Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 321
06 TÌNH TRẠNG VITAMIN D HUYẾT THANH 
CỦA BỆNH NHÂN BỆNH PARKINSON 
Nguyễn Thi Hùng*, Nguyễn Lê Minh Trang* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: đánh giá tình trạng vitamin D trong máu bệnh nhân bệnh Parkinson. 
Phương pháp nghiên cứu: 33 bệnh nhân Parkinson đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương được 
khảo sát qua hỏi bệnh, thăm khám và xét nghiệm vitamin D huyết thanh. 
Kết quả: có 12 nam chiếm tỷ lệ 36,4%, 21 nữ chiếm 63,6%, tuổi trung bình là 62,64 tuổi; tuổi khởi phát 
bệnh Parkinson trung bình là 55,73 tuổi. Bệnh nhân ở giai đoạn một và hai của Hoehn và Yahr chiếm tỷ lệ 
84,8%. Điểm UPDRS trung bình là 40,73. Các yếu tố nguy cơ thúc đẩy như sống ở nông thôn chiếm 18,25%, 
uống nước giếng 18,2%, tiếp xúc thuốc trừ sâu 15,2%, làm nghề nông 12,1%, chấn thương đầu 9,1%. Các yếu 
tố bảo vệ như hút thuốc lá chiếm 12,1% và uống cà phê 30,3%. Có 30,3% số bệnh nhân được đơn trị liệu với 
levodopa và 69,7% phối hợp levodopa với các thuốc khác. Có 100% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D (< 
30ng/ml) với nồng độ vitamin D trung bình là 11,21 ng/ml. Nồng độ vitamin đặc biệt thấp ở nữ giới và ở bệnh 
nhân có thời gian mắc bệnh Parkinson dài. 
Kết luận: thiếu hụt vitamin D phổ biến ở bệnh nhân bệnh Parkinson và tình trạng vitamin D thấp có liên 
quan đến giới nữ, thời gian mắc bệnh Parkinson. 
Từ khóa: bệnh Parkinson, vitamin D 
ABSTRACT 
VITAMIN D STATUS IN PATIENTS WITH PARKINSON’S DISEASE 
Nguyen Thi Hung, Nguyen Le Minh Trang 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 321 - 326 
Objectives: evaluating the serum vitamin D status in patients with Parkinson’s disease. 
Methods: survey, examination and blood test for serum vitamin D on 33 Parkinson’s disease patients. 
Results: Men make up 36.4%, women 63.6%, the average age is 62.64 years old, the mean onset age is 55.73 
years old. The average UPDRS score is 40.73 and 84.8% of the patients are in the first and second stage of Hoehn 
and Yahr. Many patients have the antecedent of living in rural areas 18.25%, drinking well water 18.2%, 
exposure to pesticide/herbicide 15.2%, farming 12.1%, head trauma 9.1%, smoking 12.1% and cosuming coffee 
30.3%. Monothepary with levodopa is 30.3%, polythepary with levodopa and other antiparkinson drugs is 
69.7%. 100% of the patients are vitamin D insufficient (< 30ng/ml) and the mean serum vitamin D is 11.21 
ng/ml. The hypovitamin D status is significantly correlated with female and Parkinson’s disease duration. 
Conclusion: high prevalence of vitamin D insufficiency in Parkinson’s disease and the hypovitamin D 
status is correlated with female and Parkinson’s disease duration. 
Keywords: Parkinson’s disease, vitamin D 
ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh Parkinson là bệnh đứng hàng thứ hai 
* Bệnh viện Nguyễn Tri Phương, TP Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc BS Nguyễn Lê Minh Trang, ĐT: 0903 780 362, Email: 
[email protected] 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 322
trong các bệnh thoái hóa của hệ thần kinh trung 
ương có thể gây tàn phế và giảm chất lượng 
sống. Căn nguyên của bệnh Parkinson là do sự 
tương tác giữa yếu tố di truyền và các yếu tố 
môi trường như tiếp xúc MPTP(12), tiếp xúc với 
thuốc trừ sâu(23) và thuốc diệt cỏ(3), tiếp xúc với 
kim loại nặng(7); tiếp xúc với hóa chất nông 
nghiệp(18). Ngoài ra, người ta còn thấy bệnh 
nhân Parkinson bị thiếu hụt một số vitamin như 
các vitamin nhóm B(1), vitamin C(19) và sự bổ 
sung các vitamin này có làm cải thiện phần nào 
triệu chứng bệnh(25). Trong vài năm gần đây, 
một số nghiên cứu trên thế giới cho thấy có 
thiếu hụt vitamin D trong mẫu bệnh nhân bệnh 
Parkinson(15) và nồng độ thấp của vitamin D 
trong máu khi còn trẻ có thể là một yếu tố nguy 
cơ đưa đến bệnh Parkinson khi về già(17). Tại Việt 
Nam, chỉ mới có công trình nghiên cứu về tần 
suất thiếu hụt vitamin D ở người dân bình 
thường(10), chưa có công trình nghiên cứu nào về 
tần suất thiết hụt vitamin D ở bệnh nhân bệnh 
Parkinson. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu: "Khảo sát nồng độ vitamin D trong 
máu bệnh nhân bệnh Parkinson" với các mục 
tiêu: khảo sát đặc điểm lâm sàng bệnh nhân 
bệnh Parkinson, nồng độ vitamin D trong máu 
bệnh nhân bệnh Parkinson và mối liên quan 
giữa nồng độ vitamin D với các đặc điểm lâm 
sàng của bệnh Parkinson. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định bệnh 
Parkinson theo định nghĩa của Douglas J. Gelb 
và cộng sự, đến khám tại bệnh viện Nguyễn Tri 
Phương trong thời gian từ tháng 1/2011 đến 
tháng 5/ 2011, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
Bệnh nhân bị hội chứng Parkinson thứ phát, 
mắc các bệnh thoái hóa thần kinh có kèm hội 
chứng Parkinson và bệnh nhân từ chối tham gia 
nghiên cứu. 
Thu thập số liệu 
Phỏng vấn trực tiếp theo bảng thu thập số 
liệu, thăm khám và xét nghiệm vitamin D huyết 
thanh của bệnh nhân. Địa điểm thực hiện: 
phòng khám Thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri 
Phương. 
Xử lý số liệu 
Số liệu được mã hóa và phân tích bằng phần 
mềm SPSS 18 
Các yếu tố khảo sát 
Giới tính, tuổi, các yếu tố nguy cơ, tuổi khởi 
phát bệnh Parkinson, chế độ trị liệu hiện tại, 
thang điểm UPDRS, giai đoạn Hoehn và Yahr, 
nồng độ vitamin D huyết thanh. 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Số bệnh nhân được khảo sát là 33, có 12 nam 
chiếm tỷ lệ 36,4%, 21 nữ chiếm 63,6%, tuổi trung 
bình là 62,64 tuổi; tuổi khởi phát bệnh Parkinson 
trung bình là 55,73 tuổi. Bệnh nhân ở giai đoạn 
một và hai của Hoehn và Yahr chiếm tỷ lệ 
84,8%. Điểm UPDRS trung bình là 40,73. Các 
yếu tố nguy cơ thúc đẩy như sống ở nông thôn 
chiếm 18,2%, uống nước giếng 18,2%, tiếp xúc 
thuốc trừ sâu 15,2%, làm nghề nông 12,1%, chấn 
thương đầu 9,1%. Các yếu tố bảo vệ như hút 
thuốc lá chiếm 12,1% và uống cà phê 30,3%. Có 
30,3% số bệnh nhân được đơn trị liệu với 
levodopa và 69,7% phối hợp levodopa với các 
thuốc khác. Có 100% bệnh nhân bị thiếu hụt 
vitamin D (< 30ng/ml) với nồng độ vitamin D 
trung bình là 11,21 ng/ml. 
Bảng: Các đặc điểm lâm sang của 33 bệnh nhân 
Parkinson 
Đặc điểm 
Nữ, % 63,6% 
Tuổi trung bình 62,64 tuổi 
Tuổi khởi phát bệnh Parkinson trung bình 55,73 tuổi 
Điểm UPDRS trung bình 40,73 
Giai đoạn 1 và 2 của Hoehn và Yahr 84,8% 
Sống ở nông thôn 18,2% 
Uống nước giếng 18,2% 
Tiếp xúc thuốc trừ sâu 15,2% 
Làm nghề nông 12,1% 
Chấn thương đầu 9,1% 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 323
Đặc điểm 
Hút thuốc lá 12,1% 
Uống cà phê 30,3% 
Phối hợp levodopa với thuốc khác 69,7% 
Nồng độ vitamin D trung bình 11,21 ng/ml 
Bệnh nhân nữ có nồng độ vitamin D thấp 
hơn bệnh nhân nam với giá trị tương ứng lần 
lượt là: 9,54 và 14,14 ng/ml (p = 0.046, t Student). 
Vitamin D huyết thanh càng giảm khi thời gian 
điều trị bệnh Parkinson càng dài (p = 0,03; R 
square). Nồng độ vitamin D huyết thanh có 
khuynh hướng cao hơn ở nhóm bệnh nhân 
thường xuyên hút thuốc lá (p=0,198, t Student) 
hoặc có uống cà phê (p=0,131, t Student). 
BÀN LUẬN 
Nồng độ vitamin D trung bình của các bệnh 
nhân Parkinson trong nghiên cứu của chúng tôi 
là 11,21 ± 6,43 ng/ml (28 nmol/l) thấp hơn mức 
khuyến cáo 30-60ng/ml.(8,9) Như vậy 100% bệnh 
nhân Parkinson trong nghiên cứu của chúng tôi 
bị thiếu hụt vitamin D. Các nghiên cứu dịch tễ 
học trên quần thể người bình thường cho thấy 
thiếu hụt vitamin D rất phổ biến. Phân tích gộp 
gồm 394 nghiên cứu với 33266 cá thể của T. 
Hagenau và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin 
D trung bình toàn cầu là 54 ± 1,4 nmol/l. Riêng ở 
Việt Nam, nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan 
và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D trung 
bình trên quần thể người bình thường ở thành 
phố Hồ Chí Minh ở nam là 36,8 ± 10,2 ng/mL 
cao hơn ở nữ là 30,1 ± 5,9; (p<0,0001). Tần suất 
thiếu hụt vitamin D ở nghiên cứu này (dưới 30 
ng/ml) ở nam cũng thấp hơn hẳn ở nữ với tỷ lệ 
lần lượt là 20% và 46%. Tác giả kết luận sự thiếu 
hụt vitamin D phổ biến ngay cả ở vùng nhiệt 
đới, và phụ nữ có nguy cơ thiếu vitamin D 
nhiều hơn nam. Trong các nghiên cứu khác trên 
bệnh nhân Parkinson, kết quả cũng cho thấy có 
sự thiếu hụt vitamin D với mức độ nghiêm 
trọng hơn hẳn so với quần thể bình thường. 
Nghiên cứu của Paul Knekt và cộng sự cho thấy 
nồng độ vitamin D trung bình của bệnh nhân 
Parkinson trước khi khởi phát bệnh là 36,3 
nmol/l thấp hơn khi so với nhóm chứng là 41,8 
nmol/l (p<0,05). Một nghiên cứu đoàn hệ của 
Marian L. Evatt và cộng sự trên 157 bệnh nhân 
Parkinson giai đoạn sớm cũng cho thấy nồng độ 
vitamin D thấp cả ở giai đoạn bắt đầu và giai 
đoạn kết thúc nghiên cứu với giá trị lần lượt là 
26,3 ± 8,6 ng/mL và 31,3 ± 9,0 ng/mL. Nghiên 
cứu này cũng cho thấy tần suất thiếu hụt 
vitamin D (dưới 30 ng/ml) là 69,4% lúc bắt đầu 
nghiên cứu và 51,6% lúc kết thúc nghiên cứu. 
Một nghiên cứu khác cũng của Marian L. Evatt 
và cộng sự so sánh tần suất thiếu hụt vitamin D 
của bệnh nhân Parkinson so với quần thể bệnh 
nhân Alzheimer và quần thể người bình thường 
cho thấy tần suất thiếu hụt vitamin D (<30 
ng/mL) ở bệnh nhân Parkinson cao hơn hẳn so 
với nhóm chứng và nhóm bệnh nhân Alzheimer 
với tần suất tương ứng lần lượt là 55%, 36% và 
41% (p=0,02). Đồng thời, kết quả cũng cho thấy 
nồng độ vitamin D trung bình của bệnh nhân 
Parkinson cũng thấp hơn bệnh nhân Alzheimer 
và nhóm chứng với giá trị tương ứng lần lượt là 
31,9 ± 13,6 ng/mL, 34,8 ± 15,4 ng/mL và 37,0 ± 
14,5 ng/mL, p=0,03). Một nghiên cứu ở Nhật của 
Sato và cộng sự trên bệnh nhân Parkinson cho 
thấy nguy cơ gãy xương đùi cao với giảm chỉ số 
khối xương, giảm mật độ xương, giảm canxi 
huyết thanh và nồng độ vitamin D trung bình 
rất thấp chỉ 4ng/ml.(21) Một nghiên cứu mới đây 
của Sato và cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D 
huyết thanh của 142 bệnh nhân Parkinson thấp 
29,7± 16,3 nmol/l khi so sánh với 99 người nhóm 
chứng là 83,2 ± 7,7 nmol/l. Như vậy, các nghiên 
cứu trên dân số chung và trên bệnh nhân 
Parkinson cho thấy nồng độ vitamin D ở bệnh 
nhân Parkinson thấp hơn so với nồng độ 
vitamin D ở người bình thường. Nghiên cứu 
Mini-Finland của Paul và cộng sự đã cung cấp 
những dữ kiện đầu tiên đầy hứa hẹn về tình 
trạng thiếu hụt vitamin D có liên quan đến nguy 
cơ mắc bệnh Parkinson: tứ phân vị 25 của nồng 
độ vitamin D (được đo hàng chục năm trước khi 
khởi phát bệnh Parkinson) là yếu tố tiên đoán 
tăng nguy cơ bị bệnh Parkinson. Tuy nhiên, vẫn 
cần thêm nhiều nghiên cứu ở cả lĩnh vực cơ bản 
và lâm sàng để hiểu rõ chính xác vai trò, cơ chế 
và nồng độ vitamin D tối ưu trong mối liên 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 324
quan với bệnh Parkinson. Hiện tại, những kết 
quả từ các nghiên cứu can thiệp trong lĩnh vực 
té ngã và gãy xương chứng minh được nồng độ 
vitamin D tối ưu lớn hơn 30-40 ng/ml. Tỷ lệ 
thiếu hụt vitamin D ở nữ giới cao hơn so với 
nam giới trong nghiên cứu của chúng tôi nhất 
quán với các nghiên cứu khác trong và ngoài 
nước cả trên quần thể người bình thường và trên 
quần thể bệnh nhân Parkinson. Tỷ lệ thiếu hụt 
vitamin D trên quần thể người bình thường ở nữ 
giới cao hơn so với nam giới tìm thấy được 
trong các nghiên cứu trên thế giới. Nghiên cứu 
của The European Action on Nutrition and 
Health-Survey (EURONUT-SENECA) ở người 
cao tuổi sống độc lập cho thấy nồng độ vitamin 
D ở nam giới luôn cao hơn nữ giới(24). Tại Trung 
Đông, một nghiên cứu tại Li Băng cho thấy tần 
suất thiếu hụt vitamin D (dưới 25 nmol/l) ở nam 
là 37% thấp hơn ở nữ là 56%(5). Tại Mỹ, Tổ chức 
dinh dưỡng và sức khỏe quốc gia- The national 
health and nutrition examination survey 
(NHANES) thực hiện một cuộc điều tra về tần 
suất thiếu hụt vitamin D trên 20289 công dân 
nam nữ sống độc lập trong khoảng thời gian từ 
2002-2004. Người tham gia nghiên cứu được 
chia thành 3 nhóm tuổi từ 1-5, 20-49, và từ 70 
tuổi trở lên. Tần suất thiếu hụt vitamin D (dưới 
50 nmol/l) ở nữ luôn cao hơn nam trong mỗi 
nhóm tuổi(13). Ở trong nước, nghiên cứu của Hồ 
Phạm Thục Lan và cộng sự cũng cho kết quả 
tương tự. Nhìn chung, các nghiên cứu trên dân 
số chung cho kết quả thiếu hụt vitamin D đều 
thấy ở cả nam lẫn nữ, nhưng đặc biệt thiếu hụt 
vitamin D nổi trội hơn ở nữ. Sự khác biệt này 
cũng thấy được ở cả vùng nông thôn lẫn thành 
thị(6). Hơn nữa, phụ nữ có thai(2,11) và cho con bú 
thời gian dài(4) có nguy cơ thiếu hụt vitamin D 
cao hơn. Sự khác biệt về thiếu hụt vitamin D 
theo giới tính xảy ra có thể do sự khác biệt giữa 
cách ăn mặc của 2 giới. Ở các nước châu Á, phơi 
nắng không phổ biến do thời tiết nắng nóng 
quanh năm và do quan niệm làn da trắng là tiêu 
chuẩn của cái đẹp. Tương tự như kết quả của 
chúng tôi, nghiên cứu của Marian L. Evatt và 
cộng sự cho thấy nồng độ vitamin D trên bệnh 
nhân Parkinson cũng cao hơn ở nam 26,8 ± 8,5 
ng/mL so với ở nữ là 25,4 ± 8,6 ng/mL. Nghiên 
cứu của chúng tôi cho kết quả không có mối liên 
quan giữa nồng độ vitamin D và tuổi. Tuy nhiên 
trong nhiều nghiên cứu, kết quả cho thấy nồng 
độ vitamin D giảm ở người cao tuổi. Tăng tuổi 
thọ có liên quan đến giảm nồng độ vitamin D 
trong huyết thanh(20) do sự tổng hợp 7-
dehydrocholesterol trong da giảm dần theo 
tuổi(14). Một người 70 tuổi chỉ có khả năng sản 
xuất 25 % cholecalciferol so với một thanh niên 
khỏe mạnh. Hơn nữa, việc hạn chế các hoạt 
động ngoài trời do già yếu và do thường mắc 
các bệnh tuổi già làm người cao tuổi giảm tiếp 
xúc với ánh nắng mặt trời, vì vậy làm giảm tổng 
hợp vitamin D ở da. Nghiên cứu của Paul và 
cộng sự trên bệnh nhân Parkinson cho thấy càng 
lớn tuổi nồng độ vitamin D càng giảm, tuổi 
trung bình phân bố theo tứ phân vị của nồng độ 
vitamin D theo thứ tự tăng dần như sau: 63,8 ± 
8,1, 62,2 ± 8,1, 61,2 ± 7,8, 60,0 ± 7,6 tuổi; (p<0,001). 
Nghiên cứu của Marian trên bệnh nhân 
Parkinson cũng cho thấy nồng độ vitamin D tỉ lệ 
nghịch với tuổi lúc bắt đầu và khi kết thúc 
nghiên cứu. Nghiên cứu ở Nhật trên dân số 
chung cũng cho thấy nồng độ vitamin D thấp ở 
người cao tuổi (trung bình 30 nmol/l) và cũng 
thấp ở phụ nữ trẻ lứa tuổi dưới 30 (trung bình 
34 nmol/l)(16). Nghiên cứu của Yan L và cộng sự 
ở Đông bắc Trung Quốc trên 2 nhóm dân số trẻ 
25-35 tuổi và già 65-75 tuổi cho thấy tỉ lệ thiếu 
hụt vitamin D (<25 nmol/l) cao hơn ở nhóm cao 
tuổi (26). Nghiên cứu của Hồ Phạm Thục Lan và 
cộng sự trên dân số chung cũng cho thấy tuổi là 
một yếu tố tiên lượng độc lập của thiếu hụt 
vitamin D, những người trên 60 tuổi có nguy cơ 
thiếu hụt vitamin D cao hơn gấp 1,3 lần so với 
người nhỏ hơn lứa tuổi này. Kết quả của nghiên 
cứu của chúng tôi không đồng nhất với các 
nghiên cứu khác có thể do chỉ khảo sát ở một 
lứa tuổi hẹp, tuổi trung bình của dân số khoảng 
63 tuổi, tuổi nhỏ nhất 47, lớn nhất 81. Do đo, 
khó tìm thấy sự khác biệt về nồng độ vitamin D 
giữa các lứa tuổi. Nghiên cứu của chúng tôi cho 
thấy nồng độ vitamin D càng giảm khi thời gian 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 325
điều trị Parkinson càng dài (p=0,03). Điều này có 
thể giải thích do càng ở giai đoạn muộn của 
bệnh, bệnh nhân càng ít có cơ hội tiếp xúc với 
ánh nắng mặt trời do hạn chế về vận động. Tuy 
nhiên, nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên 
cứu khác không cho kết quả nhất quán. Nghiên 
cứu của Marian và cộng sự về thiếu hụt vitamin 
D trên bệnh nhân Parkinson, bệnh nhân 
Alzheimer và nhóm chứng ghi nhận thời gian 
mắc bệnh dài hơn ở nhóm bệnh nhân Parkinson 
nhưng không có mối liên quan giữa nồng độ 
vitamin D và thời gian mắc bệnh (p=0,35 và 0,11, 
Pearson test, p tương ứng lần lượt cho nhóm 
bệnh nhân Alzheimer và nhóm bệnh nhân 
Parkinson). Nghiên cứu của Marian và cộng sự 
khảo sát sự thay đổi nồng độ vitamin D trên 
bệnh nhân Parkinson ở thời điểm kết thúc so với 
lúc bắt đầu nghiên cứu (thời gian trung bình là 
18,9 ± 13,1 tháng) cho thấy nồng độ vitamin D 
không giảm mà còn tăng lên theo thời gian với 
giá trị lúc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu tương 
ứng lần lượt là 26,3 ± 8,6 ng/mL và 31,3 ± 9,0 
ng/mL, tần suất thiếu hụt vitamin D (< 30 ng/ml) 
lúc bắt đầu và kết thúc nghiên cứu tương ứng 
lần lượt là 69,4% và 51,6%. Kết quả này chứng tỏ 
tình trạng thiếu vitamin D không đơn thuần là 
hậu quả của bệnh Parkinson vì nếu thiếu hụt 
vitamin D chỉ do Parkinson gây ra thì nồng độ 
vitamin D phải ngày càng giảm theo thời gian bị 
bệnh. Do đó, nhiều khả năng là tình trạng thiếu 
hụt vitamin D lâu dài đã hiện diện trước khi có 
biểu hiện lâm sàng bệnh Parkinson và có thể 
đóng vai trò trong sinh bệnh học của bệnh 
Parkinson. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
nồng độ vitamin D hơi cao hơn ở nhóm dân số 
có sử dụng thuốc lá và cà phê so với nhóm 
không tiếp xúc, nhưng các kết quả này đều 
không có ý nghĩa thống kê. Các nghiên cứu khác 
cho kết quả trái ngược như nghiên cứu của Paul 
cho thấy hút thuốc lá càng nhiều, nồng độ 
vitamin D càng giảm với tỉ lệ % người hút thuốc 
theo tứ phân vị nồng độ vitamin D từ thấp đến 
cao theo thứ tự lần lượt là 22.3 - 17.3 - 18.8 - 
15.6% (p=0,002). 
KẾT LUẬN 
100% bệnh nhân bị thiếu hụt vitamin D (< 
30ng/ml). Nồng độ vitamin D huyết thanh có 
liên quan với giới nữ, liên quan đến thời gian bị 
bệnh. Nồng độ vitamin D huyết thanh có 
khuynh hướng cao hơn ở nhóm bệnh nhân có 
hút thuốc lá hoặc có uống cà phê. Trong tương 
lai, cần có những nghiên cứu dịch tễ học tiến 
cứu trong thời gian dài về tình trạng vitamin D 
và tỉ lệ mới mắc bệnh Parkinson sau đó để xác 
định rõ mối liên quan nhân quả giữa thiếu hụt 
vitamin D với nguy cơ mắc bệnh Parkinson. 
Đồng thời cần có những thử nghiệm can thiệp 
trong thời gian dài về điều trị bổ sung vitamin D 
cho những bệnh nhân Parkinson bị thiếu hụt để 
đánh giá cải thiện các triệu chứng của bệnh hay 
không. Nên xét nghiệm vitamin D trong huyết 
thanh thường qui ở bệnh nhân Parkinson do tỉ 
lệ thiếu hụt vitamin D cao trên nhóm dân số 
này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bender D.A., Earl C.J., Lees A.J. (1979). Niacin depletion in 
Parkinsonian patients treated with L-Dopa, benserazide, and 
carbidopa. Clin Sci 56: 89-93. 
2. Bowyer L., Catling-Paull C., Diamond T. et al (2008). Vitamin D, 
parathyroid hormone and calcium levels in pregnant women 
and their neonates. Clin Endocrinol (Oxf). doi:10.1111/j.1365- 
2265.2008.03316.x 
3. Brooks A.l., Chadwick C.A., Gelbard H.A., Cory-Slechta D.A., 
Federoff HJ (1999). Paraquat elicited neurobehavioral syndrome 
caused by dopaminergic neuron loss. Brain Res 823:1-10. 
4. Challa A., Ntourntoufi A., Cholevas V. et al (2005). Breastfeeding 
and vitamin D status in Greece during the first 6 months of life. 
Eur J Pediatr 164:724–729 
5. El-Hajj Fuleihan G., Deeb M. (1999). Hypovitaminosis in a sunny 
country. N Engl J Med 340:1840–1841 
6. Harinarayan C.V., Ramalakshmi T., Prasad U.V. et al (2007). 
High prevalence of low dietary calcium, high phytate 
consumption, and vitamin D deficiency in healthy south Indians. 
Am J Clin Nutr 85:1062–1067 
7. Hirsch E.C., Brandel J.P., Galle P., et al (1991). Iron and 
aluminum increase in the substantia nigra of patients with 
Parkinson disease: an X-ray microanalysis. J Neurochem 56:446-
451. 
8. Holick M.F. (2006). High prevalence of vitamin D inadequacy 
and implications for health. Mayo Clin Proc.;81:353–373 
9. Holick M.F. (2006). Resurrection of vitamin D deficiency and 
rickets. J Clin Invest.;116:2062–2072. 
10. Ho-Pham T.L., Nguyen N.D., Lai T.Q., Eisman J.A., Nguyen TV 
(2010). Vitamin D status and parathyroid hormone in an urban 
population in Vietnam. Osteoporos Int 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 326
11. Judkins A., Eagleton C. (2006). Vitamin D deficiency in pregnan