sử dụng 
các dịch vụ tài chính, mức 
độ tài chính bao trùm đã tăng 
lên trên toàn cầu, nhờ sự phát 
triển của điện thoại di động 
và mạng internet. Tuy nhiên, 
mức độ tăng tài chính bao 
trùm không cân bằng giữa 
các quốc gia. Tỷ lệ người 
trưởng thành có tài khoản tại 
tổ chức tài chính chính thức 
tăng nhanh từ mức 51% năm 
2011 lên mức 62% năm 2014 
và đạt mức 69% năm 2017, 
đạt khoảng 3,8 tỷ người trên 
toàn thế giới. Cùng với sự 
phát triển của điện thoại di 
động và internet, tỷ lệ chủ sở 
hữu tài khoản gửi hoặc nhận 
thanh toán điện tử tăng từ mức 
67% năm 2014 lên 76% năm 
2017. Ở một số quốc gia như 
khu vực Châu Phi cận Sahara, 
công nghệ là yếu tố quyết 
định tới việc tăng tài chính 
bao trùm. Tuy nhiên, hiện nay 
còn khoảng 1,7 tỷ người vẫn 
chưa được tiếp cận dịch vụ tài 
chính, dù thực tế là gần 70% 
trong số họ sở hữu điện thoại 
di động. Đồng thời, vẫn tồn 
tại chênh lệch về tỷ lệ người 
trưởng thành được tiếp cận 
các dịch vụ tài chính giữa nam 
và nữ, nông thôn và thành thị, 
và các nước đang phát triển và 
phát triển. Những tồn tại này 
yêu cầu phải tiếp tục nghiên 
cứu nhằm đẩy mạnh mức độ 
tài chính bao trùm trên toàn 
thế giới. 
Để đo lường mức độ tài chính 
bao trùm, hầu hết các nghiên 
cứu đều xây dựng chỉ số tài 
chính bao trùm tổng hợp từ 
các chỉ tiêu lựa chọn. Trong 
bước đầu tiên, các chỉ tiêu đo 
lường tài chính bao trùm được 
lựa chọn và được chuẩn hóa 
bằng cách lấy giá trị thực của 
chỉ tiêu trừ đi giá trị nhỏ nhất 
của chỉ tiêu đó, sau đó chia 
cho chênh lệch giữa giá trị lớn 
nhất và giá trị nhỏ nhất của 
chỉ tiêu đó. Bước tiếp theo, 
chỉ số tài chính bao trùm được 
tính toán bằng phương pháp 
khoảng cách nghịch đảo bình 
phương Euclidean (Sarma, 
2008; Kim, 2016; Park và 
Mercado, 2015), hoặc 
phương pháp phân tích thành 
phần chính PCA. 
Điểm khác biệt chính giữa hai 
phương pháp này là mức trọng 
số gắn với từng chỉ tiêu. Ví 
dụ, Sarma (2008) xây dựng 
chỉ số tài chính bao trùm bao 
gồm ba cấu phần (mức độ tiếp 
cận, mức độ sẵn có và mức 
độ sử dụng). Sarma (2008) 
không áp dụng các kỹ thuật 
thống kê để xác định trọng số 
cho từng chỉ tiêu, mà chỉ áp 
dụng mức trọng số thấp hơn 
cho các chỉ tiêu bị thiếu dữ 
liệu. Camara và Tuesta (2014) 
lại chia các chỉ tiêu thành 
ba cấu phần khác, đó là mức 
độ sử dụng, mức độ tiếp cận 
và các rào cản, và sử dụng 
phương pháp phân tích thành 
phần chính hai giai đoạn để đo 
lường trọng số gắn với từng 
chỉ tiêu và với từng cấu phần. 
Park và Mercado (2018) kết 
hợp các phương pháp Sarma 
(2008) và Camara và Tuesta 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
(2014), bằng cách sử dụng các 
cấu phần giống như Sarma 
(2008) (mức độ tiếp cận, mức 
độ sẵn có và mức độ sử dụng). 
Họ chuẩn hóa từng chỉ tiêu, 
sau đó sử dụng phương pháp 
phân tích thành phần chính 
để tính từng cấu phần. Sau 
khi có được chỉ tiêu đo lường 
từng cấu phần của tài chính 
bao trùm, họ tiếp tục sử dụng 
phương pháp phân tích thành 
phần chính lần thứ hai để tìm 
ra mức trọng số gắn với từng 
cấu phần và tổng hợp thành 
chỉ số tài chính bao trùm.
Bằng cách xây dựng chỉ số 
tài chính bao trùm dựa trên 
ba cấu phần mới (tài khoản, 
thanh toán, vay và tiết kiệm) 
và sử dụng dữ liệu được cập 
nhật từ WB (2017), bài viết 
này cung cấp một đánh giá 
toàn diện hơn về tài chính bao 
trùm tại mỗi quốc gia.
3. Phương pháp và dữ liệu
3.1. Cấu phần của tài chính 
bao trùm
Khó khăn trong việc xây 
dựng tài chính bao trùm là 
làm sao xây dựng được một 
chỉ số toàn diện mà vẫn bảo 
đảm được chỉ số bao gồm 
nhiều quốc gia trên thế giới 
khi mà dữ liệu về tài chính 
bao trùm tại các quốc gia là 
không giống nhau và khó so 
sánh. Có một vài phương pháp 
đo lường chỉ số tài chính bao 
trùm sử dụng các cấu phần 
khác nhau của tài chính bao 
trùm như sử dụng, truy cập, 
trở ngại hoặc truy cập, sẵn 
có, và sử dụng (Honohan, 
2008; Sarma, 2008 và 2015; 
Demirgüç-Kunt và Klapper, 
2012; Cámara và Tuesta, 
2014). Trong khi Sarma 
(2008) tập trung quá nhiều 
vào hệ thống ngân hàng mà bỏ 
qua vấn đề thanh toán và các 
dịch vụ do hệ thống tài chính 
không phải ngân hàng cung 
cấp thì Cámara và Tuesta 
(2014) chưa xác định rõ ràng 
về khái niệm tài chính bao 
trùm khi họ kết hợp nguyên 
nhân sử dụng và không sử 
dụng các dịch vụ tài chính vào 
một chỉ số (Park, 2018).
Cơ sở dữ liệu Tài chính bao 
trùm toàn cầu do WB xây 
dựng vào năm 2011 cung cấp 
dữ liệu mô tả dân cư toàn cầu 
tiết kiệm, thanh toán và vay, 
gửi. Cơ sở dữ liệu này thu 
thập dữ liệu từ 150.000 cư 
dân (từ 15 tuổi trở lên) tại hơn 
140 quốc gia về cách thức họ 
tiếp cận và sử dụng các dịch 
vụ tài chính chính thức và phi 
chính thức. Mặc dù cơ sở dữ 
liệu đo lường nhiều khía cạnh 
khác nhau của tài chính bao 
trùm nhưng chủ yếu tập trung 
vào tài khoản, thanh toán, vay 
và gửi. Chúng tôi sử dụng cơ 
sở dữ liệu lớn và chi tiết này 
để xây dựng ba cấu phần, tài 
khoản, thanh toán, vay và gửi 
và chỉ số tài chính bao trùm 
tổng thể. Điểm mới của chỉ số 
này là nó được xây dựng trên 
ba cấu phần dễ diễn giải và 
có giá trị tham khảo cho quá 
trình xây dựng chính sách. 
Tăng cường mức độ sở hữu và 
sử dụng tài khoản là một trong 
các biện pháp quan trọng để 
phát triển tài chính bao trùm 
do hầu hết các dịch vụ tài 
chính chính thức đều gắn với 
việc sở hữu và sử dụng tài 
khoản. Mức độ phổ biến của 
tài khoản còn được đo lường 
bởi phần trăm người lớn có 
thẻ tín dụng ghi nợ và ghi có. 
Tuy nhiên, sở hữu tài khoản 
không phản ánh được mức độ 
sử dụng tài khoản. Mức độ 
sử dụng tài khoản cho phép 
người nắm giữ hưởng lợi tối 
đa từ tài chính bao trùm thông 
qua gửi tiền hoặc rút tiền 
trong khi thẻ ghi nợ, thẻ tín 
dụng cho phép họ thanh toán 
các khoản chi tiêu. Do vậy, để 
đo lường cấu phần tài khoản, 
chúng tôi sử dụng 6 chỉ báo: 
tài khoản (tài khoản, % tuổi từ 
15 trở lên), gửi tiền (gửi tiền 
trong năm vừa rồi, tại tổ chức 
tài chính, tuổi từ 15 trở lên), 
rút tiền (rút tiền trong năm 
vừa rồi, tại tổ chức tài chính, 
tuổi từ 15 trở lên), thẻ ghi nợ 
(sở hữu thẻ ghi nợ, % tuổi từ 
15 trở lên), thẻ tín dụng (sở 
hữu thẻ tín dụng, % tuổi từ 15 
trở lên), và sử dụng thẻ (sử 
dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín 
dụng trong năm vừa rồi, % 
tuổi từ 15 trở lên). 
Chúng tôi nhận định sự phổ 
biến của các phương thức 
thanh toán không dùng tiền 
mặt là sự phản ánh sự phát 
triển của tài chính bao trùm. 
Chuyển dịch từ thanh toán 
tiền mặt như trả hóa đơn, 
nhận tiền lương, thanh toán 
từ chính phủ sang sử dụng tài 
khoản sẽ mang lại những lợi 
ích cho người sử dụng. Chúng 
tôi sử dụng 3 chỉ báo: thanh 
toán hóa đơn (thanh toán hóa 
đơn qua tài khoản, % người 
thanh toán, tuổi từ 15 trở lên), 
nhận thanh toán từ chính phủ 
(nhận thanh toán từ chính phủ 
qua tài khoản, % người nhận, 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
tuổi từ 15 trở lên), nhận lương 
(nhận lương qua tài khoản, 
% người nhận, tuổi từ 15 trở 
lên). Chúng tôi sử dụng cả chỉ 
số thanh toán số (nhận hoặc 
chuyển tiền thanh toán số 
trong năm vừa rồi, % tuổi từ 
15 trở lên) để xem xét cả lợi 
ích từ việc chuyển từ thanh 
toán tiền mặt sang thanh toán 
số. Giảm chi phí, tăng tốc độ 
thanh toán, bảo đảm an toàn 
và minh bạch là những lợi ích 
tiềm năng có thể nhận thấy. 
Tiết kiệm tiền và vay tiền từ 
các tổ chức tài chính chính 
thức có vai trò quan trọng 
trong phổ biến tài chính bao 
trùm. Chúng tôi sử dụng hai 
chỉ báo: vay (vay từ tổ chức 
tài chính hoặc sử dụng thẻ tín 
dụng, % tuổi từ 15 trở lên) và 
tiết kiệm (gửi tiền tại tổ chức 
tài chính, % tuổi từ 15 trở lên) 
để đo lường cách thức người 
lớn sử dụng các dịch vụ tài 
chính để tiết kiệm cho tương 
lai hoặc giải quyết các thiếu 
hụt tài chính tại thời điểm 
hiện tại. 
3.2. Phương pháp
Chúng tôi áp dụng phương 
pháp phân tích thành phần 
chính hai giai đoạn của 
Cámara và Tuesta (2014) để 
tính các cấu phần và chỉ số 
tài chính bao trùm. Như đã 
phân tích ở trên, tài chính bao 
trùm được xác định thông 
qua nhiều chỉ báo và được giả 
định tồn tại một cấu trúc cơ sở 
ẩn sau một nhóm các chỉ báo 
có mối quan hệ tương quan 
cao. Tài chính bao trùm có thể 
được trình bày dưới dạng sau:
FIIi = ω1Yia + ω2Yip + ω3Yib&s 
(1)
Trong đó, i chỉ các nước, (Yia, 
Yip, Yib&s) đại diện cho các cấu 
phần tài khoản, thanh toán, 
vay và gửi. 
Phân tích thành phần chính 
giai đoạn 1 đo lường các biến 
số (Yia, Yip, Yib&s) và các thông 
số của 3 phương trình sau:
Yia = α1accounti + α2depositi + 
α
3
withdrawli + α4debit cardi + 
α
5
credit cardi + α6card usagei 
(2)
Yip = β1paid utility billsi + 
β2paid utility billsi + β3paid 
utility billsi + β4paid utility 
billsi (3)
Yib&s = γ1borrowi + γ2savei (4)
Rp,(p×p) là ma trận tương 
quan của p chỉ báo đối với 
mỗi cấu phần. λ
j
 (j=1,,m) 
là giá trị eigenvalue thứ j, 
trong đó j là số lượng thành 
phần chính tương ứng với số 
lượng chỉ báo p. φ
j
 (p×1) là 
eigenvector của ma trận tương 
quan. Đối với mỗi cấu phần, 
chúng tôi giả định λ
1
 > λ2 >  
> λm và gọi Pk (k=1,,m) là 
cấu phần thứ k. Mỗi cấu phần 
được tính như sau:
Ya = ∑m λa P a (∑
m
λ
a )-1 (5)i j,k=1 j ki j=1 j
Y
p
= ∑
m
λ
p P p (∑
m
λ
p)-1 (6)i j,k=1 j ki j=1 j
Y
b&s
=∑
m
λ
b&s
P
b&s
(∑
m
λ
b&s
)-1i j,k=1 j ki j=1 j
(7)
Trong đó P
k
 = λmX. λm là 
phương sai của cấu phần thứ 
m và X là ma trận các chỉ báo. 
Do tỷ trọng của mỗi cấu phần 
giảm dần, phần lớn sự biến 
động của cấu phần được giải 
thích bởi thành phần chính 
đầu tiên và giảm dần theo thứ 
tự cấu phần tiếp theo. Mặc dù 
thông lệ là thay thế toàn bộ 
các biến số bằng một vài cấu 
phần chính ban đầu, chúng tôi 
sử dụng tất cả các cấu phần 
chính để ghi nhận toàn bộ 
100% sự biến động của các 
chỉ số. 
Sau khi tính được chỉ số riêng 
cho ba cấu phần, chúng tôi sử 
dụng phương pháp phân tích 
thành phần chính giai đoạn 
hai tính tỷ trọng cho từng cấu 
phần để tính chỉ số tài chính 
bao trùm.
FII = ∑
m
λ P (∑
m
λ )-1 (8)i j,k=1 j ki j=1 j
Trong đó FIIi là chỉ số tài 
chính bao trùm tổng quát cho 
nước i. P
k
 = λmX. λm là phương 
sai của cấu phần thứ m và X 
là ma trận các chỉ báo. Chúng 
tôi tiếp tục sử dụng tất cả các 
cấu phần chính để ghi nhận 
toàn bộ 100% sự biến động 
của các chỉ số. Sau khi biến 
đổi, chúng tôi viết mỗi cấu 
phần P
ki
 dưới dạng sau:
P
1i
 = φ
11
Yia + φ12Yip + φ13Yib&s 
(9)
P2i = φ21Yia + φ22Yip + φ23Yib&s 
(10)
P
3i
 = φ
31
Yia + φ32Yip + φ33Yib&s 
(11)
Chỉ số tài chính bao trùm tổng 
quát được trình bày lại dưới 
dạng sau:
FII = ∑
3
λ
j
(φ
j1
Y a + φ
j2
Y
p
+i j=1 i i
+ φ
j3
Y
b&s
)(∑
3
λ )-1 (12)i j=1 j
Chúng tôi có thể trình bày chỉ 
số tài chính bao trùm tổng 
quát dưới dạng bình quân có 
trọng số với là tỷ trọng mỗi 
cấu phần như sau:
w = ∑
3
λ
j
φ
jk
(∑
3
λ )-1 (13)k j=1 j=1 j
3.3. Dữ liệu
Chúng tôi sử dụng dữ liệu Tài 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
chính bao trùm toàn cầu năm 
2014 và 2017 của WB. Chỉ 
các quốc gia có dữ liệu cả hai 
năm 2014 và 2017 được lựa 
chọn. Việc lựa chọn này khiến 
số lượng quốc gia được lựa 
chọn giảm từ hơn 140 nước 
xuống còn 95 nước. Ma trận 
tương quan các chỉ báo được 
trình bày tại Bảng 1. 
4. Kết quả và thảo luận 
Tại bước phân tích thành phần 
chính thứ nhất, chúng tôi tính 
tỷ trọng cho các chỉ báo trong 
từng cấu phần tài khoản, thanh 
toán, vay và gửi. Kết quả tính 
toán các cấu phần này có giá 
trị đối với những người làm 
chính sách. Bảng 2 trình bày 
eigenvectors, eigenvalues, 
và tỷ trọng đối với từng cấu 
phần. Nhìn chung, tỷ trọng 
và mức độ giải thích sự biến 
động của từng thành phần khá 
ổn định qua hai năm 2014 và 
2017. 
Đối với cấu phần tài khoản, 
chỉ báo gửi và rút tiền có tỷ 
trọng cao nhất (0,19), theo sau 
là sử dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ 
tín dụng (0,17), sở hữu thẻ tín 
dụng (0,16), sở hữu thẻ ghi 
nợ (0,15) và sở hữu tài khoản 
(0,14). Mặc dù tỷ trọng các 
chỉ báo không đồng đều hoàn 
toàn, không có chỉ báo nào 
chiếm tỷ trọng quá lớn. Đây 
là một điều kiện tốt khi xây 
dựng chỉ số. Cần chú ý rằng, 
chỉ báo sở hữu tài khoản vốn 
được sử dụng nhiều trong các 
nghiên cứu về tài chính bao 
trùm lại chứa ít thông tin hơn 
các chỉ báo khác. 
Đối với cấu phần thanh toán, 
tỷ trọng của thanh toán số, 
trả hóa đơn và trả lương khá 
tương đồng, lần lượt là 0,24, 
0,25, và 0,23, thấp hơn mức tỷ 
trọng của nhận thanh toán từ 
chính phủ là 0,28. Phần cuối 
của Bảng 2 chỉ ra tỷ trọng của 
việc gửi tiền vào tổ chức tài 
chính cao hơn so với tỷ trọng 
vay từ tổ chức tài chính, 0,54 
so với 0,46. 
Đối với cấu phần tài khoản, 
thành phần thứ nhất giải thích 
tới 83% các thông tin trong 
cấu phần, có mức độ phân bổ 
khá đồng đều đối với cả 6 chỉ 
báo (từ mức 0,37 tới 0,44). 
Kết quả này cho thấy cả 6 chỉ 
báo đều đo lường cùng một 
cấu trúc ẩn giống nhau. Các 
chỉ báo về gửi và rút tiền cung 
cấp thêm thông tin trong thành 
phần thứ hai trong khi sở hữu 
thẻ tín dụng cung cấp thêm 
thông tin trong thành phần thứ 
ba. Bảng 3 cũng cho thấy sự 
đồng đều trong 4 chỉ báo (từ 
mức 0,46 tới 0,53) trong thành 
phần thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ 
báo thanh toán từ chính phủ 
và thanh toán hóa đơn qua tài 
khoản có vai trò quan trọng 
hơn khi đóng góp thêm thông 
tin trong thành phần thứ hai 
và thứ ba. Cuối cùng, chỉ 
báo gửi và vay tại tổ chức tài 
chính đóng góp khá đồng đều 
trong thành phần thứ nhất, 
giải thích tới 92% sự biến 
động của cấu phần này. 
Tại bước thứ hai của phân tích 
thành phần chính, chúng tôi 
áp dụng phương pháp giống 
với khi tính toán các cấu phần 
của tài chính bao trùm. Bảng 
5 trình bày các thành phần của 
chính và tỷ trọng của mỗi cấu 
phần. Cấu phần gửi và vay 
chiếm tỷ trọng cao nhất trong 
giải thích sự biến động của 
tài chính bao trùm (0,36), tiếp 
theo sau là tài khoản và thanh 
toán (0,32 và 0,31). Tuy vậy, 
sự khác biệt giữa các cấu phần 
là không đáng kể. Vì vậy, để 
có thể cải thiện tài chính bao 
trùm, chính sách cần được 
thiết kế và thực hiện đồng đều 
giữa cả ba cấu phần. 
Khi phân tích thành phần 
chính, thành phần thứ nhất 
giải thích tới 90% sự biến 
động của dữ liệu và có sự 
phân bổ đồng đều giữa cả ba 
cấu phần. Gửi và vay tại tổ 
chức tài chính cung cấp thêm 
thông tin thông qua thành 
phần thứ hai, và do đó, có ý 
nghĩa quan trọng hơn trong 
việc giải thích chỉ số tài chính 
bao trùm tổng thể (Bảng 6). 
Bảng 4 và 7 trình bày thứ tự 
xếp hạng của các quốc gia 
trong mẫu nghiên cứu theo 
các cấu phần và chỉ số tài 
chính bao trùm tổng thể trong 
năm 2017. Tại bảng 7, cột thứ 
hai cho biết mức độ thay đổi 
trong thứ tự xếp hạng giữa 
năm 2017 và 2014. Một số 
điểm đáng chú ý như sau: Các 
quốc gia phát triển có mức 
độ tài chính bao trùm và các 
cấu phần của nó cao hơn so 
với các nước đang phát triển. 
Các quốc gia phát triển cũng 
có mức độ ổn định trong mức 
độ tài chính bao trùm so trong 
giai đoạn từ 2014 đến 2017. 
Đối với chỉ số tài chính bao 
trùm tổng thể, phần tư thứ 
nhất chủ yếu là các quốc gia 
đến từ Châu Âu, Bắc Mỹ, trừ 
bốn quốc gia châu Á là Hàn 
Quốc, Nhật Bản, Singapore, 
và Hồng Kông. Phần tư thứ 
hai tiếp tục bao gồm các nước 
 CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ 
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
từ Châu Âu còn lại và ba quốc 
gia Tây Á xuất khẩu dầu mỏ 
là Các tiểu vương quốc Ả 
Rập Thống nhất, Bahrain, và 
Kuwait, bốn quốc gia Châu 
Á là Đài Loan, Mongolia, 
Malaysia, và Trung Quốc. Có 
hai trường hợp đáng chú ý tới 
từ Châu Phi là Namibia và 
Mauritius. Một vài quốc gia 
Đông và Nam Âu như Serbia, 
Bulagria, Nga, U