50 tần suất rối loạn đi tiểu tại Cần Thơ

Đặt vấn đề: Tỷ lệ rối loạn đi tiểu rất cao ở cả hai giới, lần lượt ở nam và nữ là 41% và 37%. Rối loạn đi tiểu liên quan đến rất nhiều yếu tố, và các yếu tố này không đồng nhất giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới. Đó là lý do chúng tôi làm đề tài này ở Cần thơ. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ IPSS>7 ở nam từ 50 tuổi trở lên, tiểu rỉ ở nữ từ 50 tuổi. Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng tham gia là tất cả nam và nữ từ 50 tuổi trở lên. Các đối tượng nam được phỏng vấn bằng bảng IPSS, các đối tượng nữ được phỏng vấn để xác định sự hiện diện của tiểu rỉ. Các yếu tố nguy cơ được kiểm định bằng Odds Ratio để xác định sự liên quan. Kết quả: Tỷ lệ IPSS>7 là 4,5%. Tỷ lệ tiểu rỉ là 4%. Các yếu tố có OR lớn hơn 1 với CI 95% của nam là tăng huyết áp, suy thận mạn, tiểu đường, sỏi niệu, bướu tiền liệt tuyến. Các yếu tố lớn hơn 1 với CI 95% của nữ là BMI>25, tiền sử phẫu thuật vùng chậu, nhiễm trùng tiểu, tiểu đường, tăng huyết áp, suy thận mạn. Kết luận: Tần suất rối loạn đi tiểu ở Việt Nam thấp hơn so với thế giới, các yếu tố nguy cơ cũng không hoàn toàn đồng nhất với các khu vực khác

pdf4 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 50 tần suất rối loạn đi tiểu tại Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  351 50 TẦN SUẤT RỐI LOẠN ĐI TIỂU TẠI CẦN THƠ  Trần Văn Nguyên*, Huỳnh Công Bằng*, Lê Trần Thanh Thảo*  TÓM TẮT  Đặt vấn đề: Tỷ lệ rối loạn đi tiểu rất cao ở cả hai giới, lần lượt ở nam và nữ là 41% và 37%. Rối loạn đi  tiểu liên quan đến rất nhiều yếu tố, và các yếu tố này không đồng nhất giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới.  Đó là lý do chúng tôi làm đề tài này ở Cần thơ.  Mục tiêu: Xác định tỷ lệ IPSS>7 ở nam từ 50 tuổi trở lên, tiểu rỉ ở nữ từ 50 tuổi.  Đối tượng – phương pháp nghiên cứu: Đây là một nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng tham gia là  tất cả nam và nữ từ 50 tuổi trở lên. Các đối tượng nam được phỏng vấn bằng bảng IPSS, các đối tượng nữ được  phỏng vấn để xác định sự hiện diện của tiểu rỉ. Các yếu tố nguy cơ được kiểm định bằng Odds Ratio để xác định  sự liên quan.  Kết quả: Tỷ lệ IPSS>7 là 4,5%. Tỷ lệ tiểu rỉ là 4%. Các yếu tố có OR lớn hơn 1 với CI 95% của nam là  tăng huyết áp, suy thận mạn, tiểu đường, sỏi niệu, bướu tiền liệt tuyến. Các yếu tố lớn hơn 1 với CI 95% của nữ  là BMI>25, tiền sử phẫu thuật vùng chậu, nhiễm trùng tiểu, tiểu đường, tăng huyết áp, suy thận mạn.  Kết  luận: Tần suất rối loạn đi tiểu ở Việt Nam thấp hơn so với thế giới, các yếu tố nguy cơ cũng không  hoàn toàn đồng nhất với các khu vực khác.  Từ khóa: Rối loạn đi tiểu, nam, nữ, yếu tố nguy cơ.  ABSTRACT  PREVALENCE OF LOWER URINARY TRACT SYMPTOMS IN CANTHO  Tran Van Nguyen, Huynh Cong Bang, Le Tran Thanh Thao   * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 351 ‐ 354  Introduction: Lower urinary tract symptoms (LUTS) has a high prevalence in both sex of 41% in men and  37% in women. It is caused by many factors and different in many countries. So, this research is done in Can  Tho.  Objectives: To evaluate the LUTS of men over 50 years of age with IPSS > 7, and urinary leak of women.  Patients and method: Descriptive cross section. All men and women of age of over 50 are chosen. IPSS  score and questionnaires are used. Risk factors are checked by Odds ratios.  Results:  IPSS > 7 is of 4.5%, urinary leak is 4%. OR>1 with CI 95% of men is of hypertension, chronic  renal insufficiency, diabetes mellitus, urolithiasis, BPH; of women is of BMI>25, history of pelvic intervention,  urinary tract infection, DM, hypertension, chronic renal insufficiency.  Conclusion: Prevalence of LUTS in cantho is much lower of that from other countries and the risk factors  are also different.  Key words: lower urinary tract symptoms, men, women, comorbidity  ĐẶT VẤN ĐỀ  Trước đây, rối loạn đi tiểu không được xem  là một vấn đề lâm sàng quan trọng cũng như là  một vấn đề đáng lưu ý của sức khỏe cộng đồng.  Các số liệu nghiên cứu về rối loạn đi tiểu rất hạn  chế ngay cả ở Hoa Kỳ, chủ yếu số liệu có được  trên các bệnh nhân tham gia khám chữa bệnh vì  một  căn  bệnh  nào  đó.  Tuy  nhiên,  từ  sau  các  * Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ  Tác giả liên lạc: BS. Trần Văn Nguyên  ĐT: 0913816650   Email: tvnguyen@ctump.edu.vn  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  352 nghiên  cứu  Olmsted  County  và  Flint  men  health’s, người  ta nhận  thấy  rằng  tần suất mắc  rối loạn đi tiểu trong cộng đồng  là rất  lớn: 34%  và 41%(1). Các con số này tương đương với tỉ  lệ  bệnh tăng huyết áp. Tần suất người có rối  loạn  đi tiểu nghiêm trọng là 3,3%. Con số này tương  đương với  các bệnh nguy hiểm hay gặp  trong  cộng đồng: Tai biến mạch máu não (2.2%), ung  thư (4,5%), nhồi máu cơ tim (4,5%) và bằng phân  nửa  đái  tháo  đường  (8,6%).  Từ  nghiên  cứu  BACH, người ta dự đoán rằng đến năm 2025 tại  Hoa Kỳ sẽ có 52 triệu người có rối loạn đi tiểu(5).  Rối  loạn  đi  tiểu  sẽ  có  tầm  quan  trọng  tương  đương với các bệnh  lý  tim mạch, và được xem  như là một dịch bệnh hiện đại. Tại Việt Nam nói  chung và tại Cần Thơ nói riêng, chưa có bất kỳ  nghiên cứu nào về tình hình.  Mục tiêu  Xác định tần suất các ông từ 50 tuổi trở lên bị  rối loạn đi tiểu với IPSS ≥7.  Xác định tần suất các bà từ 50 tuổi trở lên có  tiểu rỉ.  Xác định các yếu  tố nguy cơ  liên quan đến  rối loạn đi tiểu ở nam.  Xác định các yếu  tố nguy cơ  liên quan đến  tiểu rỉ ở nữ.  ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Thiết kế nghiên cứu  Đây  là một  nghiên  cứu  cắt  ngang mô  tả.  Chúng  tôi  sử  dụng  phương  pháp  chọn  mẫu  ngẫu nhiên  cụm. Trong  đó 3  trong  13 phường  của  quận Ninh Kiều  sẽ  được  đưa  vào  nghiên  cứu.  Đối tượng nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu là nam giới và nữ giới  trên từ 50 tuổi trở lên ở quận Ninh Kiều – Thành  Phố Cần Thơ.  Tiêu chuẩn chọn mẫu  Tiêu  chuẩn  chọn mẫu  là  tất  cả  đối  tượng  nam và nữ  từ 50  tuổi  trở  lên đang cư  trú  tại 3  phường Xuân Khánh, Hưng Lợi, Cái Khế thuộc  quận Ninh Kiều – Thành Phố Cần Thơ.  Tiêu chuẩn loại trừ  Các đối  tượng không  đồng ý  tham gia vào  nghiên  cứu,  các  đối  tượng  rối  loạn  tâm  thần  không có khả năng cung cấp thông tin cũng như  các đối tượng không cung cấp đầy đủ thông tin.  Địa điểm và thời gian nghiên cứu  Về thởi gian, nghiên cứu của chúng tôi chọn  thuận tiện từ tháng 5/2012 đến tháng 5/2013. Về  địa  điểm,  chúng  tôi  chọn  3  phường  Xuân  Khánh, Hưng Lợi, Cái Khế một cách ngẫu nhiên  từ 13 phường của quận Ninh Kiều vào nghiên  cứu.  Quy trình nghiên cứu  Bảng câu hỏi cho nam được thiết kế bao gồm  các  thông  tin  sau: Họ  và  tên  người  tham  gia  nghiên cứu, tuổi, số điện thoại, nghề nghiệp, các  bệnh  đang mắc,  các bệnh niệu khoa  đang mắc  và bảng điểm IPSS. Bảng điểm IPSS được chúng  tôi  tự phiên dịch  lại bằng  tiếng Việt  theo bảng  điểm IPSS tiếng Anh của WHO.  Bảng câu hỏi cho nữ được thiết kế bao gồm  các  thông  tin  sau:  họ  và  tên  người  tham  gia  nghiên cứu, tuổi, số điện thoại, nghề nghiệp, chỉ  số nhân trắc, thói quen hút thuốc, các bệnh đang  mắc, tiền sử sản khoa.  Chúng  tôi  có danh  sách những ông  từ  50  tuổi  trở  lên  từ  Trung  Tâm  Y  Tế  quận Ninh  Kiều. Trung Tâm Y Tế quận Ninh Kiều  cũng  liên  hệ  giúp  chúng  tôi  3  cán  bộ  y  tế  thuộc  3  trạm  y  tế  Xuân  Khánh, Hưng  Lợi,  Cái  Khế.  Chúng  tôi huấn  luyện việc sử dụng bảng câu  hỏi cho các cán bộ y tế này tại Trung Tâm Y Tế  quận Ninh  Kiều.  Sau  đó,  các  cán  bộ  này  về  trạm y tế của phường mình và huấn  luyện  lại  việc  sử  dụng  bảng  câu  hỏi  cho  các  cộng  tác  viên  thuộc  hội  Người  Cao  Tuổi  của  từng  phường. Các cộng tác viên này sẽ đến từng hộ  gia  đình  có  người  thuộc  đối  tượng  tham  gia  nghiên  cứu  và  lấy  thông  tin. Các  bộ  câu  hỏi  sau  đó  sẽ  được  gởi  về  lại  các  trạm  y  tế  của  từng phường và  chúng  tôi  liên hệ  lại với  các  cán bộ y  tế của  trạm để  lấy  lại các bộ câu hỏi  này.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  353 Cỡ mẫu  Dân số quận Ninh Kiều là khoảng 250 000  người.  Trong  đó  có  phân  nửa  là  nam  giới,  chiếm số lượng là 125 000 người. Dân số từ 50  tuổi  trở  lên  của quận  là  18%,  tính  ra  số nam  giới  từ 50  tuổi của quận  là 22 500 người. Tần  suất  rối  loạn  đi  tiểu  trung  bình  trong  các  nghiên  cứu  đã  thực  hiện  là  khoảng  15%.  Chúng  tôi muốn ước  tính  tỷ  lệ đàn ông bị rối  loạn đi tiểu với ước số không cao hơn hay thấp  hơn 2% dân số  thật. Do đó cỡ mẫu mà chúng  tôi chọn là 1500 người, con số này xấp xỉ toàn  bộ  số  đàn  ông  từ  50  tuổi  trở  lên  thuộc  3  phường Xuân Khánh, Hưng Lợi và Cái Khế.  Tương tự cỡ mẫu của nữ cũng là 1500.  Phân tích dữ liệu  Bảng câu hỏi cho nam được thiết kế bao gồm  họ và tên bệnh nhân, tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ,  bảng  đánh giá  IPSS và  các  tiền  sử bệnh  lý mà  bệnh  nhân  đã  và  đang mắc  phải.  Điểm  IPSS  được tính cho từng đối tượng dựa trên 7 câu hỏi  về  triệu chứng  rối  loạn đi  tiểu. Mỗi câu hỏi về  triệu chứng được thiết kế trả lời theo dạng Likert  scale, từ mức không có triệu chứng (0 điểm) đến  triệu  chứng  xuất  hiện  liên  tục  (5  điểm).  Đểm  IPSS là tổng điểm của 7 triệu chứng, điểm tổng  cộng dao động từ 0 đến 35 điểm. Khi phân tích,  chúng  tôi  phân  loại  rối  loạn  đi  tiểu  theo  tổng  điểm  bao  gồm  nhẹ  (0‐7),  trung  bình  (8‐19)  và  nặng (20‐35).  Bảng câu hỏi cho nữ được thiết kế bao gồm  họ và  tên bệnh nhân,  tuổi, địa chỉ, các bệnh  lý  bệnh nhân đang mắc bao gồm tiểu rỉ.  Chúng  tôi  sử dụng  tỷ  số  chênh Odds  ratio  để phát hiện  các  yếu  tố  nguy  cơ  bằng  việc  so  sánh giữa nhóm rối loạn đi tiểu nhẹ và nhóm rối  loạn đi tiểu trung bình trở lên. Mức độ liên quan  được diễn tả bằng odds ratio (OR) với 95% CI.  KẾT QUẢ  Có  1390  ông  cho  kết  quả  đủ  điều  kiện  để  phân  tích.  Số  lượng  này  của  các  bà  là  2209  người. Ở nam, số người mắc rối loạn đi tiểu mức  độ trung bình  là 56 (4% dân số nghiên cứu), số  người mắc  rối  loạn  đi  tiểu mức  độ  nặng  là  7  (0,5% dân số nghiên cứu). Như vậy,  tổng cộng  có 4,5% dân số nghiên cứu có rối loạn đi tiểu từ  mức độ trung bình trở lên. Ơ nữ. số người mắc  tiểu rỉ là 88 người, tương đương với 4% dân số  nghiên cứu.  Các yếu  tố được đưa vào xem xét xác định  yếu  tố nguy  cơ ở dân  số nam bao gồm: nhóm  tuổi,  tiểu đường,  tăng huyết áp, suy  thận mạn,  nhiễm  trùng  tiểu,  chấn  thương  hệ  niệu,  bướu  tiền liệt tuyến, sỏi niệu. Trong đó, các yếu tố tiểu  đường, tăng huyếp áp, suy thận mạn, bướu tiền  liệt tuyến, sỏi niệu có OR lớn hơn 1 với CI 95%  không chứa 1.  Các yếu tố được đưa vào xem xét xác định  yếu  tố nguy  cơ  ở dân  số nữ bao  gồm: nhóm  tuổi, tiểu đường, tăng huyết áp, suy thận mạn,  bướu giáp, ho, phẫu  thuật vùng chậu, sa  trực  tràng,  bệnh  về  thần  kinh,  nhiễm  trùng  tiểu.  Trong đó, các yếu  tố  tiền sử phẫu  thuật vùng  chậu, nhiễm  trùng  tiểu, BMI,  tiểu  tiểu đường,  tăng huyết áp, suy thận mạn có OR lớn hơn 1  với CI 95% không chứa 1.  BÀN LUẬN  Kết  quả  thu  thập  được  từ  nghiên  cứu  của  chúng tôi chỉ là 4,5% ở nam và 4% ở nữ. Con số  này  gần  tương  tự  con  số  của  Malaysia  (6%),  nhưng lại rất thấp so với con số của các nghiên  cứu  lớn  trên  thế giới cũng như các nghiên cứu  tại các quốc gia  láng giềng(6). Lý do nào  có  thể  giải thích cho sự khác biệt này? Rối loạn đi tiểu  có  rất nhiều yếu  tố được xem  là nguy cơ. Hoa  Kỳ có  tần suất rối  loạn đi  tiểu  là 18,7%(3). Quốc  gia này có tỷ lệ người béo phì là trên 30,8% và tỷ  lệ người tăng huyết áp là 31%(2). Các con số này  là lớn hơn nhiều so với con số béo phì của Việt  Nam là 0,6% và tăng huyết áp của Việt Nam là  16%(8). Con số béo phì của một Malaysia có  tần  suất rối loạn đi tiểu gần với Việt Nam hơn là 6%  thì  cũng  gần  tương  đồng  với  nước  ta  hơn:  9,6%(7). Tuy nhiên sự tương đồng của các con số  này cũng không giải thích hết được sự khác biệt  tỷ  lệ rối  loạn đi  tiểu ở các quốc gia khác nhau.  Na Uy có các con số béo phì và  tăng huyết áp  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu  354 còn  gần  Việt  Nam  hơn,  lần  lượt  là  8,3%  và  17,3%,  tuy nhiên  tần suất rối  loạn đi  tiểu ở đất  nước này vẫn lại gần tương đương với Hoa Kỳ  là 18,5%.  Mặc dù  đã cố gắng  làm  tốt nhất  trong khả  năng có thể, nghiên cứu của chúng tôi vẫn mắc  một số nhược điểm do hạn chế về nhân  lực và  tài  lực. Thứ nhất, chúng  tôi không có  trong  tay  một bản  IPSS  tiếng Việt được chuẩn hóa để sử  dụng. Do  chưa  được  chuẩn hóa,  có nhiều khả  năng  công  tác  phỏng  vấn  sẽ  không  đảm  bảo  được tính chính xác của thông tin cần hỏi và ghi  nhận. Thứ hai, chúng tôi phải sử dụng lực lượng  phỏng  vấn  viên  là  các  cộng  tác  viên  của  hội  Người Cao Tuổi thuộc từng phường. Lực lượng  này có ưu điểm là số lượng đông, và chấp nhận  thực hiện phỏng vấn với chi phí chấp nhận được  từ chúng tôi. Nhưng nhược điểm rất lớn của đội  ngũ này là thiếu tinh thần khoa học và không có  kiến thức chuyên môn.  Tại Việt Nam, tỷ lệ tăng huyết áp không có  sự khác biệt  lớn giữa  thành  thị và nông  thôn(8).  Tỷ lệ béo phì ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long  cũng có sự tương đồng với tỷ lệ ở các vùng khác  thuộc Việt Nam(8). Do đó, chúng tôi nghĩ có thể  khái quát hóa kết quả  tại quận Ninh Kiều  cho  các vùng khác tại Việt Nam.  Con số 4,5% của nam và 4% của nữ nhỏ hơn  nhiều so với con số trung bình của các quốc gia  khác trên thế giới. Vấn đề rối loạn đi tiểu có thể  xem như  không phải  là một  vấn  đề  đáng  báo  động ở Việt Nam nếu chỉ xem xét dựa trên tần  suất mắc  bệnh. Tuy nhiên,  chúng  ta  cần  thêm  các nghiên cứu về chi phí điều trị rối loạn đi tiểu  trước khi đi đến kết luận liệu rối loạn đi tiểu có  đáng  giành  được  quan  tâm  nhiều  hơn  không.  Kết  quả  của  nghiên  cứu  này  cũng  đặt  ra  việc  phải thực hiện lại các nghiên cứu dịch tễ đối với  các bệnh khác  tại Việt Nam do có sự khác biệt  giữa Việt Nam và thế giới.  KẾT LUẬN  Tần  suất  rối  loạn  đi  tiểu  ở  nam  giới  từ  50  tuổi  trở  lên  ở TP Cần Thơ  là 4,5%. Các yếu  tố  nguy cơ liên quan đến rối loạn đi tiểu ở nam là  tiểu  đường,  tăng  huyết  áp,  suy  thận mạn,  sỏi  niệu, bướu tiền liệt tuyến. Tần suất tiểu rỉ ở nữ  giới từ 50% tuổi trở lên ở TP Cần Thơ là 4%. Các  yếu tố nguy cơ liên quan đến tiểu rỉ ở nữ là tiểu  đường,  tăng  huyết  áp,  suy  thận mạn,  tiền  sử  phẫu  thuật  vùng  chậu,  nhiễm  trùng  tiểu  và  BMI>25. Tần suất ở Việt Nam thấp hơn nhiều so  với  tình hình chung của  thế giới và cũng có sự  khác biệt các yếu tố nguy cơ.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Aruna  V.S,  Wei  J.T,  Debra  J.J,  Rodney  L.D,  Cynthia  J.G,  Rosebud  O.R,  Michael  M.L,  Kathleen  A.C,  James  E.,  Schottenfeld  D.,  Jacobsen  S.J.  (2003).  Comparison  of  lower  urinary tract symptom severity and associated bother between  community‐dwelling  black  and  white  men:  the  Olmsted  County Study of Urinary Symptoms and Health Status and the  Flint Menʹs Health Study. Urology 61 (6):1086‐91.  2. CDC. (2011). Vital signs: prevalence, treatment, and control of  hypertension—United  States,  1999‐2002  and  2005‐2008.  MMWR 60 (4):103‐8.  3. Kupelian V Wei JT, OʹLeary MP, Kusek JW, Litman HJ, Link  CL, McKinlay  JB.  (2006).  Prevalence  of  lower  urinary  tract  symptoms  and  effect  on  quality  of  life  in  a  racially  and  ethnically  diverse  random  sample:  the  Boston  Area  Community  Health  (BACH)  Survey.  Arch  Intern  Med  166  (21):2381‐7.  4. Lê Thi. (2012). Xu hướng già hóa dân số ở Việt Nam hiện nay  và việc phát huy vai trò tích cực của người cao tuổi. Tạp chí  Khoa Học Xã Hội Việt Nam 44 (1):51‐54.  5. Litman  HJ  McKinlay  JB.  (2007).  The  future  magnitude  of  urological symptoms in the USA: projections using the Boston  Area Community Health survey. BJU International 100 (4):820‐ 25.  6. Mariappan P Chong WL.  (2006). Prevalence and correlations  of  lower  urinary  tract  symptoms,  erectile  dysfunction  and  incontinence  in  men  from  a  multiethnic  Asian  population:  Results of a regional population‐based survey and comparison  with industrialized nations. BJU International 98 (6):1264‐8.  7. Rampal  L  Rampal  S,  Azhar  MZ,  Rahman  AR.  (2008).  Prevalence, awareness, treatment and control of hypertension  in Malaysia: a national study of 16,440 subjects. Public Health  122 (1):11‐8.  8. Viện Dinh Dưỡng (2011), Kết quả điều tra Thừa cân ‐ béo phì  và một số yếu tố liên quan ở người Việt Nam 25‐ 64 tuổi, Viện  Dinh Dưỡng.  Ngày nhận bài báo      16‐05‐2012  Ngày phản biện nhận xét bài báo:  20‐06‐2013  Ngày bài báo được đăng:     15‐07‐2013