79 Kết quả vi phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ qua xoang bướm

Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ vi phẫu qua xoang bướm. Phương pháp: Mô tả tiến cứu dựa trên 140 bệnh nhân u tuyến yên được mổ bằng phương pháp vi phẫu qua xoang bướm tại Bệnh viện HN Việt Đức 1/2009 tới 12/2009. Đánh giá mức độ cắt bỏ khối u tuyến yên và tai biến trong phẫu thuật, biến chứng sau mổ, kết quả sớm sau mổ, kết quả xạ sau mổ. Mức độ cắt bỏ khối u được đánh giá bằng cách ghi nhận trong phẫu thuật và dựa trên hình ảnh chụp cộng hưởng từ sau mổ. Kết quả: 140 bệnh nhân u tuyến yên đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong đó bao gồm 52 nam (37,14%); 88 nữ (62,86%); tuổi ít nhất 16 và cao nhất 71; 66 u tuyến yên tăng tiết prolactine (47,14%); 52 u không tăng tiết (37,14%); 20 u tăng tiết GH và 2 u tăng tiết ACTH-bệnh Cushing. Tiếp cận và cắt bỏ khối u ở 140/140=100% bệnh nhân. Phải mổ lần 2 bằng phương pháp mở nắp sọ để lấy phần u xâm lấn sang bên ở 8/140 bệnh nhân (5,7%). Thời gian mổ nhanh nhất 45 phút và dài nhất 210 phút (trung bình 60± 15 phút). Trong mổ ghi nhận: rò nước não tủy 20/140=14,28%; chảy máu nhiều 6/140=4,29%. Tổn thương giải phẫu bệnh: 107 adenoma, 18 u hỗn hợp, 8 u tế bào ái toan, 7 tế bào kỵ màu. Lấy hết u 90/140=64,29%; lấy gần hết u 48/140=34,29% và lấy một phần khối u 2 bệnh nhân. Mức độ lấy hết u ở bệnh nhân u tuyến yên nhỏ là 9/9=100%; u tuyến yên lớn 81/131=61,83%; u tuyến yên nhóm loại A (Phân loại Hardy) 20/25=80%; nhóm B 63/71=88,73%; nhóm C 5/12=41,67%; nhóm D 2/14=14,29%; nhóm E 0/18=0%; u tuyến yên chưa điều trị 81/110=73,63%; u tuyến yên đã xạ trị 1/3=33,33%. Tử vong 3/140=2,14% . Biến chứng sớm sau mổ: đái nhạt 26/140=18,57%; chảy máu mũi nhiều 18/140=12,86%; chảy máu trong não 5/140=3,57%; rò nước não tủy 1 và viêm màng não 1 bệnh nhân. Kết quả xa sau điều trị: xét nghiệm nội tiết trở về bình thường 52/72=72,22%; suy tuyến yên 15/72=20,83%. U phát triển to hơn trước mổ sau 6 tháng ở 4 bệnh nhân. Kết luận: Vi phẫu thuật qua xoang bướm là phương pháp điều trị u tuyến yên an toàn, hiệu quả.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 647 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu 79 Kết quả vi phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ qua xoang bướm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 427 79 KẾT QUẢ VI PHẪU THUẬT U TUYẾN YÊN BẰNG ĐƯỜNG MỔ QUA XOANG BƯỚM Đồng Văn Hệ*, Lý Ngọc Liên* TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ vi phẫu qua xoang bướm. Phương pháp: Mô tả tiến cứu dựa trên 140 bệnh nhân u tuyến yên được mổ bằng phương pháp vi phẫu qua xoang bướm tại Bệnh viện HN Việt Đức 1/2009 tới 12/2009. Đánh giá mức độ cắt bỏ khối u tuyến yên và tai biến trong phẫu thuật, biến chứng sau mổ, kết quả sớm sau mổ, kết quả xạ sau mổ. Mức độ cắt bỏ khối u được đánh giá bằng cách ghi nhận trong phẫu thuật và dựa trên hình ảnh chụp cộng hưởng từ sau mổ. Kết quả: 140 bệnh nhân u tuyến yên đáp ứng đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong đó bao gồm 52 nam (37,14%); 88 nữ (62,86%); tuổi ít nhất 16 và cao nhất 71; 66 u tuyến yên tăng tiết prolactine (47,14%); 52 u không tăng tiết (37,14%); 20 u tăng tiết GH và 2 u tăng tiết ACTH-bệnh Cushing. Tiếp cận và cắt bỏ khối u ở 140/140=100% bệnh nhân. Phải mổ lần 2 bằng phương pháp mở nắp sọ để lấy phần u xâm lấn sang bên ở 8/140 bệnh nhân (5,7%). Thời gian mổ nhanh nhất 45 phút và dài nhất 210 phút (trung bình 60± 15 phút). Trong mổ ghi nhận: rò nước não tủy 20/140=14,28%; chảy máu nhiều 6/140=4,29%. Tổn thương giải phẫu bệnh: 107 adenoma, 18 u hỗn hợp, 8 u tế bào ái toan, 7 tế bào kỵ màu. Lấy hết u 90/140=64,29%; lấy gần hết u 48/140=34,29% và lấy một phần khối u 2 bệnh nhân. Mức độ lấy hết u ở bệnh nhân u tuyến yên nhỏ là 9/9=100%; u tuyến yên lớn 81/131=61,83%; u tuyến yên nhóm loại A (Phân loại Hardy) 20/25=80%; nhóm B 63/71=88,73%; nhóm C 5/12=41,67%; nhóm D 2/14=14,29%; nhóm E 0/18=0%; u tuyến yên chưa điều trị 81/110=73,63%; u tuyến yên đã xạ trị 1/3=33,33%. Tử vong 3/140=2,14% . Biến chứng sớm sau mổ: đái nhạt 26/140=18,57%; chảy máu mũi nhiều 18/140=12,86%; chảy máu trong não 5/140=3,57%; rò nước não tủy 1 và viêm màng não 1 bệnh nhân. Kết quả xa sau điều trị: xét nghiệm nội tiết trở về bình thường 52/72=72,22%; suy tuyến yên 15/72=20,83%. U phát triển to hơn trước mổ sau 6 tháng ở 4 bệnh nhân. Kết luận: Vi phẫu thuật qua xoang bướm là phương pháp điều trị u tuyến yên an toàn, hiệu quả. Từ khóa: qua xoang bướm, xâm lấn ABSTRACT THE RESULTS OF PITUITARY ADENOMAS MICROSURGERY BY TRANSSPHENOIDAL APPROACH Dong Van He, Ly Ngoc Lien* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 427 - 432 Objective: evaluate the results of pituitary adenomas microsurgery by transsphenoidal approach. Methods: prospective study based on 140 patients with pituitary adenomas operated by transsphenoidal microsurgery at Viet Duc hospital from 1/2009 to 12/2009. Evaluate the degree of tumor resection, the intra-op and post-op complications, early and late outcome. The degree of tumor resection were evaluated by recording intra-op and based on post-op MRI Results: 140 patients with pituitary tumors satisfied studied criteria, There are 52 males (37.14%) and 88 females (62.86%). Lowest age is 16 and highes is 71, 66 prolactinomas (47.14%), 52 non-secreting adenomas (37.14%), 20 GH-secreting tumors (acromegaly) và 2 ACTH-secreting tumors (Cushing’s disease) Approach and * Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Việt Đức Tác giả liên lạc: PGS TS Đồng Văn Hệ, ĐT: 0903256868, Email: dongvanhe2010@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 428 tuomor resection in 140/140=100% patients. Reoperation by transcranial approach to resect the invasive tumor in 8/140 patients (5.7%). Time to operate min 45 minutes, max 210 minutes. (mean 60± 15 minutes). Intra-op: CSF fistula 20/140=14.28%; severe hemorrhage 6/140=4.29%. Pathological findings: 107 adenoma, 18 mixed, 8 acidophil, 7 chromophobe. Totally resection 90/140=64.29%; near-totally 48/140=34.29% and partially 2 patients. Totally resection in microadenoma is 9/9=100%; macroadenoma 81/131=61.83%; group A (Hardy’s classification) 20/25=80%; group B 63/71=88.73%; group C 5/12=41.67%; group D 2/14=14.29%; group E 0/18=0%; no treatment 81/110=73.63%; post XRT 1/3=33.33%. Mortality 3/140=2.14% . Early complications: diabetes insipidous 26/140=18.57%; severe nasal hemorrhage 18/140=12.86%; intracranial hemorrhage 5/140=3.57%; CSF rhinorrhea 1 và meningitis 1 patients. Late outcome: hormonal balance 52/72=72.22%; hypopituitarism 15/72=20.83%. Recurrence after 6 months in 4 patients. Conclusion: transsphenoidal microsurgery is safe, effective treatment of pituitary adenoma. Keywords: transsphenoidal, invasive ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ qua xoang bướm đã được Schloffer sử dụng lần đầu tiên năm 1907 tại Áo. Nhưng vì nhiều lý do nên mãi tới thập niên 60 của thế kỷ trước, kỹ thuật này mới được áp dụng rộng rãi trong phẫu thuật u tuyến yên nói riêng và phẫu thuật u tầng trước nền sọ nói chung. Vi phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ qua xoang bướm lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam năm 2000 tại Bệnh viện Việt Đức. Chúng tôi đã áp dụng kỹ thuật này trong phẫu thuật nhiều loại khối u như u tuyến yên, u sọ hầu, nang Rathes, chordoma vùng rãnh trượt. Đường mổ này là sự lựa chọn đầu tiên khi phẫu thuật u tuyến yên. Đây là phẫu thuật thường quy tại Khoa Phẫu thuật Thần kinh, Bệnh viện Việt Đức. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sẽ đánh giá kết quả vi phẫu thuật u tuyến yên bằng đường mổ qua xoang bướm. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu mô tả tiến cứu dựa trên 140 bệnh nhân u tuyến yên được phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội từ tháng 1/2009 tới 12/2009. Tất cả bệnh nhân được nghiên cứu viên trực tiếp khám, đọc kết quả xét nghiệm, xét nghiệm nội tiết, kết quả chụp cắt lớp vi tính, cộng hưởng từ trước khi mổ. Phân loại u tuyến yên theo Hardy (loại A, B, C, D và E) và phân loại u thành 4 loại: u tăng tiết prolactine, u tăng tiết GH, u không tăng tiết và u tăng tiết ACTH. Nghiên cứu viên trực tiếp mổ, tham gia mổ hoặc ghi nhận những tổn thương trong mổ (u mềm, u cứng, u chảy máu, u dễ hút), tai biến và biến chứng trong mổ (chảy máu, rò nước não tủy), mức độ lấy u (lấy hết u, gần hết u, lấy một phần, sinh thiết, không lấy được u). Đánh giá tai biến, biến chứng sau mổ, kết quả sau mổ (sống, chết, liệt, rò nước não tủy, chảy máu, nhiễm trùng), kết quả xét nghiệm (rối loạn nội tiết nặng hơn, nhẹ hơn, trở về bình thường), kết quả lấy u trên chụp cộng hưởng từ, cắt lớp vi tính kiểm tra. So sánh kết quả, tai biến, biến chứng giữa các loại khối u, u tái phát với u mổ lần đầu, u đã điều trị với u chưa điều trị. Phân tích và so sánh kết quả bằng phần mềm SPSS 16.0. KẾT QUẢ Trong tổng số 140 bệnh nhân có 52 nam và 88 nữ. Kỹ thuật mở vào xoang bướm qua mũi ở 73 và mở qua rãnh môi lợi hàm trên 67 bệnh nhân. Cắt bỏ vách ngăn khoang mũi ở 88 bệnh nhân. Bộc lộ xoang bướm, mở thành trước xoang bướm, cắt bỏ vách ngăn xoang bướm, mở sàn hố yên và tiếp cận được với khối u tuyến yên và cắt bỏ khối u ở cả 140 bệnh nhân. Thời gian mổ trung bình 60±15 phút (dài nhất 210 phút và ngắn nhất 45 phút). Kết quả giải phẫu bệnh: 107 adenoma, 18 u hỗn hợp, 8 tế bào ái toan và 7 u tế bào kỵ màu. Sống 137 và tử vong 3 (2,14%). Nguyên nhân tử vong ở 3 bệnh nhân do chảy máu trong não, chảy máu não thất và một trường hợp chảy máu do ống nhựa đặt ở mũi Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 429 chui vào trong não thất III. Mức độ cắt bỏ khối u: cắt bỏ hoàn toàn khối u 90 bệnh nhân (64,29%), cắt gần hết u 48 (34,29%), cắt một phần u 2 (1,43%). Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u tùy thuộc loại u tuyến yên lớn, hay nhỏ (Bảng 1), u tuyến yên theo phân loại Hardy (Bảng 2), u tuyến chưa hay đã điều trị (Bảng 3) và u tuyến yên tăng tiết hormone nào (Bảng 4). Tai biến và biến chứng sớm sau mổ ghi nhận trong bảng 5 và bảng 6. Kết quả xa sau mổ trên 6 tháng được ghi nhận ở bảng 7. Bảng 1-Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u và kích thước u Mức độ lấy hết u Lấy hết u Lấy gần hết u Lấy một phần Macroadenoma 81 48 2 Microadenoma 9 0 0 Tỷ lệ lấy hết u ở Microadenoma 9/9= 100%, trong khi nhóm u lớn tỷ lệ lấy hết u 81/131=61,83% và lấy gần hết u 48/131=36,64% và chỉ lấy một phần khối u 2/131=1,53%. Bảng 2-Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u với phân loại Hardy Phân loại Hardy A B C D E Lấy hết u 20 63 5 2 0 Lấy gần hết u 5 7 7 11 18 Lấy một phần u 0 1 0 1 0 Tỷ lệ lấy hết u của nhóm A, B cao hơn tỷ lệ lấy hết u ở nhóm C, D và E có ý nghĩa thống kê với p<0,001; OR=36,5595; 95%; CI: 13,3229- 100,3226. Trong khi tỷ lệ lấy hết u giữa hai nhóm A và B không khác nhau với p>0,05. Bảng 3-Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u và tiền sử điều trị u tuyến yên: Mức độ lấy hết u Lấy hết u Lấy gần hết u Lấy một phần u Chưa điều trị 81 29 0 Đã mổ 1-2 lần 8 18 1 Đã điều trị tia xạ 1 1 1 Tỷ lệ lấy hết u ở nhóm chưa phẫu thuật cao hơn ở nhóm đã phẫu thuật, có ý nghĩa thống kê với p<0,001; OR=6,6336; 95%; CI: 2,6210-16,7891. Bảng 4-Mối liên quan giữa tỷ lệ lấy hết u và loại u Mức độ lấy hết u U không tăng tiết U loại prolactinoma U tăng tiết GH U tăng tiết ACTH Lấy hết u 32 56 10 1 Lấy gần hết u 28 10 9 1 Lấy một phần u 1 0 1 0 Tỷ lệ lấy hết u ở nhóm u loại Prolactinoma cao hơn ở nhóm u không tăng tiết và nhóm u tăng tiết GH, có ý nghĩa thống kê với p<0,005; OR=5,0750; 95%; CI:2,1914-11,7531. Trong khi tỷ lệ lấy hết u ở nhóm u không tăng tiết và nhóm u tăng tiết GH là như nhau với p=0,9574. Bảng 5-Tai biến trong mổ Tai biến Chảy máu phải dùng Surgicel Chảy máu nhiều Rò NNT trong mổ Không tai biến Số BN 50 6 20 64 Tỷ lệ % 35,71 4,29 14,29 45,71 BN-bệnh nhân, NNT-nước não tủy Biến chứng nặng như chảy máu não, viêm màng não, rò nước não tủy ở 7 bệnh nhân, chiếm 5%. Tính cả biến chứng chảy máu mũi ở ống đặt trong khoang mũi, đái nhạt là 51/140=36,43%. Bảng 6-Biến chứng sớm sau mổ: Biến chứng Đái nhạt Chảy máu mũi Viêm màng não Rò NNT Chảy máu trong sọ Số BN 26 18 1 1 5 Tỷ lệ % 18,57 9,29 0,71 0,71 3,57 BN-bệnh nhân, NNT-nước não tủy Khám lại sau > 6 tháng cho 90 bệnh nhân: 75/90=83,33% bệnh nhân cải thiện tốt về lâm sàng, 9 bệnh nhân suy tuyến yên toàn bộ, 5 bệnh nhân nặng hơn trước mổ, 58/68=85,29% bệnh nhân cải thiện thị giác. Đái nhạt 10/90 bệnh nhân. Bảng 7-Kết quả khám lại sau 6 tháng: Kết quả XN nội tiết bình thường XN nội tiết cao Suy tuyến yên Điều trị nội khoa Xạ trị Số BN 52/72 5/72 15/72 17/72 2/72 Tỷ lệ % 72,22% 6,94% 20,83% 23,61% 2,78% XN-xét nghiệm, CHT-cộng hưởng từ. Chụp CHT sọ não 68 bệnh nhân: 4 trường hợp khối u giống như sau mổ (u tuyến yên không tăng tiết); tái phát ở 4 bệnh nhân (cả 4 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 430 bệnh nhân đều ở nhóm lấy gần hết u), 2 trong số đó mổ lại bằng đường mổ qua xoang bướm, 2 trường hợp không đồng ý mổ và được điều trị xạ trị. Những trường hợp còn khối u tiếp tục được theo dõi và điều trị tiếp. BÀN LUẬN Tử vong 3 bệnh nhân (2,14%) do biến chứng chảy máu trong não và chảy máu trong não thất. Tỷ lệ tử vong thấp hơn nhiều so với phẫu thuật bằng phương pháp mở nắp sọ (tử vong 5-12%). Phẫu thuật vi phẫu qua xoang bướm không tỳ đè vào cấu trúc não, không gây phù não và tỷ lệ nhiễm khuẩn thấp hơn. Trong khi phẫu thuật mở nắp sọ phải mở màng cứng rộng rãi, vén ép thùy não, nguy cơ chảy máu cao và nguy cơ nhiễm trùng cao. Tất cả 140 bệnh nhân đều tiếp cận được khối u và cắt bỏ được khối u với phương pháp vi phẫu qua xoang bướm. Mức độ cắt bỏ hoàn toàn khối u: cắt bỏ hoàn toàn khối u 90 bệnh nhân (64,29%), cắt gần hết u 48 (34,29%), cắt một phần u 2 (1,43%). Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u như vậy khá cao. Hầu hết bệnh nhân được lấy bỏ khối u trong lòng bao u, chúng tôi không chủ động lấy bỏ cả bao khối u vì nguy cơ rò nước não tủy, nhiễm trùng và chảy máu. Khi khối u xâm lấn sang bên, xâm lấn ra trán, hố sau sẽ khó cắt bỏ bằng đường mổ qua xoang bướm. Một số tác giả áp dụng nội soi trong phẫu thuật sẽ giúp cắt bỏ phần khối u này(1,5). Chúng tôi phải chủ động mổ lần thứ 2 bằng phương pháp mở nắp sọ 8 bệnh nhân vì khối u xâm lấn sang bên. Phẫu thuật bằng phương pháp mở nắp sọ cũng chỉ cắt bỏ hoàn toàn khối u ở 4 bệnh nhân và không cắt bỏ được hoàn toàn 4 trường hợp khác do khối u xơ chắc, khó cắt và xâm lấn rất rộng, bao quanh động mạch cảnh trong, xâm lấn xoang tĩnh mạch hang. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u cũng phụ thuộc nhiều yếu tố. Tất cả 9 bệnh nhân u tuyến yên nhỏ được cắt bỏ hoàn toàn khối u (100%) và cắt bỏ hoàn toàn 61,83% khối u tuyến yên lớn. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u tuyến yên độ A, B (phân độ Hardy) cao hơn 36 lần khối u độ C, D và E (với p<0,001; OR=36,5595, 95%; CI: 13,3229- 100,3226). Phân độ Hardy dựa theo kích thước và sự phát triển khối u lên trên hoành yên. Khối u độ A và B là khối u nhỏ, phát triển lên trên không quá 20mm nên khả năng cắt bỏ dễ dàng khi tiếp cận khối u từ phía xoang bướm. Khối u độ C, D và E phát triển lên trên yên nhiều hơn, phát triển sang bên, xâm lấn xoang tĩnh mạch hang nên khả năng cắt bỏ hoàn toàn rất khó. Khối u xâm lấn xoang tĩnh mạch hang, bọc động mạch cảnh trong sẽ rất khó cắt bỏ với bất kỳ phương pháp phẫu thuật nào(3,8). Chúng tôi cho rằng, nên cắt bỏ tối đa đối với khối u này và phối hợp điều trị nội hoặc xạ trị sau mổ. Trong số 140 bệnh nhân, 27 bệnh nhân đã được phẫu thuật trước đó 1 hoặc 2 lần. Tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn khối u cao hơn ở nhóm chưa phẫu thuật (với p<0,001; OR=6,6336; 95%; CI:2,610-16,7891). Nhóm bệnh nhân đã phẫu thuật nhưng tái phát thường chảy máu nhiều hơn, xơ chắc hơn. Phần lớn bệnh nhân u tuyến yên xơ chắc nên không cắt bỏ hết khối u từ lần mổ trước đó. Khối u xơ chắc khỏ lấy và nguy cơ chảy máu nhiều hơn. Phẫu thuật lần 2 cũng thường dễ gây chảy máu hơn(4). Vì vậy, phẫu thuật viên thường không cố gằng cắt bỏ tối đa nhằm tránh tỷ lệ tai biến. U tăng tiết prolactine thường mềm, dễ hút và cắt bỏ trong khi khối u tăng không tăng tiết thường xơ, chắc, khó cắt bỏ hơn. Khi so sánh tỷ lệ cắt bỏ hoàn toàn u tuyến yên của từng nhóm, chúng tôi thấy: tỷ lệ cắt hết u ở nhóm u tăng tiết prolactine là 84,85% cao hơn so với nhóm không tăng tiết là 52,46% và nhóm tăng tiết GH 50% (với p<0,005; OR=5,0750; 95%; CI: 2,1914-11,7531, Bảng 4). Nhóm bệnh nhân u không tăng tiết, khối u thường lớn và xâm lấn nhiều do chẩn đoán chậm (bệnh nhân tới bệnh viện khi khối u to, chèn ép gây tăng áp lực trong sọ, nhìn mờ). Do vậy khả năng lấy hết u khó hơn. Nhóm bệnh nhân tăng tiết GH, mặc dù khối u thường nhỏ, không quá lớn nhưng khối u thường xơ, chắc và có nhiều khoang nên việc cắt bỏ toàn bộ khối u không Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 431 dễ. Nhiều tác giả cho rằng, khối u tăng tiết GH nên điều trị tia xạ sau khi phẫu thuật(6,7). Tỷ lệ lấy hết u giữa nhóm u không tăng tiết với nhóm u tăng tiết GH, không có sự khác nhau với p=0,9574. Tai biến và biến chứng trong mổ bao gồm rò nước não tủy (20 bệnh nhân), chảy máu nhiều trong mổ (6 bệnh nhân). Chúng tôi không phát hiện trường hợp nào bị chảy máu do tổn thương động mạch cảnh trong mổ. Tổn thương động mạch cảnh trong phẫu thuật u tuyến yên với đường mổ qua xoang bướm là biến chứng nặng nhưng khá hiếm gặp. Trước khi sử dụng hệ thống định vị thần kinh (neuro-navigation), tai biến tổn thương động mạch cảnh đã được ghi nhận tại Bệnh viện Việt Đức. Xác định chính xác vị trí động mạch cảnh trong mổ dựa trên hệ thống định vị và dựa trên các mốc giải phẫu giúp tránh tai biến này. Chụp cắt lớp vi tính xoang bướm nhằm xác định vị trí động mạch cảnh trong, ấn động mạch cảnh trong, ấn giao thoa thị giác cũng làm giảm tỷ lệ biến chứng trong mổ. Rò nước não tủy trong mổ có thể ghi nhận là tai biến hoặc không. Khi lấy cả bao khối u, thường có rò nước não tủy(4,5,8). Tất cả 20 bệnh nhân rò nước não tủy trong mổ được dẫn lưu giảm áp nước não tủy thắt lưng sau mổ trong 5- 7 ngày. Chỉ 1 trong số đó bị rò nước não tủy trong mổ và phải mổ lại, vá dò thành công. Bệnh nhân này bị viêm màng não, không phân lập được vi khuẩn nhưng điều trị khỏi sau 20 ngày điều trị. Biến chứng sau mổ nặng nhất là chảy máu trong sọ ở 5 bệnh nhân: 3 trong số đó tử vong do chảy máu não thất, não úng thủy, tụ máu trong não và tụ máu lớn trong ổ mổ. Tất cả 5 bệnh nhân này đều là u tuyến yên lớn (kích thước 3,5 – 6 cm), khi mổ không lấy hết u và ép surgical cầm máu. Khối u tuyến yên khi không cắt bỏ hết, còn một phần u thường bị chảy máu sau mổ. Máu chảy trong ổ mổ lớn dần, vỡ vào não thất gây chảy máu não thất và não úng thủy. Xử trí chủ yếu bằng cách dẫn lưu não thất ra ngoài. Hai trong số 5 bệnh nhân dẫn lưu não thất ra ngoài thành công và rút dẫn lưu sau 1 tuần. 3 bệnh nhân còn lại tử vong dù đã dẫn lưu não thất. Chảy máu mũi sau mổ gặp ở 18 bệnh nhân (9,29%). Chảy máu mũi thường từ niêm mạc khoang mũi và thường dừng lại sau khi băng ép, nhét meche mũi sau. Nếu chảy từ động mạch chân bướm khẩu cái phải mổ để cầm máu. Chúng tôi không gặp trường hợp nào phải mổ lại cầm máu. Đái nhát là biến chứng khá thường gặp: 26 bệnh nhân (18,57%). Đái nhạt thường do tổn thương tuyến yên trong quá trình phẫu thuật. Tỷ lệ này không cao nếu so với một số tác giả khác(1). Nếu cắt u càng triệt đề thì nguy cơ tổn thương tuyến yên lành càng lớn và tỷ lệ đái nhạt sau mổ càng cao. Đái nhạt sau mổ có thể gặp ngay sau mổ, hoặc trong vòng 2 tháng đầu sau mổ. Chính vì vậy việc theo dõi xét nghiệm, nước tiểu là rất cần thiết. Kết quả xa sau mổ cho thấy: tỷ lệ nội tiết trở về bình thường là 72,22% và đái nhạt 20,83%. Gần 30% bệnh nhân phải điều trị bằng phương pháp khác như điều trị nội khoa, xạ trị, điều trị suy tuyến yên. KẾT LUẬN Phẫu thuật u tuyến yên bằng phương pháp vi phẫu qua xoang bướm là phương pháp có tỷ lệ thành công cao, tỷ lệ khỏi bệnh cao và tai biến, biến chứng thấp. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aron DC et al (1995). Pituitary tumors: current concepts in diagnosis and management. West J Med, 162: 340-352. 2. Bùi Phương Thảo (2010). Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng của một số u thùyn trước tuyến yên trước và sau phẫu thuật. Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú, Đại học Y Hà Nội. 3. Chang EF et al (2010). Long term outcome following repeat transsphenoidal surgery for recurrent endocrine-inactive pituitary adenomas. Pituitary, 13(3): 223-229. 4. Dlouhy BI et al (2012). Elevated body mass index and risk of postoperative CSF leak following transsphenoidal surgery. J Neurosurg, 116(6): 1311-1317. 5. Kim MS et al (2009). Surgical results of Growth hormone- secreting pituitary adenoma. J Korean Neurosurg Soc, 45: 271- 274. 6. Massoud AF et al (1997). Transsphenoidal surgery for pituitary tumours. Arch of Disease in Childhood, 76: 398-404. 7. Seuk JW et al (2011). Visual outcome after transsphenoidal surgery in patients with pituitary apoplexy. J Korean Neurosurg Soc, 49(6): 339-344. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 432 8. Thomson JA et al (1994). Ten year follow up of microprolactinoma treated by transsphenoidal surgery. BMJ, 309: 1409-1011.
Tài liệu liên quan