Mục tiêu của nghiên cứu là xếp hạng mức độ tài chính bao trùm tại
các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi thực hiện phân tích thành phần
chính hai bước để tính chỉ số tài chính bao trùm và ba cấu phần của
nó. Chúng tôi nhận thấy các quốc gia phát triển có chỉ số tài chính
bao trùm cao và ổn định hơn. Cấu phần gửi và vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong việc giải thích sự biến động của tài chính bao trùm, tiếp
theo sau là cấu phần tài khoản và thanh toán mặc dù sự khác biệt
giữa ba cấu phần là không đáng kể. Để cải thiện tài chính bao trùm,
những người làm chính sách cần thực hiện các giải pháp tại cả ba
cấu phần một cách đồng thời và bền vững.
14 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 417 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng chỉ số tài chính bao trùm: Kết quả từ phương pháp phân tích thành phần chính hai bước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 200+ 201- Tháng 1&2. 2019
Xây dựng chỉ số tài chính bao trùm:
Kết quả từ phương pháp phân tích thành phần
chính hai bước
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ
Chu Khánh Lân
Nguyễn Minh Phương
Trương Hoàng Diệp Hương
Ngày nhận: 20/12/2018 Ngày nhận bản sửa: 09/01/2019 Ngày duyệt đăng: 29/01/2019
Mục tiêu của nghiên cứu là xếp hạng mức độ tài chính bao trùm tại
các quốc gia trên thế giới. Chúng tôi thực hiện phân tích thành phần
chính hai bước để tính chỉ số tài chính bao trùm và ba cấu phần của
nó. Chúng tôi nhận thấy các quốc gia phát triển có chỉ số tài chính
bao trùm cao và ổn định hơn. Cấu phần gửi và vay chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong việc giải thích sự biến động của tài chính bao trùm, tiếp
theo sau là cấu phần tài khoản và thanh toán mặc dù sự khác biệt
giữa ba cấu phần là không đáng kể. Để cải thiện tài chính bao trùm,
những người làm chính sách cần thực hiện các giải pháp tại cả ba
cấu phần một cách đồng thời và bền vững.
Từ khóa: tài chính bao trùm, phân tích thành phần chính
1. Giới thiệu
ài chính bao
trùm dù là một
vấn đề quan
trọng nhưng vẫn
còn là vấn đề
mới nổi trong lý thuyết kinh
tế hiện đại. Do đó, số lượng
các nghiên cứu thực nghiệm
liên quan đến chủ đề này còn
khá hạn chế. Mỗi nghiên cứu
lại đưa ra một định nghĩa khác
nhau về tài chính bao trùm,
nhưng tất cả đều thừa nhận
rằng tài chính bao trùm là một
nỗ lực nhằm loại bỏ rào cản
trong việc sử dụng các dịch
vụ tài chính. Trong đó, Mohan
(2006) nhận định tài chính bao
trùm là tình huống mà những
người chưa tiếp cận tới hệ
thống tài chính được cung cấp
các sản phẩm tài chính với chi
phí thấp, an toàn và hợp lý.
Tương tự, Ajide (2015) cũng
cho rằng tài chính bao trùm là
việc cung cấp các dịch vụ tài
chính có giá cả phải chăng, kịp
thời và dễ tiếp cận tới tất cả
các thành viên trong xã hội.
Chúng tôi xây dựng chỉ số tài
chính bao trùm và ba cấu phần
của tài chính bao trùm, gồm
tài khoản, thanh toán, vay và
gửi. Sử dụng dữ liệu Tài chính
bao trùm toàn cầu của Ngân
hàng Thế giới (WB), chúng tôi
thực hiện phân tích thành phần
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
43Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
chính hai bước để tính chỉ
số tài chính bao trùm cho 95
quốc gia trong hai năm 2014
và 2017.
Thông qua việc xây dựng chỉ
số tài chính bao trùm trên cơ
sở dữ liệu có tính toàn diện
cao, nghiên cứu đã giúp nhà
làm chính sách hiểu hơn về
thực trạng tài chính bao trùm,
các cấu phần của tài chính bao
trùm, giúp họ xây dựng được
các chính sách phù hợp. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, các
quốc gia phát triển có chỉ số
tài chính bao trùm và các cấu
phần bên trong cao và ổn định
hơn các quốc gia đang phát
triển. Cấu phần vay và gửi
giải thích nhiều nhất sự biến
động trong chỉ số tài chính
bao trùm, kế đến là cấu phần
tài khoản và thanh toán, mặc
dù sự khác biệt trong tỷ trọng
của từng cấu phần là khá thấp.
Phần còn lại của nghiên cứu
được trình bày như sau: Phần
2 trình bày các nghiên cứu
liên quan tới xây dựng chỉ số
tài chính bao trùm, Phần 3 mô
tả phương pháp và dữ liệu sử
dụng để tính chỉ số tài chính
bao trùm và các cấu phần của
nó, Phần 4 trình bày và thảo
luận kết quả, Phần 5 trình bày
kết luận.
2. Tổng quan nghiên cứu
Cuộc khủng hoảng tài chính
gần đây đã nhấn mạnh tầm
quan trọng của tài chính bao
trùm trong việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, giảm đói
nghèo và giảm bất bình đẳng
thu nhập. Kể từ đó, chủ đề này
đã thu hút sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạch định chính sách nhằm
khám phá khái niệm tài chính
bao trùm, đo lường mức độ
tiếp cận, đo lường các nhân
tố ảnh hưởng và tác động của
tài chính bao trùm ở các nhóm
quốc gia khác nhau.
Theo báo cáo mới nhất của
WB (2017) về việc sử dụng
các dịch vụ tài chính, mức
độ tài chính bao trùm đã tăng
lên trên toàn cầu, nhờ sự phát
triển của điện thoại di động
và mạng internet. Tuy nhiên,
mức độ tăng tài chính bao
trùm không cân bằng giữa
các quốc gia. Tỷ lệ người
trưởng thành có tài khoản tại
tổ chức tài chính chính thức
tăng nhanh từ mức 51% năm
2011 lên mức 62% năm 2014
và đạt mức 69% năm 2017,
đạt khoảng 3,8 tỷ người trên
toàn thế giới. Cùng với sự
phát triển của điện thoại di
động và internet, tỷ lệ chủ sở
hữu tài khoản gửi hoặc nhận
thanh toán điện tử tăng từ mức
67% năm 2014 lên 76% năm
2017. Ở một số quốc gia như
khu vực Châu Phi cận Sahara,
công nghệ là yếu tố quyết
định tới việc tăng tài chính
bao trùm. Tuy nhiên, hiện nay
còn khoảng 1,7 tỷ người vẫn
chưa được tiếp cận dịch vụ tài
chính, dù thực tế là gần 70%
trong số họ sở hữu điện thoại
di động. Đồng thời, vẫn tồn
tại chênh lệch về tỷ lệ người
trưởng thành được tiếp cận
các dịch vụ tài chính giữa nam
và nữ, nông thôn và thành thị,
và các nước đang phát triển và
phát triển. Những tồn tại này
yêu cầu phải tiếp tục nghiên
cứu nhằm đẩy mạnh mức độ
tài chính bao trùm trên toàn
thế giới.
Để đo lường mức độ tài chính
bao trùm, hầu hết các nghiên
cứu đều xây dựng chỉ số tài
chính bao trùm tổng hợp từ
các chỉ tiêu lựa chọn. Trong
bước đầu tiên, các chỉ tiêu đo
lường tài chính bao trùm được
lựa chọn và được chuẩn hóa
bằng cách lấy giá trị thực của
chỉ tiêu trừ đi giá trị nhỏ nhất
của chỉ tiêu đó, sau đó chia
cho chênh lệch giữa giá trị lớn
nhất và giá trị nhỏ nhất của
chỉ tiêu đó. Bước tiếp theo,
chỉ số tài chính bao trùm được
tính toán bằng phương pháp
khoảng cách nghịch đảo bình
phương Euclidean (Sarma,
2008; Kim, 2016; Park và
Mercado, 2015), hoặc
phương pháp phân tích thành
phần chính PCA.
Điểm khác biệt chính giữa hai
phương pháp này là mức trọng
số gắn với từng chỉ tiêu. Ví
dụ, Sarma (2008) xây dựng
chỉ số tài chính bao trùm bao
gồm ba cấu phần (mức độ tiếp
cận, mức độ sẵn có và mức
độ sử dụng). Sarma (2008)
không áp dụng các kỹ thuật
thống kê để xác định trọng số
cho từng chỉ tiêu, mà chỉ áp
dụng mức trọng số thấp hơn
cho các chỉ tiêu bị thiếu dữ
liệu. Camara và Tuesta (2014)
lại chia các chỉ tiêu thành
ba cấu phần khác, đó là mức
độ sử dụng, mức độ tiếp cận
và các rào cản, và sử dụng
phương pháp phân tích thành
phần chính hai giai đoạn để đo
lường trọng số gắn với từng
chỉ tiêu và với từng cấu phần.
Park và Mercado (2018) kết
hợp các phương pháp Sarma
(2008) và Camara và Tuesta
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
44 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
(2014), bằng cách sử dụng các
cấu phần giống như Sarma
(2008) (mức độ tiếp cận, mức
độ sẵn có và mức độ sử dụng).
Họ chuẩn hóa từng chỉ tiêu,
sau đó sử dụng phương pháp
phân tích thành phần chính
để tính từng cấu phần. Sau
khi có được chỉ tiêu đo lường
từng cấu phần của tài chính
bao trùm, họ tiếp tục sử dụng
phương pháp phân tích thành
phần chính lần thứ hai để tìm
ra mức trọng số gắn với từng
cấu phần và tổng hợp thành
chỉ số tài chính bao trùm.
Bằng cách xây dựng chỉ số
tài chính bao trùm dựa trên
ba cấu phần mới (tài khoản,
thanh toán, vay và tiết kiệm)
và sử dụng dữ liệu được cập
nhật từ WB (2017), bài viết
này cung cấp một đánh giá
toàn diện hơn về tài chính bao
trùm tại mỗi quốc gia.
3. Phương pháp và dữ liệu
3.1. Cấu phần của tài chính
bao trùm
Khó khăn trong việc xây
dựng tài chính bao trùm là
làm sao xây dựng được một
chỉ số toàn diện mà vẫn bảo
đảm được chỉ số bao gồm
nhiều quốc gia trên thế giới
khi mà dữ liệu về tài chính
bao trùm tại các quốc gia là
không giống nhau và khó so
sánh. Có một vài phương pháp
đo lường chỉ số tài chính bao
trùm sử dụng các cấu phần
khác nhau của tài chính bao
trùm như sử dụng, truy cập,
trở ngại hoặc truy cập, sẵn
có, và sử dụng (Honohan,
2008; Sarma, 2008 và 2015;
Demirgüç-Kunt và Klapper,
2012; Cámara và Tuesta,
2014). Trong khi Sarma
(2008) tập trung quá nhiều
vào hệ thống ngân hàng mà bỏ
qua vấn đề thanh toán và các
dịch vụ do hệ thống tài chính
không phải ngân hàng cung
cấp thì Cámara và Tuesta
(2014) chưa xác định rõ ràng
về khái niệm tài chính bao
trùm khi họ kết hợp nguyên
nhân sử dụng và không sử
dụng các dịch vụ tài chính vào
một chỉ số (Park, 2018).
Cơ sở dữ liệu Tài chính bao
trùm toàn cầu do WB xây
dựng vào năm 2011 cung cấp
dữ liệu mô tả dân cư toàn cầu
tiết kiệm, thanh toán và vay,
gửi. Cơ sở dữ liệu này thu
thập dữ liệu từ 150.000 cư
dân (từ 15 tuổi trở lên) tại hơn
140 quốc gia về cách thức họ
tiếp cận và sử dụng các dịch
vụ tài chính chính thức và phi
chính thức. Mặc dù cơ sở dữ
liệu đo lường nhiều khía cạnh
khác nhau của tài chính bao
trùm nhưng chủ yếu tập trung
vào tài khoản, thanh toán, vay
và gửi. Chúng tôi sử dụng cơ
sở dữ liệu lớn và chi tiết này
để xây dựng ba cấu phần, tài
khoản, thanh toán, vay và gửi
và chỉ số tài chính bao trùm
tổng thể. Điểm mới của chỉ số
này là nó được xây dựng trên
ba cấu phần dễ diễn giải và
có giá trị tham khảo cho quá
trình xây dựng chính sách.
Tăng cường mức độ sở hữu và
sử dụng tài khoản là một trong
các biện pháp quan trọng để
phát triển tài chính bao trùm
do hầu hết các dịch vụ tài
chính chính thức đều gắn với
việc sở hữu và sử dụng tài
khoản. Mức độ phổ biến của
tài khoản còn được đo lường
bởi phần trăm người lớn có
thẻ tín dụng ghi nợ và ghi có.
Tuy nhiên, sở hữu tài khoản
không phản ánh được mức độ
sử dụng tài khoản. Mức độ
sử dụng tài khoản cho phép
người nắm giữ hưởng lợi tối
đa từ tài chính bao trùm thông
qua gửi tiền hoặc rút tiền
trong khi thẻ ghi nợ, thẻ tín
dụng cho phép họ thanh toán
các khoản chi tiêu. Do vậy, để
đo lường cấu phần tài khoản,
chúng tôi sử dụng 6 chỉ báo:
tài khoản (tài khoản, % tuổi từ
15 trở lên), gửi tiền (gửi tiền
trong năm vừa rồi, tại tổ chức
tài chính, tuổi từ 15 trở lên),
rút tiền (rút tiền trong năm
vừa rồi, tại tổ chức tài chính,
tuổi từ 15 trở lên), thẻ ghi nợ
(sở hữu thẻ ghi nợ, % tuổi từ
15 trở lên), thẻ tín dụng (sở
hữu thẻ tín dụng, % tuổi từ 15
trở lên), và sử dụng thẻ (sử
dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ tín
dụng trong năm vừa rồi, %
tuổi từ 15 trở lên).
Chúng tôi nhận định sự phổ
biến của các phương thức
thanh toán không dùng tiền
mặt là sự phản ánh sự phát
triển của tài chính bao trùm.
Chuyển dịch từ thanh toán
tiền mặt như trả hóa đơn,
nhận tiền lương, thanh toán
từ chính phủ sang sử dụng tài
khoản sẽ mang lại những lợi
ích cho người sử dụng. Chúng
tôi sử dụng 3 chỉ báo: thanh
toán hóa đơn (thanh toán hóa
đơn qua tài khoản, % người
thanh toán, tuổi từ 15 trở lên),
nhận thanh toán từ chính phủ
(nhận thanh toán từ chính phủ
qua tài khoản, % người nhận,
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
45Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
tuổi từ 15 trở lên), nhận lương
(nhận lương qua tài khoản,
% người nhận, tuổi từ 15 trở
lên). Chúng tôi sử dụng cả chỉ
số thanh toán số (nhận hoặc
chuyển tiền thanh toán số
trong năm vừa rồi, % tuổi từ
15 trở lên) để xem xét cả lợi
ích từ việc chuyển từ thanh
toán tiền mặt sang thanh toán
số. Giảm chi phí, tăng tốc độ
thanh toán, bảo đảm an toàn
và minh bạch là những lợi ích
tiềm năng có thể nhận thấy.
Tiết kiệm tiền và vay tiền từ
các tổ chức tài chính chính
thức có vai trò quan trọng
trong phổ biến tài chính bao
trùm. Chúng tôi sử dụng hai
chỉ báo: vay (vay từ tổ chức
tài chính hoặc sử dụng thẻ tín
dụng, % tuổi từ 15 trở lên) và
tiết kiệm (gửi tiền tại tổ chức
tài chính, % tuổi từ 15 trở lên)
để đo lường cách thức người
lớn sử dụng các dịch vụ tài
chính để tiết kiệm cho tương
lai hoặc giải quyết các thiếu
hụt tài chính tại thời điểm
hiện tại.
3.2. Phương pháp
Chúng tôi áp dụng phương
pháp phân tích thành phần
chính hai giai đoạn của
Cámara và Tuesta (2014) để
tính các cấu phần và chỉ số
tài chính bao trùm. Như đã
phân tích ở trên, tài chính bao
trùm được xác định thông
qua nhiều chỉ báo và được giả
định tồn tại một cấu trúc cơ sở
ẩn sau một nhóm các chỉ báo
có mối quan hệ tương quan
cao. Tài chính bao trùm có thể
được trình bày dưới dạng sau:
FIIi = ω1Yia + ω2Yip + ω3Yib&s
(1)
Trong đó, i chỉ các nước, (Yia,
Yip, Yib&s) đại diện cho các cấu
phần tài khoản, thanh toán,
vay và gửi.
Phân tích thành phần chính
giai đoạn 1 đo lường các biến
số (Yia, Yip, Yib&s) và các thông
số của 3 phương trình sau:
Yia = α1accounti + α2depositi +
α
3
withdrawli + α4debit cardi +
α
5
credit cardi + α6card usagei
(2)
Yip = β1paid utility billsi +
β2paid utility billsi + β3paid
utility billsi + β4paid utility
billsi (3)
Yib&s = γ1borrowi + γ2savei (4)
Rp,(p×p) là ma trận tương
quan của p chỉ báo đối với
mỗi cấu phần. λ
j
(j=1,,m)
là giá trị eigenvalue thứ j,
trong đó j là số lượng thành
phần chính tương ứng với số
lượng chỉ báo p. φ
j
(p×1) là
eigenvector của ma trận tương
quan. Đối với mỗi cấu phần,
chúng tôi giả định λ
1
> λ2 >
> λm và gọi Pk (k=1,,m) là
cấu phần thứ k. Mỗi cấu phần
được tính như sau:
Ya = ∑m λa P a (∑
m
λ
a )-1 (5)i j,k=1 j ki j=1 j
Y
p
= ∑
m
λ
p P p (∑
m
λ
p)-1 (6)i j,k=1 j ki j=1 j
Y
b&s
=∑
m
λ
b&s
P
b&s
(∑
m
λ
b&s
)-1i j,k=1 j ki j=1 j
(7)
Trong đó P
k
= λmX. λm là
phương sai của cấu phần thứ
m và X là ma trận các chỉ báo.
Do tỷ trọng của mỗi cấu phần
giảm dần, phần lớn sự biến
động của cấu phần được giải
thích bởi thành phần chính
đầu tiên và giảm dần theo thứ
tự cấu phần tiếp theo. Mặc dù
thông lệ là thay thế toàn bộ
các biến số bằng một vài cấu
phần chính ban đầu, chúng tôi
sử dụng tất cả các cấu phần
chính để ghi nhận toàn bộ
100% sự biến động của các
chỉ số.
Sau khi tính được chỉ số riêng
cho ba cấu phần, chúng tôi sử
dụng phương pháp phân tích
thành phần chính giai đoạn
hai tính tỷ trọng cho từng cấu
phần để tính chỉ số tài chính
bao trùm.
FII = ∑
m
λ P (∑
m
λ )-1 (8)i j,k=1 j ki j=1 j
Trong đó FIIi là chỉ số tài
chính bao trùm tổng quát cho
nước i. P
k
= λmX. λm là phương
sai của cấu phần thứ m và X
là ma trận các chỉ báo. Chúng
tôi tiếp tục sử dụng tất cả các
cấu phần chính để ghi nhận
toàn bộ 100% sự biến động
của các chỉ số. Sau khi biến
đổi, chúng tôi viết mỗi cấu
phần P
ki
dưới dạng sau:
P
1i
= φ
11
Yia + φ12Yip + φ13Yib&s
(9)
P2i = φ21Yia + φ22Yip + φ23Yib&s
(10)
P
3i
= φ
31
Yia + φ32Yip + φ33Yib&s
(11)
Chỉ số tài chính bao trùm tổng
quát được trình bày lại dưới
dạng sau:
FII = ∑
3
λ
j
(φ
j1
Y a + φ
j2
Y
p
+i j=1 i i
+ φ
j3
Y
b&s
)(∑
3
λ )-1 (12)i j=1 j
Chúng tôi có thể trình bày chỉ
số tài chính bao trùm tổng
quát dưới dạng bình quân có
trọng số với là tỷ trọng mỗi
cấu phần như sau:
w = ∑
3
λ
j
φ
jk
(∑
3
λ )-1 (13)k j=1 j=1 j
3.3. Dữ liệu
Chúng tôi sử dụng dữ liệu Tài
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
46 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 200+201- Tháng 1&2. 2019
chính bao trùm toàn cầu năm
2014 và 2017 của WB. Chỉ
các quốc gia có dữ liệu cả hai
năm 2014 và 2017 được lựa
chọn. Việc lựa chọn này khiến
số lượng quốc gia được lựa
chọn giảm từ hơn 140 nước
xuống còn 95 nước. Ma trận
tương quan các chỉ báo được
trình bày tại Bảng 1.
4. Kết quả và thảo luận
Tại bước phân tích thành phần
chính thứ nhất, chúng tôi tính
tỷ trọng cho các chỉ báo trong
từng cấu phần tài khoản, thanh
toán, vay và gửi. Kết quả tính
toán các cấu phần này có giá
trị đối với những người làm
chính sách. Bảng 2 trình bày
eigenvectors, eigenvalues,
và tỷ trọng đối với từng cấu
phần. Nhìn chung, tỷ trọng
và mức độ giải thích sự biến
động của từng thành phần khá
ổn định qua hai năm 2014 và
2017.
Đối với cấu phần tài khoản,
chỉ báo gửi và rút tiền có tỷ
trọng cao nhất (0,19), theo sau
là sử dụng thẻ ghi nợ hoặc thẻ
tín dụng (0,17), sở hữu thẻ tín
dụng (0,16), sở hữu thẻ ghi
nợ (0,15) và sở hữu tài khoản
(0,14). Mặc dù tỷ trọng các
chỉ báo không đồng đều hoàn
toàn, không có chỉ báo nào
chiếm tỷ trọng quá lớn. Đây
là một điều kiện tốt khi xây
dựng chỉ số. Cần chú ý rằng,
chỉ báo sở hữu tài khoản vốn
được sử dụng nhiều trong các
nghiên cứu về tài chính bao
trùm lại chứa ít thông tin hơn
các chỉ báo khác.
Đối với cấu phần thanh toán,
tỷ trọng của thanh toán số,
trả hóa đơn và trả lương khá
tương đồng, lần lượt là 0,24,
0,25, và 0,23, thấp hơn mức tỷ
trọng của nhận thanh toán từ
chính phủ là 0,28. Phần cuối
của Bảng 2 chỉ ra tỷ trọng của
việc gửi tiền vào tổ chức tài
chính cao hơn so với tỷ trọng
vay từ tổ chức tài chính, 0,54
so với 0,46.
Đối với cấu phần tài khoản,
thành phần thứ nhất giải thích
tới 83% các thông tin trong
cấu phần, có mức độ phân bổ
khá đồng đều đối với cả 6 chỉ
báo (từ mức 0,37 tới 0,44).
Kết quả này cho thấy cả 6 chỉ
báo đều đo lường cùng một
cấu trúc ẩn giống nhau. Các
chỉ báo về gửi và rút tiền cung
cấp thêm thông tin trong thành
phần thứ hai trong khi sở hữu
thẻ tín dụng cung cấp thêm
thông tin trong thành phần thứ
ba. Bảng 3 cũng cho thấy sự
đồng đều trong 4 chỉ báo (từ
mức 0,46 tới 0,53) trong thành
phần thứ nhất. Tuy nhiên, chỉ
báo thanh toán từ chính phủ
và thanh toán hóa đơn qua tài
khoản có vai trò quan trọng
hơn khi đóng góp thêm thông
tin trong thành phần thứ hai
và thứ ba. Cuối cùng, chỉ
báo gửi và vay tại tổ chức tài
chính đóng góp khá đồng đều
trong thành phần thứ nhất,
giải thích tới 92% sự biến
động của cấu phần này.
Tại bước thứ hai của phân tích
thành phần chính, chúng tôi
áp dụng phương pháp giống
với khi tính toán các cấu phần
của tài chính bao trùm. Bảng
5 trình bày các thành phần của
chính và tỷ trọng của mỗi cấu
phần. Cấu phần gửi và vay
chiếm tỷ trọng cao nhất trong
giải thích sự biến động của
tài chính bao trùm (0,36), tiếp
theo sau là tài khoản và thanh
toán (0,32 và 0,31). Tuy vậy,
sự khác biệt giữa các cấu phần
là không đáng kể. Vì vậy, để
có thể cải thiện tài chính bao
trùm, chính sách cần được
thiết kế và thực hiện đồng đều
giữa cả ba cấu phần.
Khi phân tích thành phần
chính, thành phần thứ nhất
giải thích tới 90% sự biến
động của dữ liệu và có sự
phân bổ đồng đều giữa cả ba
cấu phần. Gửi và vay tại tổ
chức tài chính cung cấp thêm
thông tin thông qua thành
phần thứ hai, và do đó, có ý
nghĩa quan trọng hơn trong
việc giải thích chỉ số tài chính
bao trùm tổng thể (Bảng 6).
Bảng 4 và 7 trình bày thứ tự
xếp hạng của các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu theo
các cấu phần và chỉ số tài
chính bao trùm tổng thể trong
năm 2017. Tại bảng 7, cột thứ
hai cho biết mức độ thay đổi
trong thứ tự xếp hạng giữa
năm 2017 và 2014. Một số
điểm đáng chú ý như sau: Các
quốc gia phát triển có mức
độ tài chính bao trùm và các
cấu phần của nó cao hơn so
với các nước đang phát triển.
Các quốc gia phát triển cũng
có mức độ ổn định trong mức
độ tài chính bao trùm so trong
giai đoạn từ 2014 đến 2017.
Đối với chỉ số tài chính bao
trùm tổng thể, phần tư thứ
nhất chủ yếu là các quốc gia
đến từ Châu Âu, Bắc Mỹ, trừ
bốn quốc gia châu Á là Hàn
Quốc, Nhật Bản, Singapore,
và Hồng Kông. Phần tư thứ
hai tiếp tục bao gồm các nước
CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
47Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 200+201- Tháng 1&2. 2019
từ Châu Âu còn lại và ba quốc
gia Tây Á xuất khẩu dầu mỏ
là Các tiểu vương quốc Ả
Rập Thống nhất, Bahrain, và
Kuwait, bốn quốc gia Châu
Á là Đài Loan, Mongolia,
Malaysia, và Trung Quốc. Có
hai trường hợp đáng chú ý tới
từ Châu Phi là Namibia và
Mauritius. Một vài quốc gia
Đông và Nam Âu như Serbia,
Bulagria, Nga, U