Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học

The paper mentions some domestic and international studies on psychological difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students

pdf7 trang | Chia sẻ: candy98 | Lượt xem: 844 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nghiên cứu về khó khăn tâm lí trong học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 136 Email: ducminhsw@gmail.com MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÍ TRONG HỌC TẬP NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Bùi Đức Minh - Ban Tổ Chức tỉnh uỷ Sơn La Ngày nhận bài: 26/05/2018; ngày sửa chữa: 15/06/2018; ngày duyệt đăng: 18/06/2018. Abstract: The paper mentions some domestic and international studies on psychological difficulties in apprenticeship of students at colleges and universities. These studies have been considered from many different perspectives, subjects and fields in order to determine the manifestation and causes of psychological difficulties in apprenticeship of students as well as the effect of these difficulties on the learning effectiveness of students. Also, the article proposes some measures to minimize these psychological difficulties in apprenticeship of students. Keywords: Difficulties, psychological difficulties, apprenticeship, students. 1. Mở đầu Hoạt động học tập ở trường cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH) là hoạt động học tập nghề nghiệp; nội dung học tập là hệ thống tri thức, kĩ năng liên quan đến các khoa học cơ bản, khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên ngành gắn với nghề nghiệp tương lai của người học. Việc nắm vững nội dung học tập là điều kiện quan trọng giúp sinh viên (SV) trở thành những “chuyên gia” trong một lĩnh vực nghề nghiệp. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hay tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp (Điều 3, khoản 2, Luật Giáo dục nghề nghiệp, 2014) [1]. Vì vậy, bước vào môi trường CĐ, ĐH là bước ngoặt quan trọng đối với SV, là cơ hội để SV tích lũy tri thức và kĩ năng nghề nghiệp, tạo điều kiện cho họ có được một nghề nghiệp ổn định sau này, từ đó có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, đó cũng là một quá trình học tập mà SV phải đối mặt với nhiều khó khăn tâm lí (KKTL); và bên cạnh những cố gắng nỗ lực của bản thân, SV cần nhận được những biện pháp hỗ trợ phù hợp để có thể vượt qua những khó khăn đó. Vấn đề KKTL trong học tập của SV đã được nhiều công trình nghiên cứu ở nước ngoài và Việt Nam đề cập đến dưới nhiều góc độ khác nhau. Bài viết đề cập một số nghiên cứu về KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là nghiên cứu tài liệu để phân tích, tổng hợp và khái quát các xu hướng nghiên cứu về KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH. 2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài về khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Vấn đề KKTL trong học nghề của SV các trường CĐ, ĐH đã được các tác giả nước ngoài xem xét dưới các góc độ khác nhau, với nhiều khách thể và lĩnh vực khác nhau nhằm xác định biểu hiện, nguyên nhân gây ra những KKTL trong học nghề, ảnh hưởng của những KKTL đó đến hiệu quả học tập của SV và một số biện pháp hỗ trợ nhằm giảm thiểu những KKTL này ở SV. 2.2.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Có thể khái quát thành 4 biểu hiện cụ thể: - Thứ nhất, là những xúc cảm tiêu cực nảy sinh trong quá trình học tập tại các trường CĐ và ĐH: bao gồm chán nản, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, buồn phiền, mệt mỏi, cô độc Khi nghiên cứu một nhóm 351 SV ở Anh, Andrew và Wilding (2004) đã phát hiện ra 40% SV có vấn đề tâm lí được đặc trưng bởi sự lo lắng và căng thẳng [2], kết quả nghiên cứu của Sarason I.G. và Sarason B.R (2002) cũng cho thấy, nhiều SV khi vào đại học vì không thể học tốt nên dẫn đến căng thẳng, từ đó họ liên tục cảm thấy thất vọng và tuyệt vọng. Họ nhận thấy những điều tiêu cực và tự coi mình là người thất bại [3]. Tác giả Palmer và Puri (2006) đã chỉ ra nhiều nhóm khó khăn mà SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH và khó khăn trong học tập là một khó khăn lớn. Đối với khó khăn trong học tập, SV có các biểu hiện như lo lắng ngành học không phù hợp với mong ước của bản thân, các em không biết nên tiếp tục học hay chuyển nghề, chuyển trường [4]. - Thứ hai, là vấn đề thích nghi với môi trường học tập trong trường CĐ, ĐH. Vấn đề tâm lí này thường xảy ra VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 137 ở đối tượng SV năm thứ nhất. Theo Sade và Coll (2003), SV khi mới bước vào trường ĐH, ngay từ học kì đầu tiên đã phải dành thời gian điều chỉnh để phù hợp với môi trường học tập mới. Đây được coi là vấn đề chính trong bối cảnh giáo dục đặc thù bởi nhiều SV đến trường ĐH từ những môi trường khác nhau và họ phải sống trong môi trường ĐH với nền văn hóa dễ gây sốc. Vì vậy, nền tảng và sự chuẩn bị của SV đóng vai trò quan trọng đáng kể [5]. Tổng kết của Palmer và Puri (2006), các nhóm khó khăn lớn mà SV thường gặp phải khi học ở trường ĐH, đó là: 1) Khó khăn khi rời mái ấm gia đình và bắt đầu cuộc sống ở trường ĐH, xa gia đình, người thân và bạn bè; 2) Khó khăn khi sống ở môi trường mới, cùng với những người khác; 3) Khó khăn trong việc đảm bảo ăn uống có lợi cho sức khỏe với điều kiện kinh phí hạn hẹp; 4) Khó khăn liên quan đến học tập và sự mong chờ của cá nhân đối với khóa học; 5) Khó khăn liên quan đến quan hệ xã hội; 6) Khó khăn về kinh tế [4]. - Thứ ba, là những biểu hiện tâm lí nghiêm trọng và một số biểu hiện có liên quan đến rối nhiễu và rối loạn tâm lí, biểu hiện thường gặp là tự gây tổn thương cho cơ thể, rối loạn ăn uống, sử dụng các chất kích thích, tấn công tình dục ở trường học, lạm dụng tình dục sớm, tự tử Theo kết quả nghiên cứu tại 274 trung tâm tham vấn (Gallagher, Sysko và Zhang, 2001) [6], có 85% trung tâm báo cáo rằng, có sự gia tăng các vấn đề tâm lí nghiêm trọng ở đối tượng SV trong hơn 5 năm qua, bao gồm thất bại trong học tập (71%), tự sát, tự gây tổn thương cho cơ thể (51%), rối loạn ăn uống (38%), các vấn đề về chất cồn (45%), sử dụng các chất kích thích khác (49%), tấn công tình dục ở trường học (33%) và các vấn đề liên quan tới sự lạm dụng tình dục sớm (34%). Theo đánh giá, có khoảng 16% số SV gặp các vấn đề tâm lí nghiêm trọng (Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Theo một báo cáo khảo sát quốc gia của Mĩ, 28% SV ĐH năm thứ nhất thường xuyên cảm thấy bị áp lực và 8% cảm thấy bị suy nhược (HERI, UCLA, 2000) [8]. - Thứ tư, là những khó khăn trong việc tự nhận thức, nhận thức và thái độ đối với học tập. Nghiên cứu về các khó khăn trong quá trình học tập của SV ở độ tuổi trên 25 chưa tốt nghiệp ĐH, ngoài hai khó khăn về tổ chức và khó khăn về hoàn cảnh, Cross (1978, 1986) còn phát hiện thấy một khó khăn chính nữa ở những SV này là KKTL xuất phát từ thái độ, sự tự nhận thức về chính mình trong học tập [9], [10]. Darkenwald và Merriam (1982) đánh giá rằng, các vấn đề KKTL có xu hướng liên quan chặt chẽ tới hoạt động giáo dục và học tập của người học, đặc biệt là tiềm năng của người học [11]. Merriam (1984) nhấn mạnh, KKTL được coi là rào cản mạnh hơn các khó khăn về tổ chức hay hoàn cảnh vì KKTL phản ánh những trải nghiệm tiêu cực đối với môi trường học tập [12]. Như vậy, nhiều tác giả nước ngoài đã quan tâm nghiên cứu những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của SV. Các nhà nghiên cứu này đã chỉ ra nhiều biểu hiện KKTL khác nhau nảy sinh ở SV trong quá trình học tập ở CĐ cũng như ĐH. Tuy nhiên các biểu hiện mới chỉ được tập trung xem xét ở cấp độ xúc cảm (lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi,), các biểu hiện ở cấp độ nhận thức và hành vi trong đời sống tâm lí của SV còn ít được nghiên cứu. 2.2.2. Những nghiên cứu về nguyên nhân gây ra khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Khi nghiên cứu về KKTL trong học tập của SV các trường CĐ, ĐH, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến KKTL trong hoạt động học tập của SV. Có các nguyên nhân khách quan từ bên ngoài và cả những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ chính các em. Trước hết là yếu tố văn hóa-xã hội như hoàn cảnh gia đình, cha mẹ thiếu kĩ năng, khả năng thích nghi kém, bạo lực, sử dụng chất kích thích, cồn và quan hệ tình dục sớm, các mối liên kết cá nhân lỏng lẻo có thể dẫn đến tình trạng gia tăng các vấn đề tâm lí (Gallagher, Gill và Sysko, 2000) [7]. Tiếp đến là kết quả học tập cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về mức độ KKTL trong học tập của SV. Nghiên cứu sự khác nhau về các vấn đề tâm lí của 120 SV trường ĐH Quốc tế Hồi giáo có học lực giỏi và yếu, Safree, Yasin, Dzulkifli nhận định rằng, thành tích học tập kém là một trong những nguyên nhân gây ra các vấn đề tâm lí ở SV. Kết quả nghiên cứu cho thấy, những SV có học lực kém thường có mức độ lo âu, căng thẳng cao hơn những SV có học lực giỏi [13]. Ngoài ra, là vấn đề thiếu hụt các kĩ năng. Nghiên cứu sự thiếu hụt kĩ năng xã hội - một yếu tố làm gia tăng các vấn đề tâm lí trên 118 SV ở Mĩ đã cho phép các tác giả Segrin, Chris và Flora, Jeanne (2000) đưa ra nhận định rằng, sự thiếu hụt các kĩ năng xã hội chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những KKTL ở SV. Những SV có kĩ năng xã hội thấp có KKTL cao hơn các SV có kĩ năng xã hội tốt [14]. Từ những nghiên cứu trên, có thể thấy rằng, các tác giả nước ngoài đã chỉ ra khá nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến KKTL trong học tập của SV, trong đó tập trung chủ yếu vào các nguyên nhân chủ yếu như chuyển cấp học, môi trường học tập thay đổi, sự không chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lí, sự chưa trưởng thành về mặt nhân cách của SV, động cơ, thái độ học tập, thiếu sự hỗ trợ kịp thời của nhà trường, giảng viên Tuy nhiên, KKTL của SV trong hoạt động học tập, đặc biệt là của SV dân tộc ít người trong học nghề còn bắt nguồn từ niềm tin vào khả năng học tập của chính bản thân SV, khả năng sử dụng VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 138 ngôn ngữ phổ thông, tính tích cực và chủ động trong học nghề, điều kiện và phương tiện thực hành nghề, năng lực và phương pháp giảng dạy hướng dẫn thực hành nghề của giảng viên, hỗ trợ từ gia đình Những yếu tố này còn ít được các tác giả nước ngoài đề cập đến. 2.2.3. Những nghiên cứu về ảnh hưởng của khó khăn tâm lí trong học nghề đến hiệu quả học tập của sinh viên các trường cao đẳng, đại học KKTL của SV cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực tới hiệu quả học tập, tỉ lệ lưu ban và tốt nghiệp của họ. Brackney và Karabenick (1995) phát hiện ra rằng, mức độ KKTL cao ở SV liên quan chặt chẽ đến hiệu quả học tập. SV có mức độ KKTL cao thì cảm giác lo lắng về thi cử gia tăng, khả năng tự học, hiệu quả quản lí thời gian và sử dụng các nguồn lực trong học tập thấp. Họ cũng thiếu kiên trì hơn khi phải đối mặt với khó khăn cũng như sử dụng các chiến lược học tập hiệu quả hay tìm kiếm sự hỗ trợ về học tập [15]. Kết quả nghiên cứu của Goodwin (2006) trên nhóm SV dân tộc ít người cho thấy, với nhiều SV, khó khăn được nhìn nhận như là thử thách trong cuộc đời, giúp SV trưởng thành hơn khi cố gắng vượt qua. Tuy nhiên, với không ít SV, khó khăn gặp phải trong thời gian học ĐH đã để lại dấu ấn nặng nề trong tâm trí, gây căng thẳng, giảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập và tương lai nghề nghiệp sau này [16]. Như vậy, những áp lực từ hoạt động học tập gây ra những KKTL cho SV, ngược lại, những căng thẳng, lo lắng, buồn phiền, mệt mỏi (những KKTL) làm cho SV cảm thấy suy kiệt, thất vọng và tuyệt vọng, từ đó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động học tập của SV, làm giảm hiệu quả học tập và ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai nghề nghiệp của các em sau này. Có thể khẳng định rằng, các cá nhân có mức độ KKTL cao thường thiếu các kĩ năng xử lí thông tin - yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả học tập và thành công của họ 2.2.4. Những nghiên cứu về biện pháp hỗ trợ để giảm thiểu khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài cũng đã đề xuất một số biện pháp góp phần giảm thiểu KKTL trong học tập của SV. Để giảm thiểu các khó khăn, rào cản trong quá trình học tập của người học, theo các nhà tâm lí học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng (Caplan, 1970; Friend và Cook, 1996) [17], [18]. Hoạt động tham vấn tập trung vào các khía cạnh tâm lí của hành vi con người, quá trình can thiệp và các kết quả. Mặc dù sự tham vấn chủ yếu nhằm giải quyết các vấn đề cá nhân của người học, song trong nhiều trường hợp, nó liên quan tới sự cộng tác của tập thể nhằm cải thiện môi trường lớp học, trường học và thúc đẩy sự phát triển tâm lí tích cực của tất cả các thành viên. Tại các trường ĐH, CĐ, bộ phận tham vấn tâm lí có nhiệm vụ hỗ trợ SV nhằm xác định và đạt được các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp tư vấn về việc phát triển, ngăn chặn và phòng ngừa. Theo truyền thống, có sự nhấn mạnh vào việc tư vấn phát triển và phòng ngừa. Tuy nhiên, vai trò và chức năng của bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH và CĐ tiếp tục thay đổi để đáp ứng với một loạt các yếu tố xã hội, chính trị và kinh tế (CAS, 1999) [19]. Theo Archer và Cooper (1998), việc cung cấp dịch vụ tham vấn cho SV về sự đa văn hóa và giới tính, nhu cầu phát triển và nghề nghiệp, sự thay đổi cuộc sống, sự căng thẳng, bạo lực và các vấn đề tâm lí nghiêm trọng khác là một trong những thách thức lớn của bộ phận tham vấn thuộc các trường ĐH, CĐ [15]. Như vậy, trên cơ sở làm rõ những nguyên nhân dẫn đến KKTL trong học tập của SV, các tác giả nước ngoài nhận thấy rằng, cần phải có các biện pháp can thiệp phù hợp và hữu hiệu mới có thể hạn chế được những KKTL này ở các em. Theo các nhà tâm lí học nước ngoài, để giảm thiểu các KKTL trong quá trình học tập của người học, sự tham vấn tâm lí trong nhà trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ SV xác định và đạt được các mục tiêu cá nhân, học tập và nghề nghiệp thông qua cung cấp dịch vụ tham vấn ngăn chặn và phòng ngừa KKTL. Tóm lại, dưới góc độ hoạt động học tập, nghiên cứu của các tác giả nước ngoài thường đi sâu vào lĩnh vực tâm lí của người học cũng như sự thay đổi môi trường học tập từ cấp học này sang cấp học khác. Các nghiên cứu tập trung vào những biểu hiện KKTL, nguyên nhân gây ra KKTL, ảnh hưởng của KKTL đến hiệu quả học tập của SV nói chung, SV năm thứ nhất nói riêng và bao quát đến nhóm đối tượng SV lớn tuổi và một số nhóm SV yếu thế. Đặc biệt, các tác giả nước ngoài đã nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động tham vấn tâm lí trong nhà trường và vai trò cần thiết của đội ngũ các nhà tâm lí học trong việc hỗ trợ, tham vấn học đường nhằm cải thiện môi trường lớp học, trường học, thúc đẩy sự phát triển tâm lí tích cực của SV; từ đó giảm thiểu và hạn chế KKTL ở các em trong quá trình học tập. 2.3. Những nghiên cứu ở trong nước về khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập nghề nghiệp của sinh viên các trường cao đẳng, đại học Ở Việt Nam, KKTL trong hoạt động học tập nghề nghiệp của SV các trường CĐ và ĐH cũng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, tập trung vào ba hướng chính sau: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 6/2018, tr 136-142 139 2.3.1. Những nghiên cứu về các biểu hiện khó khăn tâm lí trong học nghề của sinh viên trường cao đẳng, đại học - Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của SV năm thứ nhất: nhiều tác giả trong nước đã chỉ ra rằng, đa số SV năm thứ nhất đều gặp KKTL trong học tập. KKTL của SV năm thứ nhất thường biểu hiện trên ba mặt nhận thức, thái độ và hành vi trong các khâu của hoạt động học tập. Kết quả nghiên cứu của đa số các tác giả theo hướng này đều chỉ ra rằng, SV năm thứ nhất gặp khó khăn nhiều nhất ở mặt hành vi, còn nhận thức và thái độ/xúc cảm đối với hoạt động học tập thì có thể thay đổi vị trí cho nhau. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Thức và Đào Thị Lan Hương (2007) cho thấy, các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập của những SV này thể hiện chủ yếu ở ba mặt nhận thức, xúc cảm và kĩ năng học tập [20]. Sử dụng phương pháp chính là điều tra viết tác giả Đặng Thị Lan (2015) đã chỉ ra những biểu hiện KKTL trong hoạt động học ngoại ngữ của SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất ở Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội. Kết quả nghiên cứu thực tiễn cho thấy, thời gian đầu học ngoại ngữ ở Trường ĐH Ngoại ngữ, SV dân tộc thiểu số năm thứ nhất còn gặp khá nhiều khó khăn trong hoạt động học ngoại ngữ cả về nhận thức, thái độ và kĩ năng, trong đó các em gặp khó khăn nhiều hơn về mặt kĩ năng [21]. Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động nghiên cứu khoa học của SV trường ĐH Trà Vinh, Phạm Văn Tuân (2013) cũng đã nhận định rằng, SV hiện nay đang gặp phải nhiều KKTL khi tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, chính những khó khăn này đang cản trở tính tích cực nghiên cứu khoa học của SV [22]. Bên cạnh những biểu hiện KKTL vừa phân tích ở trên, khi nghiên cứu về những biểu hiện KKTL của SV trong hoạt động học tập một số ít tác giả trong nước còn đưa ra các biểu hiện KKTL khác trong các nghiên cứu cụ thể của mình. Chẳng hạn, 1) Các biểu hiện KKTL cụ thể trong các khâu của quá trình học tập; 2) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc sống; 3) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ; 4) Các biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập ở những nhóm SV yếu thế. - Hướng nghiên cứu về những biểu hiện KKTL trong hoạt động học tập và trong các lĩnh vực khác của cuộc sống có tác giả Đỗ Thị Hạnh Phúc và Triệu Thị Hương (2007), nghiên cứu trên 315 SV về thực trạng KKTL của SV Học viện Cảnh sát Nhân dân sát, cho thấy: hầu hết SV đôi khi đều gặp tất cả các KKTL trên tất cả các lĩnh vực của cuộc sống. Ngoài những khó khăn mang tính đặc trưng của lứa tuổi như “Tình bạn khác giới, tình yêu”; “Giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống”, SV Học viện Cảnh sát Nhân dân còn có những khó khăn mang tính đặc thù liên quan đến những quy định của ngành, của trường như điều kiện sinh hoạt, “Quy định của trường, của ngành” [23]. Nghiên cứu về KKTL trong hoạt động học tập của 82 SV hệ cử tuyển Trường ĐH Sư phạm, ĐH Thái Nguyên, Nguyễn Thị Út Sáu (2009) đã chỉ ra một số KKTL mà SV gặp phải trong học tập theo hệ thống tín chỉ như: phương pháp học tập của SV còn thiếu tính chủ động, sáng tạo, chưa có kĩ năng tự học, tự nghiên cứu; SV chưa có thói quen làm việc qua mạng như đăng kí thông tin qua mạng, còn có tâm lí ngại liên hệ trực tiếp với phòng đào tạo, với cán bộ phụ trách học tập; trong quá trình học tập, SV bị căng thẳng tâm lí, lo sợ vì không được thi lại và có nguy cơ bị đào thải khỏi trường [24]. - Hướng nghiên cứu về các biểu hiện KKTL trong học tập ở những nhóm SV yếu thế có các tác giả Nguyễn Thị Hoài (2007), khi chuyển từ bậc phổ thông lên ĐH, CĐ, SV gặp không ít khó khăn do phải thay đổi hoạt động học tập cho phù hợp với môi trường học tập mới. Đối với nhóm đối tượng SV dân tộc thiểu số, điều đó càng khó khăn hơn bởi học lực của họ thường thấp, năng lực sử dụng ngôn ngữ phổ thông hạn chế, khó hòa nhập với phương pháp học tập ở ĐH, có tâm lí mặc cảm tự ti Do đó, theo tác giả này, SV dân tộc thiểu số cần trải qua quá trình thích ứng, tham gia vào hoạt động học tập ở trường ĐH nhằm lĩnh hội được những yêu cầu của các hành động học tập mới và trong quá trình đó, SV sẽ chủ động tích cực vượt qua những khó khăn, trở ngại tâm lí của bản thân để tiếp nhận những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, hình thành các hành động học tập phù hợp giúp cho hoạt động học tập đạt hiệu quả cao [25]. Cũng đồng quan điểm trên, Trần Thị Tú Anh (2010) cho rằng, đối với nhóm SV thiệt