Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và
tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến
lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7
tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và
21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử
thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ
lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67%
(2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình
Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài
chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công
cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững
ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo
này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại
các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học
cho Việt Nam.
15 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
65
© Học viện Ngân hàng
ISSN 1859 - 011X
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng
Số 204- Tháng 5. 2019
Xây dựng hệ thống Tài chính xanh- Kinh nghiệm
một số nước trên thế giới và bài học cho Việt Nam
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Trần Thị Xuân Anh
Nguyễn Thị Lâm Anh
Ngô Thị Hằng
Trần Anh Tuấn
Ngày nhận: 02/05/2019 Ngày nhận bản sửa: 09/05/2019 Ngày duyệt đăng: 17/05/2019
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thời kỳ 2011- 2020 và
tầm nhìn đến năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
23/9/2012 theo Quyết định số 1393/QĐ-TTg. Để tài trợ cho chiến
lược này, theo đánh giá của GIZ (2016), Việt Nam cần ít nhất 30,7
tỷ USD trước năm 2020, tương đương 15% GDP trong năm 2015 và
21,2 tỷ USD cho giai đoạn từ năm 2012 đến 2030. Đây là một thử
thách lớn cho nền kinh tế và hệ thống tài chính của Việt Nam do tỷ
lệ thâm hụt ngân sách ở mức khá cao 6,1% GDP (2015) và 3,67%
(2018). Do vậy, một trong những mục tiêu chính của Chương trình
Cải cách Kinh tế vĩ mô/Tăng trưởng xanh là cải cách khu vực tài
chính nhằm thiết lập hệ thống Tài chính xanh (TCX), tạo ra các công
cụ và sản phẩm tài chính để huy động vốn cho sự phát triển bền vững
ở Việt Nam. Để làm được điều này, việc học hỏi kinh nghiệm của các
nước trong khu vực và trên thế giới là cần thiết. Chính vì vậy bài báo
này sẽ nghiên cứu kinh nghiệm xây dựng hệ thống tài chính xanh tại
các nước Ấn Độ, Singapore và Hàn Quốc để rút ra những bài học
cho Việt Nam.
Từ khoá: Kinh tế xanh, Tài chính xanh, phát triển bền vững, Hệ
thống Tài chính xanh
1. Cơ sở luận
ài chính xanh (Green
finance) là thuật ngữ
ra đời gắn với sự phát
triển của xu hướng Kinh tế
xanh (Green Economy) trên
thế giới trong những thập kỷ
gần đây. Các nhà nghiên cứu
quan niệm TCX sẽ là sự kết
hợp các công nghệ mới, sản
phẩm và dịch vụ tài chính với
nâng cao hiệu quả năng lượng,
giảm phát thải chất ô nhiễm
để hỗ trợ tăng trưởng Kinh tế
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
66 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
xanh theo hướng carbon thấp
(Rakić và Mitić, 2012).
Để hiểu rõ về TCX và phạm
vi của TCX, các nhà nghiên
cứu cũng đã làm rõ sự khác
biệt giữa Tài chính bền
vững (Sustainable finance);
Tài chính môi trường
(Environmental finance); Tài
chính carbon (Carbon finance)
và Tài chính biến đổi khí hậu
(climate finance) với TCX
(Noh, Hee Jin. 2018).
Cụ thể, Tài chính bền vững
nhằm mục tiêu tạo ra giá trị
kinh tế và xã hội thông qua
các mô hình tài chính, sản
phẩm và thị trường bền vững
theo thời gian. Tài chính bền
vững tính đến các khoản đầu
tư mở rộng hơn và toàn diện
hơn, xem xét không chỉ khía
cạnh môi trường, mà cả khía
cạnh xã hội và các vấn đề
quản trị.
Tài chính môi trường là tài
chính và đầu tư liên quan đến
môi trường sinh thái (không
khí, nước, đất,). Tài chính
môi trường coi thiệt hại môi
trường là rủi ro tài chính, theo
đó, các dự án gây tổn hại hoặc
có khả năng gây hại cho môi
trường đều bị cấm tài trợ hoặc
không được nhận tài trợ. Khái
niệm này rộng hơn TCX ở chỗ
nó tập trung vào bảo vệ môi
trường, có thể không đóng
góp cho tăng trưởng kinh tế.
Tài chính carbon cung cấp
tài chính cho một dự án nhằm
giảm lượng khí thải carbon
dioxide và khí thải nhà kính
(GHG) khác. Thông qua thị
trường giao dịch khí thải, Tài
chính carbon có thể được thiết
kế theo những cách linh hoạt
trong thị trường giao ngay và
phái sinh. Ngoài ra, thông qua
một quỹ carbon, đầu tư cho thị
trường giao dịch phát thải có
thể được thực hiện.
Tài chính biến đổi khí hậu
được xem là một khía cạnh
của TCX, tập trung vào các
nguồn tài chính đầu tư vào các
chương trình hành động nhằm
giảm thiểu và thích ứng với
các tác động của biến đổi khí
hậu. Tuy nhiên, Tài chính biến
đổi khí hậu không hoàn toàn
giống với TCX, vì nó không
tính đến các rủi ro môi trường
hoặc các mục tiêu phát triển.
Theo đó, TCX bao trùm nhiều
chủ đề liên quan đến các hoạt
động phát triển môi trường
bền vững hơn so với Tài chính
biến đổi khí hậu.
Như vậy, TCX có thể được
hiểu là tài chính phục vụ cho
sự phát triển bền vững của
toàn xã hội. TCX bao gồm các
dịch vụ tài chính, thể chế, các
sáng kiến và chính sách quốc
gia, và các sản phẩm tài chính
(nợ, vốn chủ sở hữu, bảo
hiểm, và tài sản đảm bảo);
được thiết kế để thúc đẩy các
hoạt động bảo vệ môi trường,
giảm thiểu và thích ứng với
biến đổi khí hậu, nâng cao
hiệu quả trong bảo tồn nguồn
vốn tự nhiên và huy động các
nguồn lực.
Nghiên cứu của Volz (2018)
đã gợi ý hệ thống tài chính
cho phát triển Kinh tế xanh
bao gồm các trụ cột chính:
Các sản phẩm TCX; Các định
chế TCX; Thị trường TCX và
Quỹ khí hậu xanh. Đây cũng
chính là khung tài chính được
khuyến nghị để các nước căn
cứ vào đó xây dựng chiến
lược và đề xuất giải pháp huy
động các nguồn tài chính cho
mục tiêu phát triển Kinh tế
xanh.
(1) Các sản phẩm Tài chính
xanh (Green financial
products)
Các công cụ huy động tài
chính cho phát triển Kinh tế
xanh, hay các kênh Tài chính
xanh chính chủ yếu gồm có:
(i) Công cụ vốn: Quỹ đầu tư
vốn mạo hiểm, Gọi vốn cộng
đồng, ETF...; (ii) công cụ
nợ: Tín dụng xanh, trái phiếu
xanh, trái phiếu chính quyền
địa phương, nợ chuyển đổi;
(iii) công cụ phái sinh: sản
phẩm phái sinh giảm thiểu
rủi ro, bảo hiểm, công cụ
hoán đổi; và (iv) Quỹ tài
trợ xanh: hỗ trợ kỹ thuật, quỹ
khí hậu, trợ cấp hoặc các quỹ
chìm.
(2) Các định chế Tài chính
xanh (Green financial
institutions)
Để cung ứng hiệu quả các sản
phẩm TCX nêu trên không thể
không nói đến vai trò của các
định chế tài chính. Theo Volz
(2018), các định chế tài chính
tham gia vào lĩnh vực TCX
có thể chia thành hai nhóm:
nhóm thứ nhất là các định chế
tài chính truyền thống phát
triển và mở rộng sang các
sản phẩm TCX; nhóm thứ hai
là các định chế TCX thuần
tuý (“Green-only” financial
institutions). Định chế TCX
thuần tuý được biết đến đầu
tiên là Ngân hàng Đầu tư
Xanh (GIB- Green Investment
Bank) được thành lập tại Anh
nhằm hỗ trợ vốn đầu tư xanh
cho Chính phủ. Mục tiêu của
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
67Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
GIB là tăng hiệu quả của mô
hình đầu tư công và tư nhân,
giảm thiểu những thất bại của
thị trường trong việc điều tiết
luồng vốn cho tăng trưởng
xanh. GIB huy động vốn
thông qua các chiến lược thu
hút vốn từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm, sau đó hỗ trợ vốn đầu
tư vào các dự án, chương trình
phát triển Kinh tế xanh của
cả tư nhân và Chính phủ. Đặc
biệt, GIB cố gắng hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cải
thiện chất lượng công nghệ
sạch, xanh hướng tới thân
thiện với môi trường (Noh,
Hee Jin. 2018).
(3) Thị trường Tài chính xanh
(Green financial market)
Thông qua các thị trường
TCX, nguồn vốn được huy
động cho các doanh nghiệp
đầu tư xanh, thúc đẩy ngành
kinh tế chuyển dịch theo
hướng xanh hóa và hướng tới
sự phát triển bền vững của
nền kinh tế. Cơ bản hiện nay,
thị trường TCX phát triển
gồm: (i) Thị trường carbon:
Mua bán phát thải carbon hay
giới hạn và giao dịch carbon
là một dạng của mua bán phát
thải, nhằm vào lượng phát thải
carbon (tính theo đơn vị tấn
hay đơn vị tương đương lượng
khí thải CO
2
). (ii) Thị trường
chứng khoán xanh: gồm thị
trường cổ phiếu, trái phiếu và
chỉ số chứng khoán xanh. Thị
trường chứng khoán Nasdaq
là thị trường tiên phong trong
việc xây dựng và công bố cổ
phiếu xanh và bộ chỉ số chứng
khoán xanh trong lĩnh vực
năng lượng sạch được biết đến
như các “chỉ số xanh”. “Chỉ
số xanh” gồm những cổ phiếu
của các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực phát triển
kinh tế trên nền tảng giảm
phát thải carbon.
(4) Các Quỹ khí hậu xanh
(GCF- Green Climate Fund)
Biến đổi khí hậu đe dọa sự
bền vững của trái đất và gây
ra thiệt hại kinh tế lớn, và do
tính cấp bách và nghiêm trọng
của biến đổi khí hậu, mục đích
của GCF là đóng góp đáng kể
vào các nỗ lực toàn cầu nhằm
đạt được các mục tiêu mà
cộng đồng quốc tế đặt ra để
đối phó với biến đổi khí hậu.
So với các chương trình tài
chính khí hậu khác, GCF có
tiềm năng phát triển thành một
cơ chế có thể vận hành toàn
diện và có hệ thống quỹ biến
đổi khí hậu lớn nhất thế giới,
và nếu thành công, quy mô
của quỹ sẽ rất đáng kể (Noh,
Hee Jin. 2018).
Để xây dựng được hệ thống
TCX nói trên, nghiên cứu
của Hee Jin Noh (2014a) cho
rằng Chính phủ cần đóng vai
trò quan trọng trong việc hỗ
trợ tài chính cho ngành công
nghiệp xanh ở giai đoạn đầu
kinh doanh. Tuy nhiên, các
Chính phủ có những hạn chế
về ngân sách và hệ thống làm
việc không hiệu quả, do đó
việc tài trợ liên tục và hiệu
quả từ các Chính phủ là khó
khả thi. Chính vì vậy, các
Chính phủ nên giới thiệu và
khuyến khích đầu tư quỹ tư
nhân vào các ngành công
nghiệp xanh. Hơn nữa, từ góc
độ tài chính tư nhân, tài trợ
nợ từ ngân hàng không phải là
một hình thức đầu tư tư nhân
thích hợp. Điều này là do các
ngân hàng chịu trách nhiệm
thanh toán cho các khoản tiền
gửi tiết kiệm của người dân,
có nghĩa là họ không thể đầu
tư vào các dự án, công cụ đầu
tư có rủi ro cao. Do đó, hệ
thống TCX đòi hỏi nhiều loại
công cụ tài chính và Chính
phủ nên tạo ra môi trường và
hệ thống thị trường vốn để hỗ
trợ TCX. Có hai cách tiếp cận
để phát triển đầu tư tư nhân
vào Kinh tế xanh:
Một là, thiết lập một thị
trường đầu tư xanh thông qua
đầu tư tư nhân. Ở giai đoạn
ban đầu, đầu tư công là cần
thiết bởi vì ở giai đoạn này,
đầu tư tư nhân không khả thi
do có rủi ro cao. Sau khi hình
thành và thương mại hóa thị
trường xanh, đầu tư tư nhân
có động lực để tự phát triển
trên thị trường xanh.
Hai là, tìm kiếm sự hợp tác
công tư, chẳng hạn như mô
hình Quỹ của Quỹ (Fund of
fund của Hàn Quốc) và mô
hình Yozma (Israel).
2. Nghiên cứu kinh nghiệm
một số nước trên thế giới
2.1. Hàn Quốc
Chính phủ Hàn Quốc chính
thức đưa ra Kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất về Tăng trưởng
xanh vào năm 2009- một
chương trình mang tính hệ
thống và hiệu quả hướng tới
Chiến lược Tăng trưởng xanh
của Quốc gia, và Chính phủ
sau đó cũng đã công bố kế
hoạch 4 năm lần thứ 2 vào
năm 2014. Chương trình
hành động gần đây nhất là
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
68 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
Kế hoạch chủ động chuẩn bị
trước biến đổi khí hậu, được
công bố vào tháng 12/2016.
Để hỗ trợ thực hiện và đạt
được mục tiêu của các chương
trình hành động phòng, chống
biến đổi khí hậu ở trên, hệ
thống TCX tại Hàn Quốc đã
và đang được khuyến khích,
thúc đẩy và phát triển theo các
trụ cột chính sau:
(1) Các quỹ tài trợ bảo vệ môi
trường
Quỹ Khí hậu xanh hay quỹ
Bảo vệ môi trường được
biết đến với tên gọi Quỹ môi
trường Nhà nước (State-
owned enviromental fund) tại
Hàn Quốc. Thông qua quỹ
này, Bộ Môi trường Hàn Quốc
sẽ thực hiện cấp các khoản tín
dụng cho ngành công nghiệp
môi trường gồm năng lượng
mới và năng lượng tái tạo.
Khoản vay, kỳ hạn vay, hạn
mức vay cho từng công ty
thay đổi theo mục đích của
khoản vay. Kênh tín dụng này
được xem như một kênh huy
động vốn hấp dẫn đối với các
công ty bởi lãi suất vay thấp
hơn so với lãi suất vay từ các
khoản tín dụng thông thường.
Quy trình đánh giá tín dụng
được thực hiện cẩn trọng sau
khi kiểm tra tính hợp lệ của
hồ sơ vay, sau đó các công ty
đủ điều kiện sẽ được vay từ
quỹ. Tuy nhiên, hỗ trợ từ phía
Chính phủ chỉ dưới hình thức
cho vay, không phải là đầu tư.
Do đó, Bộ Môi trường có thể
nên cân nhắc hình thức hỗ trợ
thông qua đầu tư để chủ động
khuyến khích, tăng cường
công tác quản lý môi trường
của các doanh nghiệp (Oh,
2018).
Ngoài ra, Chính phủ cung cấp
các khoản hỗ trợ tài chính,
khoản vay không từ nguồn
Quỹ môi trường nhà nước,
cho các đơn vị sẵn sàng lắp
đặt và sử dụng các thiết bị tạo
ra năng lượng tái tạo và các
đơn vị sản xuất các thiết bị
năng lượng tái tạo. Chính phủ
cung cấp các khoản vay lãi
suất thấp cho việc lắp đặt thiết
bị, sản xuất, và vận hành. Quy
mô của khoản hỗ trợ tài chính
này là 100 tỷ won vào năm
2016, trong đó 92,2 tỷ won
dành cho việc lắp đặt các thiết
bị và 7,8 tỷ won trong việc
sản xuất xanh và vận hành.
Tổng quy mô của các khoản
trợ cấp Chính phủ cho ngành
năng lượng tái tạo đã lên tới
1,8 nghìn tỷ won (55.084 dự
án) (KEA, 2017; Oh, 2018).
Chính phủ cũng hỗ trợ tài
chính cho các công trình nhà
ở và nhà cao tầng xanh. Nhà
ở xanh là những ngôi nhà
thân thiện với môi trường, sử
dụng ít năng lượng, tối thiểu
hoá nhu cầu sử dụng nhiên
liệu hoá thạch cũng như tối
thiểu hoá việc tạo ra GHGs
và các nguyên, nhiên liệu gây
ô nhiễm môi trường, thông
qua việc tăng cường sử dụng
các nguồn năng lượng mới
và nguồn năng lượng tái tạo
như điện năng lượng mặt trời
Bảng 1. Các khoản vay từ Quỹ môi trường nhà nước
Nội dung cho vay Lãi suất vay Kỳ hạn khoản vay Hạn mức vay/ công ty (Tỷ won)
Tài trợ phát triển
ngành công nghiệp
môi trường
Cố định
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 4 năm
- Kỳ hạn trả chậm: 2 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 3 năm
3
1
0,5
0,5
Quỹ cải thiện vấn đề
môi trường Cố định
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 4 năm
5
Tài trợ phát triển
ngành công nghiệp tái
chế
Linh hoạt, thay
đổi theo quý
- Kỳ hạn trả chậm: 3 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 7 năm
- Kỳ hạn trả chậm: 2 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 3 năm
2,5
1
0,5
0,5
Tài trợ lắp đặt thiết bị
tạo khí gas tự nhiên
Linh hoạt, thay
đổi theo quý
- Kỳ hạn trả chậm: 5 năm
- Kỳ hạn thanh toán: 10 năm
3
Lưu ý: Kỳ hạn trả chậm (deferment period)- giai đoạn mà bên đi vay không phải trả lãi và hoàn trả bất kỳ
phần gốc nào cho bên cho vay
Nguồn: Oh (2018) và loan.keiti.re.kr (truy cập ngày 12/12/2017)
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
69Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 204- Tháng 5. 2019
(solar photovoltaic), nhiệt
năng lượng mặt trời (solar
thermal), năng lượng địa nhiệt
(geothermal),(Oh, 2018).
(2) Định chế Tài chính xanh
Bên cạnh việc xây dựng các
quỹ tài trợ môi trường, Hàn
Quốc cũng khuyến khích các
tổ chức, định chế tài chính
trong và ngoài nước tham gia
vào lĩnh vực TCX. Ngay từ
khi kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất về Tăng trưởng xanh
được ban hành, đã có 8 định
chế tài chính tham gia cung
cấp sản phẩm tín dụng xanh,
trong đó có các ngân hàng
chính như Woori Bank, KB,
Korea EXIM bank và con số
này vẫn tiếp tục gia tăng qua
các năm (Noh 2009, 2010).
Các định chế tài chính khác,
đặc biệt là các công ty tài
chính trong nước như Tập
đoàn Tài chính Shinhan, Tập
đoàn Tài chính KB và Công
ty Quản lý tài sản KDB, đã
nỗ lực thành lập các quỹ đầu
tư để tài trợ cho các dự án
về nguồn năng lượng mới và
năng lượng tái tạo, đặc biệt là
khi Chính phủ đang cố gắng
gia tăng thị phần của nguồn
năng lượng mới và năng lượng
tái tạo (tới 20%) trong tổng
nguồn năng lượng quốc gia,
đồng thời hạn chế và giảm
thiểu việc sử dụng nguồn năng
lượng hạt nhân. Ngoài ra, mô
hình huy động vốn TCX cho
các dự án xanh thông qua các
quỹ đầu tư được triển khai và
phát triển rất mạnh tại Hàn
Quốc. Tới năm 2017, Quỹ
Hưu trí nhà nước (National
Pension Service- NPS) đã đầu
tư 200 tỷ won vào hai quỹ đầu
tư vốn tư nhân xanh (Green
Private Equity Funds- PEFs)
để đầu tư vào các cơ sở hạng
tầng xanh nội địa như các nhà
máy điện năng lượng tái tạo,
các thiết bị xử lý rác thải;
Hiệp hội Hỗ trợ Kỹ sư và
Nghiên cứu Hàn Quốc (Korea
Scientits and Engineers
Bảng 2. Hỗ trợ tài chính cho ngành năng lượng tái tạo
Mục đích Hạn mức vay
(tỷ won)
Kỳ hạn vay Tỷ lệ hỗ trợ
Sản xuất xanh và
thiết bị xanh
10 - Kỳ hạn vay trả chậm: 5 năm
- Kỳ hạn vay thanh toán trong nhiều kỳ: 10 năm
SME: 90%
Công ty trung
gian: 70%
Công ty lớn:
40% (tối đa)
Rác thải và sinh học 10 - Kỳ hạn trả chậm: 5 năm
Thiết bị gia đình 0.1 - Kỳ hạn thanh toán trong nhiều kỳ: 10 năm
Vận hành 1 - Kỳ hạn vay trả chậm: 1 năm
- Kỳ hạn vay thanh toán trong nhiều kỳ: 2 năm
Nguồn: Oh (2018)
Bảng 3. Thống kê các định chế tài chính Hàn Quốc tham gia vào các Chương trình Tài chính
xanh quốc tế
Thoả
thuận
Số tổ chức tham gia ký kết
Quốc tế Hàn Quốc
2008 2009 2008 2009 Đơn vị tham gia chính
GRI
Reporting > 960 tổ chức 1290 35 53
Asiana, Hyundai Motors, KDB, Korea Land
Corporation
UNEP/FI 176 định chế tài chính 180 8 8 Woori Bank, KB, Korea EXIM Bank
UN PRI > 524 tổ chức 697 9 14 Mirae Asset Global Investment, NH-CA Asset Management, Eco-Frontier
UN Global
Compact 6.500 tổ chức 7.500 151 169 IBK, Daewoo Securities, KDB, Woori Bank
CDP 475 định chế tài chính 534 15 16 Mirae Asset Global Investment, KB, KDB Asset
Nguồn: Noh (2009, 2010)
THỰC TIỄN & KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàngSố 204- Tháng 5. 2019
Mutual-Aid Association-
SEMA) đã đầu tư 40 tỷ won
vào một quỹ đầu tư xanh có
NPS là nhà đầu tư lớn nhất
(Oh, 2018).
(3) Thị trường Tài chính
xanh
Thị trường trái phiếu xanh:
Khác với các quốc gia đã
thực hiện phát hành trái phiếu
xanh, trái phiếu xanh tại Hàn
Quốc không phải là trái phiếu
Chính phủ (thậm chí, tháng
3/2018, Bộ Tài chính và Chiến
lược Hàn Quốc cũng đã tuyên
bố hiện chưa có kế hoạch phát
hành trái phiếu xanh Chính
phủ), mà là trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu phát hành
đại chúng tài trợ cho các dự
án môi trường hoặc năng
lượng tái tạo, vì vậy quy mô
vốn thường tương đối nhỏ.
Các định chế tài chính công
đóng vai trò quan trọng trong
việc phát hành trái phiếu xanh
thu hút nguồn lực tài chính
cho nhiều dự án xanh. Trong
khối tư nhân, công ty tài chính
Huyndai (Huyndai Capital)
cũng đã phát hành 500 triệu
USD trái phiếu xanh nhằm
tài trợ tài chính cho việc mua
các phương tiện sử dụng động
cơ hybrid vào năm 2016; Tập
đoàn quốc tế Hanjin (Hanjin
International Corporation)
cũng đã phát hành 300 triệu
USD trái phiếu xanh vào
năm 2017 để đầu tư vào các
công trình thân thiện với môi
trường (Sáng kiến trái phiếu
khí hậu, 2018). Thêm vào
đó, trái phiếu xanh tại Hàn
Quốc đang phát triển theo xu
hướng mở rộng mức độ bao
phủ từ góc độ phát hành trái
phiếu xanh phục vụ cho các
hoạt động, công tác, dự án
môi trường sang tài trợ tài
chính cho các công tác, không
chỉ môi trường, mà còn là xã
hội và quản trị. Do đó trái
phiếu xanh tại Hàn Quốc còn
được coi là trái phiếu ESG
(Environment, social, and
governance).
Thị trường giao dịch phát
thải: Chính phủ Hàn Quốc
chính thức triển khai thực
hiện Chương trình Giao dịch
phát thải (Emission Trading
Scheme- ETS) vào tháng
01/2015 hướng tới việc giảm
thiểu GHGs một cách hiệu
quả tại các ngành nghề khác
nhau trong nền kinh tế. Theo
Luật Giao dịch phát thải (ETS
act) được ban hành và có hiệu
lực vào năm 2012, các công
ty có mức độ phát thải GHG
bình quân 3 năm vượt 25.000
tấn CO
2
(tCO
2
e) sẽ được chỉ
định là đối tượng ETS (ETS
objects)- đơn vị tham gia
chương trình giao dịch phát
thải. Tính tới tháng 01/2015,
525 công ty thuộc 25 ngành
tham gia hệ thống giao dịch
phát thải với vai trò đối tượng
ETS, và con số này đã đạt 549
vào tháng 01/2017 (Kim &
Shim, 2017). Bộ Tài chính và
Chiến lược Hàn Quốc thường
tái phân bổ lượng phát thải
GHG cho các chủ thể tham gia
Chương trình Giao dịch phát
thải theo định kì 5 năm một
lần dưạ trên tổng lượng khí
thải GHG trong 5 năm. Theo
Oh (2018), trên thị trường
giao dịch phát thải Hàn Quốc,
giá của mỗi đơn vị hạn mức
phát thải (Korean Allowance
Unit- KAU) đã tăng khoảng
Bảng 4. Các phương án phát hành trái phiếu xanh tại Hàn Quốc
STT Tổ chức phát hành Ngày phát hành Quy mô(triệu USD) Niêm yết
1 Korea Exim Bank 20/2/20132/2/2016
500
400 SGX
2 Huyndai Capital 7/3/2016 500