Mục tiêu: đánh giá tình trạng vitamin D trong máu bệnh nhân bệnh Parkinson.
Phương pháp nghiên cứu: 33 bệnh nhân Parkinson đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương được
khảo sát qua hỏi bệnh, thăm khám và xét nghiệm vitamin D huyết thanh.
Kết quả: có 12 nam chiếm tỷ lệ 36,4%, 21 nữ chiếm 63,6%, tuổi trung bình là 62,64 tuổi; tuổi khởi phát
bệnh Parkinson trung bình là 55,73 tuổi. Bệnh nhân ở giai đoạn một và hai của Hoehn và Yahr chiếm tỷ lệ
84,8%. Điểm UPDRS trung bình là 40,73. Các yếu tố nguy cơ thúc đẩy như sống ở nông thôn chiếm 18,25%,
uống nước giếng 18,2%, tiếp xúc thuốc trừ sâu 15,2%, làm nghề nông 12,1%, chấn thương đầu 9,1%. Các yếu
tố bảo vệ như hút thuốc lá chiếm 12,1% và uống cà phê 30,3%. Có 30,3% số bệnh nhân được đơn trị liệu với
levodopa và 69,7% phối hợp levodopa với các thuốc khác. Có 100% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D (<
30ng/ml) với nồng độ vitamin D trung bình là 11,21 ng/ml. Nồng độ vitamin đặc biệt thấp ở nữ giới và ở bệnh
nhân có thời gian mắc bệnh Parkinson dài.
Kết luận: thiếu hụt vitamin D phổ biến ở bệnh nhân bệnh Parkinson và tình trạng vitamin D thấp có liên
quan đến giới nữ, thời gian mắc bệnh Parkinson.
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 727 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu 06 Tình trạng vitamin D huyết thanh của bệnh nhân bệnh Parkinson, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 321
06 TÌNH TRẠNG VITAMIN D HUYẾT THANH
CỦA BỆNH NHÂN BỆNH PARKINSON
Nguyễn Thi Hùng*, Nguyễn Lê Minh Trang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá tình trạng vitamin D trong máu bệnh nhân bệnh Parkinson.
Phương pháp nghiên cứu: 33 bệnh nhân Parkinson đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương được
khảo sát qua hỏi bệnh, thăm khám và xét nghiệm vitamin D huyết thanh.
Kết quả: có 12 nam chiếm tỷ lệ 36,4%, 21 nữ chiếm 63,6%, tuổi trung bình là 62,64 tuổi; tuổi khởi phát
bệnh Parkinson trung bình là 55,73 tuổi. Bệnh nhân ở giai đoạn một và hai của Hoehn và Yahr chiếm tỷ lệ
84,8%. Điểm UPDRS trung bình là 40,73. Các yếu tố nguy cơ thúc đẩy như sống ở nông thôn chiếm 18,25%,
uống nước giếng 18,2%, tiếp xúc thuốc trừ sâu 15,2%, làm nghề nông 12,1%, chấn thương đầu 9,1%. Các yếu
tố bảo vệ như hút thuốc lá chiếm 12,1% và uống cà phê 30,3%. Có 30,3% số bệnh nhân được đơn trị liệu với
levodopa và 69,7% phối hợp levodopa với các thuốc khác. Có 100% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D (<
30ng/ml) với nồng độ vitamin D trung bình là 11,21 ng/ml. Nồng độ vitamin đặc biệt thấp ở nữ giới và ở bệnh
nhân có thời gian mắc bệnh Parkinson dài.
Kết luận: thiếu hụt vitamin D phổ biến ở bệnh nhân bệnh Parkinson và tình trạng vitamin D thấp có liên
quan đến giới nữ, thời gian mắc bệnh Parkinson.
Từ khóa: bệnh Parkinson, vitamin D
ABSTRACT
VITAMIN D STATUS IN PATIENTS WITH PARKINSON’S DISEASE
Nguyen Thi Hung, Nguyen Le Minh Trang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 321 - 326
Objectives: evaluating the serum vitamin D status in patients with Parkinson’s disease.
Methods: survey, examination and blood test for serum vitamin D on 33 Parkinson’s disease patients.
Results: Men make up 36.4%, women 63.6%, the average age is 62.64 years old, the mean onset age is 55.73
years old. The average UPDRS score is 40.73 and 84.8% of the patients are in the first and second stage of Hoehn
and Yahr. Many patients have the antecedent of living in rural areas 18.25%, drinking well water 18.2%,
exposure to pesticide/herbicide 15.2%, farming 12.1%, head trauma 9.1%, smoking 12.1% and cosuming coffee
30.3%. Monothepary with levodopa is 30.3%, polythepary with levodopa and other antiparkinson drugs is
69.7%. 100% of the patients are vitamin D insufficient (< 30ng/ml) and the mean serum vitamin D is 11.21
ng/ml. The hypovitamin D status is significantly correlated with female and Parkinson’s disease duration.
Conclusion: high prevalence of vitamin D insufficiency in Parkinson’s disease and the hypovitamin D
status is correlated with female and Parkinson’s disease duration.
Keywords: Parkinson’s disease, vitamin D
ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh Parkinson là bệnh đứng hàng thứ hai
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc BS Nguyễn Lê Minh Trang, ĐT: 0903 780 362, Email: viettrang293@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 322
trong các bệnh thoái hóa của hệ thần kinh trung
ương có thể gây tàn phế và giảm chất lượng
sống. Căn nguyên của bệnh Parkinson là do sự
tương tác giữa yếu tố di truyền và các yếu tố
môi trường như tiếp xúc MPTP(12), tiếp xúc với
thuốc trừ sâu(23) và thuốc diệt cỏ(3), tiếp xúc với
kim loại nặng(7); tiếp xúc với hóa chất nông
nghiệp(18). Ngoài ra, người ta còn thấy bệnh
nhân Parkinson bị thiếu hụt một số vitamin như
các vitamin nhóm B(1), vitamin C(19) và sự bổ
sung các vitamin này có làm cải thiện phần nào
triệu chứng bệnh(25). Trong vài năm gần đây,
một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy có
thiếu hụt vitamin D trong mẫu bệnh nhân bệnh
Parkinson(15) và nồng độ thấp của vitamin D
trong máu khi còn trẻ có thể là một yếu tố nguy
cơ đưa đến bệnh Parkinson khi về già(17). Tại Việt
Nam, chỉ mới có công trình nghiên cứu về tần
suất thiếu hụt vitamin D ở người dân bình
thường(10), chưa có công trình nghiên cứu nào về
tần suất thiết hụt vitamin D ở bệnh nhân bệnh
Parkinson. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu: "Khảo sát nồng độ vitamin D trong
máu bệnh nhân bệnh Parkinson" với các mục
tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng bệnh nhân
bệnh Parkinson, nồng độ vitamin D trong máu
bệnh nhân bệnh Parkinson và mối liên quan
giữa nồng độ vitamin D với các đặc điểm lâm
sàng của bệnh Parkinson.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh
Parkinson theo định nghĩa của Douglas J. Gelb
và cộng sự, đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri
Phương trong thời gian từ tháng 1/2011 đến
tháng 5/ 2011, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân bị hội chứng Parkinson thứ phát,
mắc các bệnh thoái hóa thần kinh có kèm hội
chứng Parkinson và bệnh nhân từ chối tham gia
nghiên cứu.
Thu thập số liệu
Phỏng vấn trực tiếp theo bảng thu thập số
liệu, thăm khám và xét nghiệm vitamin D huyết
thanh của bệnh nhân. Địa điểm thực hiện:
phòng khám Thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri
Phương.
Xử lý số liệu
Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần
mềm SPSS 18
Các yếu tố khảo sát
Giới tính, tuổi, các yếu tố nguy cơ, tuổi khởi
phát bệnh Parkinson, chế độ trị liệu hiện tại,
thang điểm UPDRS, giai đoạn Hoehn và Yahr,
nồng độ vitamin D huyết thanh.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Số bệnh nhân được khảo sát là 33, có 12 nam
chiếm tỷ lệ 36,4%, 21 nữ chiếm 63,6%, tuổi trung
bình là 62,64 tuổi; tuổi khởi phát bệnh Parkinson
trung bình là 55,73 tuổi. Bệnh nhân ở giai đoạn
một và hai của Hoehn và Yahr chiếm tỷ lệ
84,8%. Điểm UPDRS trung bình là 40,73. Các
yếu tố nguy cơ thúc đẩy như sống ở nông thôn
chiếm 18,2%, uống nước giếng 18,2%, tiếp xúc
thuốc trừ sâu 15,2%, làm nghề nông 12,1%, chấn
thương đầu 9,1%. Các yếu tố bảo vệ như hút
thuốc lá chiếm 12,1% và uống cà phê 30,3%. Có
30,3% số bệnh nhân được đơn trị liệu với
levodopa và 69,7% phối hợp levodopa với các
thuốc khác. Có 100% bệnh nhân bị thiếu hụt
vitamin D (< 30ng/ml) với nồng độ vitamin D
trung bình là 11,21 ng/ml.
Bảng: Các đặc điểm lâm sang của 33 bệnh nhân
Parkinson
Đặc điểm
Nữ, % 63,6%
Tuổi trung bình 62,64 tuổi
Tuổi khởi phát bệnh Parkinson trung bình 55,73 tuổi
Điểm UPDRS trung bình 40,73
Giai đoạn 1 và 2 của Hoehn và Yahr 84,8%
Sống ở nông thôn 18,2%
Uống nước giếng 18,2%
Tiếp xúc thuốc trừ sâu 15,2%
Làm nghề nông 12,1%
Chấn thương đầu 9,1%
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 323
Đặc điểm
Hút thuốc lá 12,1%
Uống cà phê 30,3%
Phối hợp levodopa với thuốc khác 69,7%
Nồng độ vitamin D trung bình 11,21 ng/ml
Bệnh nhân nữ có nồng độ vitamin D thấp
hơn bệnh nhân nam với giá trị tương ứng lần
lượt là: 9,54 và 14,14 ng/ml (p = 0.046, t Student).
Vitamin D huyết thanh càng giảm khi thời gian
điều trị bệnh Parkinson càng dài (p = 0,03; R
square). Nồng độ vitamin D huyết thanh có
khuynh hướng cao hơn ở nhóm bệnh nhân
thường xuyên hút thuốc lá (p=0,198, t Student)
hoặc có uống cà phê (p=0,131, t Student).
BÀN LUẬN
Nồng độ vitamin D trung bình của các bệnh
nhân Parkinson trong nghiên cứu của chúng tôi
là 11,21 ± 6,43 ng/ml (28 nmol/l) thấp hơn mức
khuyến cáo 30-60ng/ml.(8,9) Như vậy 100% bệnh
nhân Parkinson trong nghiên cứu của chúng tôi
bị thiếu hụt vitamin D. Các nghiên cứu dịch tễ
học trên quần thể người bình thường cho thấy
thiếu hụt vitamin D rất phổ biến. Phân tích gộp
gồm 394 nghiên cứu với 33266 cá thể của T.
Hagenau và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin
D trung bình toàn cầu là 54 ± 1,4 nmol/l. Riêng ở
Việt Nam, nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan
và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D trung
bình trên quần thể người bình thường ở thành
phố Hồ Chí Minh ở nam là 36,8 ± 10,2 ng/mL
cao hơn ở nữ là 30,1 ± 5,9; (p<0,0001). Tần suất
thiếu hụt vitamin D ở nghiên cứu này (dưới 30
ng/ml) ở nam cũng thấp hơn hẳn ở nữ với tỷ lệ
lần lượt là 20% và 46%. Tác giả kết luận sự thiếu
hụt vitamin D phổ biến ngay cả ở vùng nhiệt
đới, và phụ nữ có nguy cơ thiếu vitamin D
nhiều hơn nam. Trong các nghiên cứu khác trên
bệnh nhân Parkinson, kết quả cũng cho thấy có
sự thiếu hụt vitamin D với mức độ nghiêm
trọng hơn hẳn so với quần thể bình thường.
Nghiên cứu của Paul Knekt và cộng sự cho thấy
nồng độ vitamin D trung bình của bệnh nhân
Parkinson trước khi khởi phát bệnh là 36,3
nmol/l thấp hơn khi so với nhóm chứng là 41,8
nmol/l (p<0,05). Một nghiên cứu đoàn hệ của
Marian L. Evatt và cộng sự trên 157 bệnh nhân
Parkinson giai đoạn sớm cũng cho thấy nồng độ
vitamin D thấp cả ở giai đoạn bắt đầu và giai
đoạn kết thúc nghiên cứu với giá trị lần lượt là
26,3 ± 8,6 ng/mL và 31,3 ± 9,0 ng/mL. Nghiên
cứu này cũng cho thấy tần suất thiếu hụt
vitamin D (dưới 30 ng/ml) là 69,4% lúc bắt đầu
nghiên cứu và 51,6% lúc kết thúc nghiên cứu.
Một nghiên cứu khác cũng của Marian L. Evatt
và cộng sự so sánh tần suất thiếu hụt vitamin D
của bệnh nhân Parkinson so với quần thể bệnh
nhân Alzheimer và quần thể người bình thường
cho thấy tần suất thiếu hụt vitamin D (<30
ng/mL) ở bệnh nhân Parkinson cao hơn hẳn so
với nhóm chứng và nhóm bệnh nhân Alzheimer
với tần suất tương ứng lần lượt là 55%, 36% và
41% (p=0,02). Đồng thời, kết quả cũng cho thấy
nồng độ vitamin D trung bình của bệnh nhân
Parkinson cũng thấp hơn bệnh nhân Alzheimer
và nhóm chứng với giá trị tương ứng lần lượt là
31,9 ± 13,6 ng/mL, 34,8 ± 15,4 ng/mL và 37,0 ±
14,5 ng/mL, p=0,03). Một nghiên cứu ở Nhật của
Sato và cộng sự trên bệnh nhân Parkinson cho
thấy nguy cơ gãy xương đùi cao với giảm chỉ số
khối xương, giảm mật độ xương, giảm canxi
huyết thanh và nồng độ vitamin D trung bình
rất thấp chỉ 4ng/ml.(21) Một nghiên cứu mới đây
của Sato và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D
huyết thanh của 142 bệnh nhân Parkinson thấp
29,7± 16,3 nmol/l khi so sánh với 99 người nhóm
chứng là 83,2 ± 7,7 nmol/l. Như vậy, các nghiên
cứu trên dân số chung và trên bệnh nhân
Parkinson cho thấy nồng độ vitamin D ở bệnh
nhân Parkinson thấp hơn so với nồng độ
vitamin D ở người bình thường. Nghiên cứu
Mini-Finland của Paul và cộng sự đã cung cấp
những dữ kiện đầu tiên đầy hứa hẹn về tình
trạng thiếu hụt vitamin D có liên quan đến nguy
cơ mắc bệnh Parkinson: tứ phân vị 25 của nồng
độ vitamin D (được đo hàng chục năm trước khi
khởi phát bệnh Parkinson) là yếu tố tiên đoán
tăng nguy cơ bị bệnh Parkinson. Tuy nhiên, vẫn
cần thêm nhiều nghiên cứu ở cả lĩnh vực cơ bản
và lâm sàng để hiểu rõ chính xác vai trò, cơ chế
và nồng độ vitamin D tối ưu trong mối liên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 324
quan với bệnh Parkinson. Hiện tại, những kết
quả từ các nghiên cứu can thiệp trong lĩnh vực
té ngã và gãy xương chứng minh được nồng độ
vitamin D tối ưu lớn hơn 30-40 ng/ml. Tỷ lệ
thiếu hụt vitamin D ở nữ giới cao hơn so với
nam giới trong nghiên cứu của chúng tôi nhất
quán với các nghiên cứu khác trong và ngoài
nước cả trên quần thể người bình thường và trên
quần thể bệnh nhân Parkinson. Tỷ lệ thiếu hụt
vitamin D trên quần thể người bình thường ở nữ
giới cao hơn so với nam giới tìm thấy được
trong các nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu
của The European Action on Nutrition and
Health-Survey (EURONUT-SENECA) ở người
cao tuổi sống độc lập cho thấy nồng độ vitamin
D ở nam giới luôn cao hơn nữ giới(24). Tại Trung
Đông, một nghiên cứu tại Li Băng cho thấy tần
suất thiếu hụt vitamin D (dưới 25 nmol/l) ở nam
là 37% thấp hơn ở nữ là 56%(5). Tại Mỹ, Tổ chức
dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia- The national
health and nutrition examination survey
(NHANES) thực hiện một cuộc điều tra về tần
suất thiếu hụt vitamin D trên 20289 công dân
nam nữ sống độc lập trong khoảng thời gian từ
2002-2004. Người tham gia nghiên cứu được
chia thành 3 nhóm tuổi từ 1-5, 20-49, và từ 70
tuổi trở lên. Tần suất thiếu hụt vitamin D (dưới
50 nmol/l) ở nữ luôn cao hơn nam trong mỗi
nhóm tuổi(13). Ở trong nước, nghiên cứu của Hồ
Phạm Thục Lan và cộng sự cũng cho kết quả
tương tự. Nhìn chung, các nghiên cứu trên dân
số chung cho kết quả thiếu hụt vitamin D đều
thấy ở cả nam lẫn nữ, nhưng đặc biệt thiếu hụt
vitamin D nổi trội hơn ở nữ. Sự khác biệt này
cũng thấy được ở cả vùng nông thôn lẫn thành
thị(6). Hơn nữa, phụ nữ có thai(2,11) và cho con bú
thời gian dài(4) có nguy cơ thiếu hụt vitamin D
cao hơn. Sự khác biệt về thiếu hụt vitamin D
theo giới tính xảy ra có thể do sự khác biệt giữa
cách ăn mặc của 2 giới. Ở các nước châu Á, phơi
nắng không phổ biến do thời tiết nắng nóng
quanh năm và do quan niệm làn da trắng là tiêu
chuẩn của cái đẹp. Tương tự như kết quả của
chúng tôi, nghiên cứu của Marian L. Evatt và
cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D trên bệnh
nhân Parkinson cũng cao hơn ở nam 26,8 ± 8,5
ng/mL so với ở nữ là 25,4 ± 8,6 ng/mL. Nghiên
cứu của chúng tôi cho kết quả không có mối liên
quan giữa nồng độ vitamin D và tuổi. Tuy nhiên
trong nhiều nghiên cứu, kết quả cho thấy nồng
độ vitamin D giảm ở người cao tuổi. Tăng tuổi
thọ có liên quan đến giảm nồng độ vitamin D
trong huyết thanh(20) do sự tổng hợp 7-
dehydrocholesterol trong da giảm dần theo
tuổi(14). Một người 70 tuổi chỉ có khả năng sản
xuất 25 % cholecalciferol so với một thanh niên
khỏe mạnh. Hơn nữa, việc hạn chế các hoạt
động ngoài trời do già yếu và do thường mắc
các bệnh tuổi già làm người cao tuổi giảm tiếp
xúc với ánh nắng mặt trời, vì vậy làm giảm tổng
hợp vitamin D ở da. Nghiên cứu của Paul và
cộng sự trên bệnh nhân Parkinson cho thấy càng
lớn tuổi nồng độ vitamin D càng giảm, tuổi
trung bình phân bố theo tứ phân vị của nồng độ
vitamin D theo thứ tự tăng dần như sau: 63,8 ±
8,1, 62,2 ± 8,1, 61,2 ± 7,8, 60,0 ± 7,6 tuổi; (p<0,001).
Nghiên cứu của Marian trên bệnh nhân
Parkinson cũng cho thấy nồng độ vitamin D tỉ lệ
nghịch với tuổi lúc bắt đầu và khi kết thúc
nghiên cứu. Nghiên cứu ở Nhật trên dân số
chung cũng cho thấy nồng độ vitamin D thấp ở
người cao tuổi (trung bình 30 nmol/l) và cũng
thấp ở phụ nữ trẻ lứa tuổi dưới 30 (trung bình
34 nmol/l)(16). Nghiên cứu của Yan L và cộng sự
ở Đông bắc Trung Quốc trên 2 nhóm dân số trẻ
25-35 tuổi và già 65-75 tuổi cho thấy tỉ lệ thiếu
hụt vitamin D (<25 nmol/l) cao hơn ở nhóm cao
tuổi (26). Nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan và
cộng sự trên dân số chung cũng cho thấy tuổi là
một yếu tố tiên lượng độc lập của thiếu hụt
vitamin D, những người trên 60 tuổi có nguy cơ
thiếu hụt vitamin D cao hơn gấp 1,3 lần so với
người nhỏ hơn lứa tuổi này. Kết quả của nghiên
cứu của chúng tôi không đồng nhất với các
nghiên cứu khác có thể do chỉ khảo sát ở một
lứa tuổi hẹp, tuổi trung bình của dân số khoảng
63 tuổi, tuổi nhỏ nhất 47, lớn nhất 81. Do đo,
khó tìm thấy sự khác biệt về nồng độ vitamin D
giữa các lứa tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy nồng độ vitamin D càng giảm khi thời gian
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 325
điều trị Parkinson càng dài (p=0,03). Điều này có
thể giải thích do càng ở giai đoạn muộn của
bệnh, bệnh nhân càng ít có cơ hội tiếp xúc với
ánh nắng mặt trời do hạn chế về vận động. Tuy
nhiên, nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên
cứu khác không cho kết quả nhất quán. Nghiên
cứu của Marian và cộng sự về thiếu hụt vitamin
D trên bệnh nhân Parkinson, bệnh nhân
Alzheimer và nhóm chứng ghi nhận thời gian
mắc bệnh dài hơn ở nhóm bệnh nhân Parkinson
nhưng không có mối liên quan giữa nồng độ
vitamin D và thời gian mắc bệnh (p=0,35 và 0,11,
Pearson test, p tương ứng lần lượt cho nhóm
bệnh nhân Alzheimer và nhóm bệnh nhân
Parkinson). Nghiên cứu của Marian và cộng sự
khảo sát sự thay đổi nồng độ vitamin D trên
bệnh nhân Parkinson ở thời điểm kết thúc so với
lúc bắt đầu nghiên cứu (thời gian trung bình là
18,9 ± 13,1 tháng) cho thấy nồng độ vitamin D
không giảm mà còn tăng lên theo thời gian với
giá trị lúc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu tương
ứng lần lượt là 26,3 ± 8,6 ng/mL và 31,3 ± 9,0
ng/mL, tần suất thiếu hụt vitamin D (< 30 ng/ml)
lúc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu tương ứng
lần lượt là 69,4% và 51,6%. Kết quả này chứng tỏ
tình trạng thiếu vitamin D không đơn thuần là
hậu quả của bệnh Parkinson vì nếu thiếu hụt
vitamin D chỉ do Parkinson gây ra thì nồng độ
vitamin D phải ngày càng giảm theo thời gian bị
bệnh. Do đó, nhiều khả năng là tình trạng thiếu
hụt vitamin D lâu dài đã hiện diện trước khi có
biểu hiện lâm sàng bệnh Parkinson và có thể
đóng vai trò trong sinh bệnh học của bệnh
Parkinson. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
nồng độ vitamin D hơi cao hơn ở nhóm dân số
có sử dụng thuốc lá và cà phê so với nhóm
không tiếp xúc, nhưng các kết quả này đều
không có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu khác
cho kết quả trái ngược như nghiên cứu của Paul
cho thấy hút thuốc lá càng nhiều, nồng độ
vitamin D càng giảm với tỉ lệ % người hút thuốc
theo tứ phân vị nồng độ vitamin D từ thấp đến
cao theo thứ tự lần lượt là 22.3 - 17.3 - 18.8 -
15.6% (p=0,002).
KẾT LUẬN
100% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D (<
30ng/ml). Nồng độ vitamin D huyết thanh có
liên quan với giới nữ, liên quan đến thời gian bị
bệnh. Nồng độ vitamin D huyết thanh có
khuynh hướng cao hơn ở nhóm bệnh nhân có
hút thuốc lá hoặc có uống cà phê. Trong tương
lai, cần có những nghiên cứu dịch tễ học tiến
cứu trong thời gian dài về tình trạng vitamin D
và tỉ lệ mới mắc bệnh Parkinson sau đó để xác
định rõ mối liên quan nhân quả giữa thiếu hụt
vitamin D với nguy cơ mắc bệnh Parkinson.
Đồng thời cần có những thử nghiệm can thiệp
trong thời gian dài về điều trị bổ sung vitamin D
cho những bệnh nhân Parkinson bị thiếu hụt để
đánh giá cải thiện các triệu chứng của bệnh hay
không. Nên xét nghiệm vitamin D trong huyết
thanh thường qui ở bệnh nhân Parkinson do tỉ
lệ thiếu hụt vitamin D cao trên nhóm dân số
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bender D.A., Earl C.J., Lees A.J. (1979). Niacin depletion in
Parkinsonian patients treated with L-Dopa, benserazide, and
carbidopa. Clin Sci 56: 89-93.
2. Bowyer L., Catling-Paull C., Diamond T. et al (2008). Vitamin D,
parathyroid hormone and calcium levels in pregnant women
and their neonates. Clin Endocrinol (Oxf). doi:10.1111/j.1365-
2265.2008.03316.x
3. Brooks A.l., Chadwick C.A., Gelbard H.A., Cory-Slechta D.A.,
Federoff HJ (1999). Paraquat elicited neurobehavioral syndrome
caused by dopaminergic neuron loss. Brain Res 823:1-10.
4. Challa A., Ntourntoufi A., Cholevas V. et al (2005). Breastfeeding
and vitamin D status in Greece during the first 6 months of life.
Eur J Pediatr 164:724–729
5. El-Hajj Fuleihan G., Deeb M. (1999). Hypovitaminosis in a sunny
country. N Engl J Med 340:1840–1841
6. Harinarayan C.V., Ramalakshmi T., Prasad U.V. et al (2007).
High prevalence of low dietary calcium, high phytate
consumption, and vitamin D deficiency in healthy south Indians.
Am J Clin Nutr 85:1062–1067
7. Hirsch E.C., Brandel J.P., Galle P., et al (1991). Iron and
aluminum increase in the substantia nigra of patients with
Parkinson disease: an X-ray microanalysis. J Neurochem 56:446-
451.
8. Holick M.F. (2006). High prevalence of vitamin D inadequacy
and implications for health. Mayo Clin Proc.;81:353–373
9. Holick M.F. (2006). Resurrection of vitamin D deficiency and
rickets. J Clin Invest.;116:2062–2072.
10. Ho-Pham T.L., Nguyen N.D., Lai T.Q., Eisman J.A., Nguyen TV
(2010). Vitamin D status and parathyroid hormone in an urban
population in Vietnam. Osteoporos Int
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 326
11. Judkins A., Eagleton C. (2006). Vitamin D deficiency in pregnan