Đề tài Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị

Khi nền kinh tế phát triển thì các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng.quá tải! Công tác quy hoạch đô thị ngày càng trở nên khó khăn hơn, trong đó giải phóng mặt bằng là cả một vấn đề. Hơn nữa, để phát triển một đô thị văn minh, hiện đại trong tương lai càng không phải là chuyện dễ. Hiện nay, tỷ lệ đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, cụ thể chỉ từ 19,5% của năm 1990 đã tăng lên gần 27% vào năm 2005. Đô thị phát triển nhanh, kéo theo thị trường bất động sản biến động lớn. Bên cạnh những khó khăn đặt ra trong quá trình đổi mới trên nhiều lĩnh vực, thì đô thị ở Việt Nam cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức không nhỏ. Đó là tỷ lệ người dân ở nông thôn nhập cư vào đô thị ngày càng lớn, tạo ra áp lực về nhà ở và hạ tầng. Theo Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng thì hiện đô thị cả nước có khoảng 25% nhà ở thuộc diện chưa đạt tiêu chuẩn. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 300.000 người sống trong các khu nhà ổ chuột, còn ở Hà Nội có khoảng 30% số dân có diện tích ở không quá 3m2/người. Tính bình quân trên cả nước, mật độ dân cư ở đô thị tới gần 240 người/ha, tức bình quân mỗi người chỉ có khoảng 42m2, trong khi mức tối thiểu đạt chuẩn phải là 100m2. Về nước sạch, chỉ có 50% dân cư đô thị có nước máy đạt chuẩn; chưa có đô thị nào có hệ thống xử lý nước thải, rác thải chất đống trong kênh rạch, ao hồ ngày càng gây ô nhiễm nặng. Cùng với những bất cập trên là tình trạng kẹt xe, ô nhiễm không khí do hạ tầng bị quá tải trầm trọng Với mục đích tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến hoạt động đầu tư xây dựng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản nhằm thống nhất quản lý hoạt động đầu tư xây dựng. Để sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi về tiến độ thi công, cũng như nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm của các bên trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phát huy tối đa vai trò tự chủ, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản đã xuất hiện phương thức mới là đấu thầu. Phương thức đấu thầu đã được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam phương thức này chỉ mới xuất hiện nhưng nó đã thể hiện là một phương thức đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng mới đang trong giai đoạn hoàn thiện nên các quy định còn có nhiều bất cập. Giai đoạn từ năm 1954 cho tới 1975 đất nước ta bị chia cắt, pháp luật ở hai miền đất nước hoàn toàn khác biệt. Ở miền bắc việc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình kinh tế tập trung không tạo được môi trường cho sự cạnh tranh kinh tế. Do đó vấn đề đấu thầu không được đặt ra. Ở miền Nam trước năm 1975, đấu thầu xây dựng được Chính phủ Việt Nam cộng hoà áp dụng rộng rãi và bắt buộc đối với các công trình do Chính phủ và các tổ chức đoàn thể, cơ quan của chính quyền ngụy đầu tư. Các văn bản về đấu thầu đều do Chính phủ ban hành và áp dụng bắt buộc đối với tất cả các bên tham gia đấu thầu công trình Chính phủ. Trong giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất tới những năm đầu tiên của quá trình đổi mới Việt Nam cũng đã có một số ít văn bản liên quan đến công tác đấu thầu nhưng Quy chế đấu thầu trong xây dựng đầu tiên được ban hành là Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 và sau này được thay thế bằng Quyết định số 60/BXD/VKT ngày 30 tháng 3 năm 1994. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong giai đoạn này. Năm 1996 Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã được đánh giá là một bước tiến lớn với nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản trước đó quy định về đấu thầu trong xây dựng. Tuy nhiên, chỉ sau một thờ gian ngắn Nghị định số 43/CP được thay thế bằng Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Nghị định này đựơc sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 14/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000

docx92 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1245 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Khi nền kinh tế phát triển thì các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng.quá tải! Công tác quy hoạch đô thị ngày càng trở nên khó khăn hơn, trong đó giải phóng mặt bằng là cả một vấn đề. Hơn nữa, để phát triển một đô thị văn minh, hiện đại trong tương lai càng không phải là chuyện dễ. Hiện nay, tỷ lệ đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, cụ thể chỉ từ 19,5% của năm 1990 đã tăng lên gần 27% vào năm 2005. Đô thị phát triển nhanh, kéo theo thị trường bất động sản biến động lớn. Bên cạnh những khó khăn đặt ra trong quá trình đổi mới trên nhiều lĩnh vực, thì đô thị ở Việt Nam cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức không nhỏ. Đó là tỷ lệ người dân ở nông thôn nhập cư vào đô thị ngày càng lớn, tạo ra áp lực về nhà ở và hạ tầng. Theo Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng thì hiện đô thị cả nước có khoảng 25% nhà ở thuộc diện chưa đạt tiêu chuẩn. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 300.000 người sống trong các khu nhà ổ chuột, còn ở Hà Nội có khoảng 30% số dân có diện tích ở không quá 3m2/người. Tính bình quân trên cả nước, mật độ dân cư ở đô thị tới gần 240 người/ha, tức bình quân mỗi người chỉ có khoảng 42m2, trong khi mức tối thiểu đạt chuẩn phải là 100m2. Về nước sạch, chỉ có 50% dân cư đô thị có nước máy đạt chuẩn; chưa có đô thị nào có hệ thống xử lý nước thải, rác thải chất đống trong kênh rạch, ao hồ ngày càng gây ô nhiễm nặng. Cùng với những bất cập trên là tình trạng kẹt xe, ô nhiễm không khí do hạ tầng bị quá tải trầm trọng… Với mục đích tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến hoạt động đầu tư xây dựng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản nhằm thống nhất quản lý hoạt động đầu tư xây dựng. Để sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi về tiến độ thi công, cũng như nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm của các bên trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phát huy tối đa vai trò tự chủ, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản đã xuất hiện phương thức mới là đấu thầu. Phương thức đấu thầu đã được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam phương thức này chỉ mới xuất hiện nhưng nó đã thể hiện là một phương thức đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng mới đang trong giai đoạn hoàn thiện nên các quy định còn có nhiều bất cập. Giai đoạn từ năm 1954 cho tới 1975 đất nước ta bị chia cắt, pháp luật ở hai miền đất nước hoàn toàn khác biệt. Ở miền bắc việc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình kinh tế tập trung không tạo được môi trường cho sự cạnh tranh kinh tế. Do đó vấn đề đấu thầu không được đặt ra. Ở miền Nam trước năm 1975, đấu thầu xây dựng được Chính phủ Việt Nam cộng hoà áp dụng rộng rãi và bắt buộc đối với các công trình do Chính phủ và các tổ chức đoàn thể, cơ quan của chính quyền ngụy đầu tư. Các văn bản về đấu thầu đều do Chính phủ ban hành và áp dụng bắt buộc đối với tất cả các bên tham gia đấu thầu công trình Chính phủ. Trong giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất tới những năm đầu tiên của quá trình đổi mới Việt Nam cũng đã có một số ít văn bản liên quan đến công tác đấu thầu nhưng Quy chế đấu thầu trong xây dựng đầu tiên được ban hành là Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 và sau này được thay thế bằng Quyết định số 60/BXD/VKT ngày 30 tháng 3 năm 1994. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong giai đoạn này. Năm 1996 Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã được đánh giá là một bước tiến lớn với nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản trước đó quy định về đấu thầu trong xây dựng. Tuy nhiên, chỉ sau một thờ gian ngắn Nghị định số 43/CP được thay thế bằng Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Nghị định này đựơc sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 14/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000. Đến nay công tác đấu thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2008 và Luật đấu thầu 2005. Tuy nhiên một số quy định của pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế, chưa rõ ràng và cụ thể dẫn tới việc hiểu và áp dụng không đúng, chưa đảm bảo đúng mục đích của đấu thầu là nhằm thực hiện tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án nói chung cũng như các công trình xây dựng nói riêng. Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) là Tổng công ty kinh doanh đa dạng hoá ngành nghề, mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất kinh doanh với cơ cấu ngành nghề chính là đầu tư, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp…Ngoài những ngành nghề đã có và đang đầu tư xây dựng như khu đô thị, khu công nghiệp, đường giao thông, các khu công nghiệp, dân dụng, nhà ở…sẽ tham gia đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật lớn như cầu_hầm_đường bộ quốc gia, công trình cáp điện trung cao thế…UDIC bao gồm 27 công ty kể cả bộ máy sản xuất của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị.Trong đó có 5 công ty thành viên trong nước và 5 Công ty liên doanh với nước ngoài đã tổng hợp được sức mạnh về vốn, kinh nghiệm quản lí, thi công cùng đội ngũ cán bộ quản lí, kỹ sư, cử nhân và công nhân nhiệt huyết, kinh nghiệm, có trình độ tay nghề cao với hoạt động sản xuất kinh doanh cùng hệ thống chất lượng ISO đã tạo nên những sản phẩm tốt cả lượng và chất có uy tín trên thị trường đóng góp vào sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Qua quá trình thực tập tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nhận thức rõ vấn đề quan trọng của Pháp luật về đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng nói riêng và trong nền kinh tế của đất nước nói chung, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị”. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lí luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị . Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị. Chương 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU VÀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP KHÁI QUÁT VỀ ĐẤU THẦU 1.Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu 1.1.Khái niệm Đấu thầu theo Từ điển Tiếng Việt là đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao làm hoặc bán hàng (phương thức giao làm công trình hoặc mua hàng). Đấu thầu còn được hiểu là Đấu giá để thầu Từ điển kinh doanh của Anh (Longman Dictionary of Business) không nêu rõ đấu thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là việc sử dụng các phương pháp hoặc nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua được. Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu thầu 2005; Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thâu để thực hiện gói thầu trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Do đó ta có thể hiểu khái quát đấu thầu chính là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu hoặc yêu cầu của chủ dự án trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu. 1.2. Đặc điểm Đấu thầu là một quá trình chủ đầu tư lựa chọn được một nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình. Đấu thầu có thể được coi là một giai đoạn tiền hợp đồng, được sử dụng với mục đích lựa chọn đối tác, nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án. Sau khi việc đấu thầu hoàn tất thì việc kí kết hợp đồng sẽ là bước tiếp theo. Căn cứ để ký kết hợp đồng là kết quả đấu thầu, việc ký kết hợp đồng xây dựng phải phù hợp với kết quả đấu thầu cũng như đáp ứng được cơ bản các tiêu chí đã được bên mời thầu đưa ra. Pháp luật coi đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại là vì nó cũng có những dấu hiệu cơ bản của một hoạt động thương mại: - Các nhà thầu có tư cách thương nhân khi thực hiện hoạt động dự thầu; - Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế_xã hội; - Đối tuợng của đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là các loại hàng hoá thương mại được phép lưu thông và các dịch vụ thương mại được phép thực hiện theo quy định của pháp luật; - Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu được xác lập thông qua những hình thức pháp lí nhất định do pháp luật quy định. Tuy nhiên, đấu thầu có những đặc điểm đặc thù so với các hoạt động thương mại khác: - Thứ nhất, đấu thầu là một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể Trong quan hệ đấu thầu các chủ thể tham gia đấu thầu có thể bao gồm: chủ đầu tư, bên mời thầu, nhà thầu, tổ chuyên gia, tổ chức tư vấn. Trong đó: Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án đấu thầu. Bên mời thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng không phải bất kì chủ thể nào cũng trở thành bên dự thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu. Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư cách hợp lệ theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Chỉ những chủ thể có năng lực thực hiện và không ở trong diện bị loại trừ theo các tiêu chuẩn do bên mời thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu. Tổ chuyên gia đấu thầu: Tuỳ theo tính chất và mức độ phức tạp của gói thầu, thành phần tổ chuyên gia đấu thầu bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, tài chính, thương mại, hành chính, pháp lý và các lĩnh vực có liên quan. Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu phải có đủ các điều kiện sau: + Có chứng chỉ tham gia khoá học về đấu thầu; + Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu; + Am hiểu các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu; + Có tối thiểu 3 năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ thuật của gói thầu. Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu không nhất thiết phải tham gia bên mời thầu và ngược lại. Tổ chức tư vấn bao gồm các “nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiêm chuyên môn” được quy định theo pháp luật về đấu thầu. - Thứ hai, đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn được quy định chặt chẽ Đấu thầu gồm có nhiều giai đoạn mà trong đó luôn có sự liên hệ mật thiết giữa các giai đoạn với nhau, giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau. Khi tham gia vào từng giai đoạn các chủ thể của quan hệ đấu thầu phải tuân theo các quy tắc chung được quy định chặt chẽ theo quy định của pháp luật. - Thứ ba, mục đích của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu tốt nhất tham gia thực hiện dự án Trong hoạt động đấu thầu luôn tuân theo những yêu cầu, điều kiện rất chặt chẽ, thống nhất, đảm bảo sự công bằng giữa các nhà thầu. Các nhà thầu được hưởng các cơ hội như nhau trong quá trình đấu thầu. Điều này làm cơ sở giúp cho bên mời thầu đánh giá được các nhà thầu một cách công bằng, khách quan. Thông qua các yêu cầu mà bên mời thầu đưa ra, các nhà thầu dựa trên năng lực tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm của mình để chào giá. Nhà thầu nào có giá phù hợp cũng như các tiêu chí khác về kỹ thuật, kinh nghiệm,v.v…sẽ được chọn làm đối tác. Ngoài ra, khi tham gia đấu thầu nhà thầu phải có bảo lãnh dự thầu Đây là việc nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc hoặc bảo lãnh của ngân hàng để đảm bảo trách nhiệm của nhà thầu trong việc dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bảo đảm nhà thầu không thay đổi và huỷ bỏ việc tham gia đấu thầu giữa chừng đồng thời loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc. Số tiền bảo lãnh sẽ được trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong một thời hạn nhất định. Việc bảo lãnh thường do một ngân hàng thực hiện và ngân hàng phải lập giấy cam kết bảo lãnh kèm theo hồ sơ dự thầu. 2. Phân loại đấu thầu 2.1.Theo hình thức lựa chọn nhà thầu Đấu thầu được chia làm 7 loại Đấu thầu rộng rãi Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu thầu này có ưu điểm nổi bật là tính cạnh tranh trong đấu thầu cao, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu, kích thích các nhà thầu phải thường xuyên nâng cao năng lực cạnh tranh, mang lại hiệu quả cao cho dự án. Đấu thầu hạn chế Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. là đấu thầu công khai, phải minh bạch. Trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác. Chủ dự án quyết định danh sách nhà thầu tham dự trên cơ sở đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các nhà thầu, song phải đảm bảo khách quan, công bằng và đúng đối tượng. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau: - Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu - Gói thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số người có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. Chỉ định thầu Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Chỉ định thầu được áp dụng cho các trường hợp sau đây: Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ ngày chỉ định thầu; Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài; Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm tính tương thích của thiết bị, công nghệ; Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỉ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển; gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị gói thầu dưới năm trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định. Chào hàng cạnh tranh Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hóa có giá trị dưới 2 tỷ đồng. Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng. Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác. Đối với mỗi gói thầu phải có tối tiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau. Mua sắm trực tiếp Được áp dụng khi hợp đồng đôí với gói thầu có nội dung tương tự được kí trước đó không quá sáu tháng. Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự. Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không được vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã kí hợp đồng trước đó. Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một dự án hoặc thuộc dự án khác. Tự thực hiện Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thàu thuộc dự án do mình quản lý sử dụng. Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt Trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt mà không thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác thì chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. 2.2. Theo phương thức đấu thầu Đấu thầu được chia làm 3 loại Đấu thầu một túi hồ sơ Là phương thức mà nhà thầu khi dự thầu nộp các đề xuất về kĩ thuật và về đề xuất tài chính trong một túi hồ sơ để bên mời thầu xem xét và đánh giá chung. Phương thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC. Việc mở thầu được tiến hành một lần. Đấu thầu hai túi hồ sơ Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Nhà thầu nộp đề xuất kĩ thuật và đề xuất tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kĩ thuật cao thì đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét, thương thảo. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Đấu thầu hai giai đoạn Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng. Hai giai đoạn đó như sau: - Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn môt, các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có gia dự thầu; trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai; - Giai đoạn đấu thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất kỹ thuật; đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu. 2.3. Theo nội dung đấu thầu Đấu thầu được chia làm 3 loại Đấu thầu tuyển chọn tư vấn Nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn. Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư. Dịch vụ tư vấn bao gồm: Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án gồm có lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, kiến trúc, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cúu khả thi; Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án gồm có khảo sát, lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị; Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác. Nhà tư vấn không tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm tư vấn (trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay). Đấu thầu mua sắm hàng hóa Đấu thầu mua sắm hàng hoá là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở có sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Hàng hoá ở đây có thể là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các dic