Luận văn Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. Một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thay thế cho nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vốn đã không còn phù hợp với tình hình mới, mà còn kìm nén sự phát triển kinh tế của nước ta trong nhiều năm. Để thích ứng với yêu cầu, điều kiện kinh doanh trong môi trường mới đó, hệ thống ngân hàng cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Từ hệ thống ngân hàng một cấp vừa quản lý, vừa kinh doanh, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức lại trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT, trong đó NHNN với chức năng quản lý Nhà Nước về mặt tiền tệ và là ngân hàng của các ngân hàng, còn NHTM với tư cách là đơn vị kinh doanh có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi nhuận. Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, hệ thống NHTM Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển trong môi trường mới. Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào, Ngân hàng cũng tiến hành hoạt động kinh doanh với mục tiêu hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro thấp nhất. Tuy nhiên, là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng có những hoạt động kinh doanh khác với các doanh nghiệp đơn thuần khác. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và cũng là đặc thù của NHTM bởi tín dụng ngân hàng được coi là đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, là một trong những hoạt động chủ yếu nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Có thể nói mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, nhưng rủi ro phát sinh trong hoạt động ngân hàng nói chung hay trong hoạt động tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn nhiều lần các rủi ro khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống ngân hàng, làm khủng hoảng nền kinh tế và nguy hiểm hơn, nó làm suy giảm lòng tin của người dân. Trên thực tế, vụ đổ vỡ hàng loạt gần 500 quỹ tín dụng đô thị và hàng nghìn hợp tác xã tín dụng nông thôn ở nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani đã chứng minh điều đó. Nhận thức được mối nguy hiểm mà rủi ro tín dụng gây ra cho ngân hàng, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu hoạt động tín dụng của Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, em thấy có nhiều vấn đề cần quan tâm, xem xét, tìm hướng giải quyết. Chính vì lý do này em đã chọn đề tài “Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”. Dưới góc độ xem xét và phân tích tình hình hoạt động tín dụng và những tồn tại trong hoạt động tín dụng để tìm giải pháp tháo gỡ, góp phần giải quyết tốt khâu phòng ngừa rủi ro tín dụng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn ngân hàng. Bài luận văn gồm 3 phần: Chương I: Hoạt động ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

doc70 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta. Một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thay thế cho nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vốn đã không còn phù hợp với tình hình mới, mà còn kìm nén sự phát triển kinh tế của nước ta trong nhiều năm. Để thích ứng với yêu cầu, điều kiện kinh doanh trong môi trường mới đó, hệ thống ngân hàng cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Từ hệ thống ngân hàng một cấp vừa quản lý, vừa kinh doanh, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức lại trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT, trong đó NHNN với chức năng quản lý Nhà Nước về mặt tiền tệ và là ngân hàng của các ngân hàng, còn NHTM với tư cách là đơn vị kinh doanh có chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu chủ yếu là tối đa hoá lợi nhuận. Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, hệ thống NHTM Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển trong môi trường mới. Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào, Ngân hàng cũng tiến hành hoạt động kinh doanh với mục tiêu hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro thấp nhất. Tuy nhiên, là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng cũng có những hoạt động kinh doanh khác với các doanh nghiệp đơn thuần khác. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động cơ bản và cũng là đặc thù của NHTM bởi tín dụng ngân hàng được coi là đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, là một trong những hoạt động chủ yếu nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Có thể nói mọi hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, nhưng rủi ro phát sinh trong hoạt động ngân hàng nói chung hay trong hoạt động tín dụng nói riêng còn nguy hiểm hơn nhiều lần các rủi ro khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền trong cả hệ thống ngân hàng, làm khủng hoảng nền kinh tế và nguy hiểm hơn, nó làm suy giảm lòng tin của người dân. Trên thực tế, vụ đổ vỡ hàng loạt gần 500 quỹ tín dụng đô thị và hàng nghìn hợp tác xã tín dụng nông thôn ở nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani đã chứng minh điều đó. Nhận thức được mối nguy hiểm mà rủi ro tín dụng gây ra cho ngân hàng, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu hoạt động tín dụng của Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, em thấy có nhiều vấn đề cần quan tâm, xem xét, tìm hướng giải quyết. Chính vì lý do này em đã chọn đề tài “Những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam”. Dưới góc độ xem xét và phân tích tình hình hoạt động tín dụng và những tồn tại trong hoạt động tín dụng để tìm giải pháp tháo gỡ, góp phần giải quyết tốt khâu phòng ngừa rủi ro tín dụng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn ngân hàng. Bài luận văn gồm 3 phần: Chương I: Hoạt động ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. CHƯƠNG I Hoạt động Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong Ngân hàng thương mại Vài nét về ngân hàng thương mại 1.Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại Trên thế giới nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm,hình thức sơ khai của ngân hàng thương mại xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản và cùng với thời gian các hình thức này ngày càng được hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. NHTM ra đời trên cơ sở kinh doanh tiền tệ của những người thợ kim hoàn, ban đầu với uy tín và sự giàu có của mình, họ nhận giữ tiền hộ và thu phí, giấy xác nhận mà những người gửi tiền yêu cầu họ viết có thể lưu hành được trên thị trường, đồng thời thực hiện nghiệp vụ thanh toán hộ cho người gửi tiền. Nghiệp vụ cho vay nảy sinh khi họ nhận thấy rất nhiều người có nhu cầu về vốn để kinh doanh, do đó họ sử dụng chính số tiền này để cho vay lấy lãi. Lợi nhuận cao đã kích thích những người thợ kim hoàn thay vì việc thu phí giữ hộ tiền bằng việc trả lãi nhằm thu hút thêm nhiều tiền gửi. Sản xuất phát triển, hàng hoá được tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các vùng khác nhau nhưng lại bị cản trở bởi sự không đồng nhất giữa các đồng tiền, những người thợ kim hoàn, hay những thương nhân làm nghề kinh doanh tiền tệ mà C.Mác đã gọi là “ nhà tư bản thương nghiệp tiền tệ ” nắm bắt cơ hội này, họ kiêm luôn cả việc đổi tiền. Khi tồn tại nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán hộ có thể nói ngân hàng thương mại đã ra đời. 2. Khái niệm về ngân hàng thương mại Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại các nhà kinh tế học có rất nhiều quan điểm khác nhau, người thì cho rằng “ ngân hàng thương mại là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền ”. Người khác lại nhận định ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính có giấy phép của chính phủ để vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc. Ngân hàng thương mại được thành lập đầu tiên ở Việt Nam đó là ngân hàng Đông Dương của Pháp vào giữa thế kỷ XIX để phục vụ cho giới thương gia Pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng bản xứ và các ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc , Anh.... Phải đến năm 1990 pháp lệnh ngân hàng nhà nước ra đời mới chính thức phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là NHTW và NHTM. Từ đó khái niệm ngân hàng thương mại hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực đã ra đời. Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12- 12-1997 thì “ Tổ chức tín dụng là một tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các dịch vụ thanh toán chi trả hộ...”. Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Do đó có thể nói “ ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, cho vay, thực hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng các phương tiện thanh toán cùng các hoạt động kinh doanh khác ”. Mục tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận với đối tượng kinh doanh là tiền tệ. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động tạo lập vốn Vốn pháp định ( còn gọi là vốn riêng ): Vốn pháp định là vốn ban đầu theo luật định khi đi vào hoạt động của ngân hàng. Nó được gia tăng trong quá trình hoạt động, bằng cách trích từ lợi nhuận kinh doanh, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở hữu nếu là ngân hàng cổ phần. Ngoài vốn pháp định, ngân hàng còn có các quỹ dự trữ ngân hàng, ví dụ quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ phúc lợi.... 1.1.2. Huy động vốn . Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống của các ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi Tiền gửi là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của mọi ngân hàng thương mại, hoạt động này cũng thể hiện một đặc trưng cơ bản của NHTM so với các tổ chức tài chính khác. Căn cứ vào các tiêu thức phân chia có thể gồm các loại hình tiền gửi sau: Nếu phân chia theo thời hạn : Tiền gửi không kỳ hạn : bao gồm các loại tiền gửi thanh toán , tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư. Người gửi tiền có thể rút bất cứ lúc nào. Tiền gửi có kỳ hạn: có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Về nguyên tắc người gửi không được rút tiền trước thời hạn ( trừ trường hợp đặc biệt). Nếu phân chia theo mục đích thì bao gồm tiền gửi phi giao dịch và tiền gửi giao dịch. Tiền gửi giao dịch: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng phục vụ mục tiêu thanh toán, họ có thể yêu cầu ngân hàng thanh toán và chi trả cho họ bất cứ lúc nào. Khoản này có thể được trả lãi hay không tuỳ thuộc vào quy định của ngân hàng. Tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Mục tiêu chính của khách hàng là lợi nhuận nên ngân hàng phải trả một khoản phí khá cao khi huy động loại này. Trái phiếu cũng là một công cụ quan trọng trong huy động vốn của ngân hàng. Chúng có thể là trái phiếu ngắn hạn hoặc dài hạn với tên gọi khác nhau như tín phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng. Vay mượn từ NHTW hoặc từ các ngân hàng thương mại khác ( trong và ngoài nước ) cũng là một cách thức quan trọng để huy động vốn hoặc trong các trường hợp cần thiết. 1.2. Hoạt động sử dụng vốn Huy động được vốn rồi, các NHTM cần phải sử dụng chúng một cách thật hiệu quả sao cho có thể bù đắp những chi phí mà ngân hàng bỏ ra đồng thời tạo ra được lợi nhuận. - Một trong các hoạt động sử dụng vốn cơ bản của ngân hàng là hoạt động ngân quỹ, để duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Nguồn đảm bảo cho hoạt động này là các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTW ( đây là khoản dự trữ bắt buộc do NHTW quy định dựa trên tỷ lệ % vốn huy động ), tiền gửi ở ngân hàng khác và tiền mặt trong quá trình thu. - Hướng cơ bản trong sử dụng vốn của ngân hàng là cho vay và đầu tư, trong đó cho vay là quan trọng nhất. Có thể phân chia cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể: Nếu phân chia theo thời gian: - Cho vay ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay dưới 12 tháng. Là loại cho vay mà ngân hàng thu được nhiều lợi nhuận và ít chịu rủi ro hơn so với cho vay trung và dài hạn. - Cho vay trung và dài hạn: là loại cho vay được thực hiện đối với những chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội. Nếu phân chia theo ngành kinh tế - Cho vay ngành nông nghiệp - Cho vay công nghiệp và thương mại - Cho vay xây dựng cơ bản Nếu phân chia theo đối tượng : - Cho vay tài trợ tài sản lưu động - Cho vay tài trợ máy móc thiết bị... Hoạt động đầu tư bao gồm: - Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là chứng khoán ngắn hạn của chính phủ. Hoạt động này vừa là hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế - Ngân hàng còn được phép mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh nghiệp, qua đây những ngân hàng lớn tham gia vào việc thành lập và quản lý các doanh nghiệp. Bảo lãnh ngân hàng: là hình thức ngân hàng dựa vào uy tín của mình để bảo lãnh thanh toán cho khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh cam kết bằng văn bản với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng trong trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết và khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. 1.3. Hoạt động dịch vụ trung gian Đây là hoạt động ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng, ngày nay hoạt động này càng ngày càng phát triển vì qua đó ngân hàng có thể nâng cao thêm thu nhập, đồng thời củng cố thêm uy tín của mình với khách hàng. Dịch vụ thanh toán hộ: Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín dụngnhằm thực hiện thanh toán cho khách hàng. Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán: Do có uy tín nên ngân hàng thường tham gia bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các công ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ mua bán ngoại tệ. Dịch vụ uỷ thác, đại lý tài sản vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng. Ngoài ra ngân hàng còn có các dịch vụ khác như bảo quản tài sản quý, cho thuê két sắt, ở nước ta hiện nay hoạt động trung gian vẫn còn chưa phát triển vì nền kinh tế còn phát triển chậm. Tóm lại: Các hoạt động của một ngân hàng rất phong phú. Cùng với thời gian, những hoạt động này càng ngày càng đa dạng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy vậy, trong các hoạt động của NHTM thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động quan trọng nhất, là hoạt động sinh lời chủ yếu, quyết định kết quả kinh doanh của ngân hàng. Tăng cường hoạt động tín dụng cũng là phải đối phó với rủi ro nhiều hơn, bởi vậy các NHTM phải đề ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động của mình. Vai trò của ngân hàng thương mại Trải qua một thời gian dài tồn tại, ngân hàng thương mại đã ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Cụ thể là ở các mặt sau đây: Thứ nhất, NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá NHTM không những cung ứng tín dụng cho doanh nghiệp, mà còn thông qua chức năng làm trung gian tài chính đã thực hiện việc tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội. Mặt khác, nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với thành phần kinh tế. Chính nguồn vốn này đã góp phần thúc đẩy và lưu thông hàng hoá phát triển, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân duy trì liên tục quá trình sản xuất với quy mô ngày càng lớn, cải tiến máy móc, quy trình công nghệ hiện đại để tồn tại trong cạnh tranh và phát triển. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm và góp phần tăng lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội. Thứ hai, NHTM là một công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. NHTM là trung gian thông qua đó NHTW điều tiết nền kinh tế phục vụ các mục tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn của chính phủ. Bằng việc ấn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất tái cấp vốn cho NHTM, NHTW đã gián tiếp thay đổi lượng cung tiền trong lưu thông. Cụ thể khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTM tại NHTW, lượng vốn cho vay các doanh nghiệp sẽ giảm, do đó tiền đưa vào lưu thông sẽ giảm. Đối với đặt hạn mức tín dụng, NHTW quy định số tiền tối đa mà doanh nghiệp có thể cho vay trong một thời kỳ nhất định bất kể ngân hàng thương mại huy động được bao nhiêu vốn từ xã hội Thứ ba, NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới đang trở thành xu hướng tất yếu trong thời kỳ mới. Thông qua việc cung cấp vốn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới, NHTM đã góp phần đưa nền kinh tế quốc gia hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời giải quyết nạn thất nghiệp thông qua mở rộng và tăng cường sản xuất, giảm các tệ nạn xã hội. Tăng cường hợp tác phân công lao động quốc tế, xoá dần sự chênh lệch về mức sống, về văn hoá tinh thần, trình độ khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia trên toàn thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng bất cứ quốc gia nào có hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và hiệu quả thì quốc gia ấy sẽ có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Khái niệm về rủi ro Khi tiến hành bất cứ một công việc gì thì con người đều chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ môi trường xung quanh, do đó kết quả công việc không phải chỉ phụ thuộc vào bản thân người đó. Những tác động này có thể là tác động tích cực hoặc tiêu cực, nếu là tích cực, nó sẽ giúp đẩy nhanh tiến trình công việc, nếu là tiêu cực, nó sẽ cản trở thậm chí phá hoại công việc. Trong trường hợp đó, những yếu tố tiêu cực này được gọi là những rủi ro. Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro của các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh, tuy nhiên để thâu tóm một định nghĩa chuẩn xác thế nào là rủi ro cho mọi môi trường kinh doanh cũng như mọi giai đoạn phát triển lại là một việc khó. Nhưng nói chung, rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài ý muốn không dự tính trước gây ra những thiệt hại cho một công việc cụ thể nào đó. Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ lĩnh vực nào, hoàn cảnh nào và cũng có thể đến với bất kỳ ai. Tuy nhiên trong kinh doanh, có thể nói rủi ro là người bạn đồng hành. Khi rủi ro xảy ra, hoạt động kinh doanh sẽ gặp những thiệt hại nhất định, đôi khi là vô cùng lớn. Rủi ro phát sinh muôn mầu muôn vẻ, là hậu quả của những nhân tố chủ quan và khách quan nhưng chủ yếu là rủi ro khách quan ngoài dự đoán của doanh nghiệp. Rủi ro có thể phát sinh từ các nguyên nhân như thiên tai, chiến tranh, năng lực sản xuất yếu kém, do sự thay đổi trong chính sách nhà nước...Chúng ta không thể loại trừ hoàn toàn rủi ro ra khỏi môi trường kinh doanh mà chỉ có thể nghiên cứu nó, nhận biết nó và phòng ngừa hạn chế nó đến mức thấp nhất. Chính bởi vì rủi ro là người bạn đồng hành của kinh doanh, bởi vậy mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc sẽ gặp nhiều rủi ro hơn.Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là một phạm trù tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào làm sai lệch kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất trong hoạt động của ngân hàng. Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi khách hàng không trả hoặc không trả đúng hạn tiền gốc hoặc tiền lãi. Bởi hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho NHTM, do đó các NHTM đều luôn có khuynh hướng mở rộng cho vay với các thành phần kinh tế. Chính vì lẽ đó mà rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản nhất và luôn là mối đe doạ đối với các NHTM. Rủi ro này có thể xảy đến với bất kỳ ngân hàng nào, với bất kỳ món vay nào và mức độ thiệt hại cũng khác nhau, nó có thể làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng, nặng hơn, nơ có thể khiến ngân hàng đi đến bờ vực của sự phá sản. Do vậy khi đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như đặt ra những kế hoạch kinh doanh cho mình, mọi ngân hàng đều cần chú trọng đặc biệt đến dự đoán sự biến động của thị trường, khả năng của khách hàng... để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng là biện pháp hứu hiệu đề phòng và giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do rủi ro tín dụng mang lại. Rủi ro lãi suất Trước hết phải định nghĩa thế nào là lãi suất, đó là chi phí đi vay hay nói cách khác, nó chính là giá cả của việc tạm thời chuyển quyền sử dụng tiền. Trong ngân hàng có hai loại lãi suất: lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi suất huy động là chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động vốn. Lãi suất cho vay là lãi suất mà người vay phải trả cho việc mượn vốn ngân hàng, lãi suất này tạo nên thu nhập cho ngân hàng.Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, lãi suất luôn biến động theo cung cầu thị trường và nằm trong khung lãi suất do nhà nước quy định. Rủi ro lãi suất mà ngân hàng phải gánh chịu là tổn thất về thu nhập ( lãi) do lãi suất thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng. Chẳng hạn lãi suất cho vay giảm trong khi lãi suất huy động vẵn giữ nguyên làm giảm thu nhập cho ngân hàng. Hay nói cách khác, những thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn khiến ngân hàng bị thiệt hại. Rủi ro hối đoái Các rủi ro trong giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước. Hiện nay ở Việt Nam chưa có hình thức mua bán ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái kỳ hạn nhưng hình thức sơ khai của nó hiện nay là các khoản vay có kỳ hạn bằng ngoại tệ. Ngân hàng quy định rằng: vay bằng ngoại tệ trả bằng ngoại tệ ( trừ trường hợp được sự dồng ý của ngân hàng). Nếu nhu cầu vốn của nền kinh tế là ngoại tệ, ngân hàng khi tiến hành cho vay phải thực hiện chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ và khi khoản vay đến hạn, nếu do yêu cầu về việc bảo toàn vốn, ngân hàng phải sử dụng mức tỷ giá hối đoái hiện thời, sự chênh lệch hoặc biến đổi giữa hai tỷ giá này có thể gây ra những khoản thặng dư hoặc chênh lệch trong khối lượng tiền ban đầu. Nếu đó là thâm hụt đó chính là rủi ro đối với ngân hàng. Rủi ro mất khả năng thanh toán Rủi ro mất khả năng thanh toán xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng được các nhu cầu thanh toán của mình và của khách hàng. Một số nguyên nhân dẫn
Tài liệu liên quan