Như các bạn đã biết, các hoạt động của doanh nghiệp không bao giờ tách rời được môi
trường kinh doanh. Hay nói một cách khác, môi trường kinh doanh sẽ thường xuyên tác
động đến hoạt động của doanh nghiệp theo cả chiều hướng mang lại thuận lợi cũng như
thách thức. Việc nghiên cứu môi trường xung quanh tìm ra những cơ hội và né tránh các
nguy cơ sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được vị thế cạnh tranh của mình.
Môi trường kinh doanh được hiểu là tất cả các yếu tố bao quanh và tác động đến quá trình
phát triển, hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiến
hành kinh doanh ở bất kỳ một quốc gia nào đều sẽ phải chịu ảnh hưởng từ môi trường
kinh doanh của quốc gia đó. Môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia bao gồm nhiều yếu
tố và thường được phân thành ba môi trường chính: Môi trường chính trị - phát luật; Môi
trường kinh tế; Môi trường văn hóa. Kết cấu của bài 2 cũng sẽ được thiết kế dựa trên 3
môi trường chính, đó là:
2.1. Môi trường chính trị - pháp luật
2.2. Môi trường kinh tế
2.3. Môi trường văn hóa
24 trang |
Chia sẻ: hadohap | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Kinh doanh quốc tế - Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
IBS101_Bai2_v1.0013110214 25
BÀI 2 MÔI TRƯỜNG KINH DOANH QUỐC GIA
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Nguyễn Thị Hường (Chủ biên) (2001), Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 1, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Hường (Chủ biên) (2003), Giáo trình Kinh doanh quốc tế, Tập 2, Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội.
3. Ball D. A, Geringer J. M, Minor M. S, McNett J. M, (2010), International Business
– The Challenge Of Global Competition, McGraw-Hill/Irwin.
4. Hill, Charles W. T. (2001), Kinh doanh toàn cầu ngày nay, Sách biên dịch, Nhà
xuất bản Thống kê, Hà Nội.
5. Wild, J. J, Kenneth L. Wild, J. C. Y. Han (2000), International Business: An
Integrated Approach, Prentice Hall, New Jersey 07458.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Như các bạn đã biết, các hoạt động của doanh nghiệp không bao giờ tách rời được môi
trường kinh doanh. Hay nói một cách khác, môi trường kinh doanh sẽ thường xuyên tác
động đến hoạt động của doanh nghiệp theo cả chiều hướng mang lại thuận lợi cũng như
thách thức. Việc nghiên cứu môi trường xung quanh tìm ra những cơ hội và né tránh các
nguy cơ sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao được vị thế cạnh tranh của mình.
Môi trường kinh doanh được hiểu là tất cả các yếu tố bao quanh và tác động đến quá trình
phát triển, hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp tiến
hành kinh doanh ở bất kỳ một quốc gia nào đều sẽ phải chịu ảnh hưởng từ môi trường
kinh doanh của quốc gia đó. Môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia bao gồm nhiều yếu
tố và thường được phân thành ba môi trường chính: Môi trường chính trị - phát luật; Môi
trường kinh tế; Môi trường văn hóa. Kết cấu của bài 2 cũng sẽ được thiết kế dựa trên 3
môi trường chính, đó là:
2.1. Môi trường chính trị - pháp luật
2.2. Môi trường kinh tế
2.3. Môi trường văn hóa
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
26 IBS101_Bai2_v1.0013110214
Mục tiêu
Nhận biết được các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia.
Hiểu được các tác động của môi trường kinh tế, chính trị - pháp luật và văn hóa đến
hoạt động KDQT của doanh nghiệp.
Nhận biết được các rủi ro chính trị cũng như có biện pháp phòng tránh những rủi
ro này.
Đánh giá được mức độ phát triển của từng nền kinh tế.
Thấy được tầm quan trọng của yếu tố văn hóa tác động đến hoạt động kinh doanh quốc tế.
Phát hiện được các vấn đề cần quan tâm thuộc môi trường kinh doanh quốc gia khi
doanh nghiệp tiến hành hoạt động KDQT.
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
IBS101_Bai2_v1.0013110214 27
Tình huống dẫn nhập
THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA CÔNG VIÊN DISNEYLAND
Tại sao Disneyland Paris lại gặp vấn đề giảm lượng khách và
doanh thu trong khi Disneyland ở Tokyo lại có số lượt khách
tăng đều và trở thành công viên có lợi nhuận cao nhất trong hệ
thống Disney. Các chuyên gia đã từng dự đoán rằng Công viên
Tokyo Disney sẽ đạt được số lượng khách lớn nhất ngay năm
đầu tiên và sau đó sẽ giảm dần. Điều này đã không đúng khi
trên thực tế số lượng khách đến Tokyo Disney luôn tăng lên
đều đặn. Điều tạo nên thành công này được biết đến là vị trí
đặt công viên ở ngay trong khu đô thị với hơn 30 triệu dân, tuy nhiên việc thích nghi văn hóa địa
phương mới được cho là nguyên nhân chính đem lại thành công của công viên Tokyo Disney.
Một số người nói rằng Tập đoàn Walt Disney đã viết một chương mới vào trong lịch sử xã hội
của Nhật Bản khi đã phổ biến văn hóa du ngoại gia đình. Lượng khách của của công viên hiện
nay chiếm phân nửa là khách hàng gia đình. Một giám đốc điều hành của Disney nói rằng:
“Trước đây, thư giãn không phải luôn luôn là một phần trong lối sống của người Nhật. Các ông
bố thường coi việc đi chơi cùng gia đình là một nghĩa vụ”.
Những tổn thất ở Disneyland Paris gặp phải xuất phát từ tổng chi phí và lãi suất cao, nguyên
nhân chủ yếu khác nữa là những sai lầm về văn hóa. Để trang trải cho khoản chi phí 4 tỷ đô của
dự án, Disney đã chi ra 170 triệu USD để nắm giữ 49% cổ phần, các cổ đông thường nắm giữ 1
tỷ đô tương đương với 51% cổ phần. Để bù đắp 2.9 tỷ đô còn thiếu, Disney đã đi vay với lãi suất
lên đến 11%. Ban quản trị Disney đã hy vọng cắt giảm khoản nợ đó bằng việc kinh doanh 6
khách sạn lớn mà nó đã xây dựng trước đó, nhưng với mức giá 340 đô một đêm, các khách sạn
này chỉ duy trì được nửa số phòng kín khách. Hơn nữa, khách không ở lại lâu hoặc chi tiều nhiều
như Disney đã dự tính.
Các giám đốc điều hành Disney đã tin tưởng, mặc dù không hề đúng, rằng họ có thể thay đổi thái
độ của người Pháp là họ chỉ muốn một kỳ nghỉ dài vào tháng tám mà không muốn cho con nghỉ
học trong suốt năm học – như người Mỹ thường làm, hoặc không muốn có thêm các kỳ nghỉ
ngắn trong suốt năm học. Nếu điều này xảy ra sẽ giúp cho Disney ở châu Âu giữ được doanh thu
ổn định, với số lượng khách cao trong cả năm hơn là việc chỉ trong một tháng. Giá vé cao là lý
do khiến cho du khách không hứng thú nhiều với công viên Disneyland. Sau gần 2 năm, Disney
mới giảm giá vé của mình. Ngoài ra, một lý do khác khiến cho số lượng khách của Disney không
được như mong muốn là một vấn đề liên quan đến văn hóa về bữa ăn sáng. Một sự thật hiển
nhiên là một quyết định đáng giá hàng triệu đô lại chỉ được dựa trên những gì họ nghe kể mà
không dựa vào những cuộc điều tra nghiên cứu. Một giám đốc điều hành nói rằng: “Chúng tôi
được nghe kể rằng “Người dân châu Âu không dùng bữa sáng, nên chúng tôi đã cắt giảm số
lượng các nhà hàng”. Tuy nhiên, khi công viên đi vào hoạt động, họ thấy rằng, người dân ở đây
đều muốn dùng bữa sáng ở đây, và họ không thích bánh sừng bò và cà phê, họ muốn có thịt xông
khói và trứng. Disney đã cố gắng phục vụ 2.500 suất ăn sáng trong nhà hàng của khách sạn với
sức chứa 350 người. Để đáp ứng nhu cầu của người dân Pháp, những vị khách nổi tiếng về độ
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
28 IBS101_Bai2_v1.0013110214
sành ăn trên toàn thế giới, Disney đã thực hiện giải pháp đóng gói và chuyển bữa ăn sáng đến tận
các phòng trong khách sạn.
Sau năm 1995, Disneyland Paris bắt tay vào khắc phục những sai lầm mắc phải về văn hóa và tài
chính. Họ đã cắt giảm 22% giá vé vào cửa và giá khách sạn giảm 1/3. Thay vì những nhà hàng
có chỗ ngồi đắt đỏ mà Disney đã sai lầm tin tưởng rằng tất cả những khách hàng Châu Âu đều
thích, là các nhà hàng tự phục vụ cung cấp đồ ăn nhanh giá rẻ. Công viên Disney Paris đã thay
thế chiến lược quảng bá Disney chung cho toàn bộ thị trường Châu Âu như thể nó là một quốc
gia bằng việc mở văn phòng đặt tại tất cả các thủ đô chính của Châu Âu, và mỗi văn phòng sẽ
thay đổi tạo ra những gói tour du lịch cho phù hợp vớp thị trường của mình. Vào năm 1998,
Disneyland Paris đã trở thành địa điểm du lịch lớn nhất nước Pháp.
Disney cũng tiếp tục xây dựng các chi nhánh ở Châu Á. Công viên thứ hai được đặt ngay gần
Tokyo với cái tên DinseySea mở của vào năm 2001. Tại Trung Quốc, Disney vừa khai trường
công viên Disneyland Hồng Kông. Lại một lần nữa, ngay từ ban đầu Disney đã gặp thất bại với
số lượng du khách thấp và không đáp ứng được nhu cầu của người dân bản địa. Disney đã phải
đưa ra một chiến lược marketing mới và có sự thay đổi rất nhiều về thiết kế bên trong công viên,
như việc thiết lập nhiều ghế ngồi hơn bởi vì trung bình một người Trung Quốc có thói quen dùng
bữa lâu hơn người Mỹ khoảng 10 phút. Ban quản trị đã tiến hành các bước để nhận ra rằng
những khách hàng nói tiếng Trung không nghe các hướng dẫn bằng tiếng anh. Disney dự định sẽ
xây dựng thêm một công viên thứ 2 tại Trung Quốc được đặt tại Thượng Hải, sẽ được mở cửa
vào năm 2010, công viên này sẽ có sức chứa gấp 4 lần công viên Disney Hong Kong.
1. Tại sao Disneyland Paris lại gặp thất bại?
2. Disneyland Paris đã làm gì để tăng lượng khách và doanh số?
3. Disneyland đã rút ra được bài học kinh nghiệm gì khi tiến hành xâm nhập thị
trường châu Á?
Để trả lời những vấn đề đặt ra ở đây, chúng ta sẽ cùng đi nghiên cứu những
lý luận chung về các môi trường trong môi trường kinh doanh quốc gia:
Nó là gì? Nó ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp như thế nào?
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
IBS101_Bai2_v1.0013110214 29
2.1. Môi trường chính trị - pháp luật
2.1.1. Các hệ thống chính trị trên thế giới
2.1.1.1. Hệ thống chính trị là gì?
Hệ thống chính trị bao gồm những cấu trúc, các quá trình và những hoạt động mà dựa
vào đó các dân tộc có quyền tự quyết. Chẳng hạn hệ thống chính trị ở Nhật Bản có đặc
trưng là thủ tướng được bầu cử bới Quốc hội và Chính phủ được điều hành bởi nội các
bao gồm các Bộ trưởng.
2.1.1.2. Phân loại hệ thống chính trị
Chế độ dân chủ: Chế độ dân chủ là hệ thống chính trị mà ở đó những người đứng đầu
chính phủ được bầu cử trực tiếp bởi người dân hoặc những đại cử tri.
Với những cản trở như dân số quá đông, sự xa cách
về không gian cũng như thời gian mà khả năng
tham gia của người dân vào chính trị bị hạn chế,
cho nên nền dân chủ “thuần túy” chỉ là lý tưởng.
Trên thực tế, nhiều quốc gia đã lựa chọn một nền
dân chủ đại nghị, có nghĩa là những công dân giới
thiệu những cá nhân đại diện cho họ để thực hiện
những quan điểm chính trị cũng như nhu cầu về chính trị của họ.
Tất cả những nền dân chủ đại nghị thỏa mãn 5 quyền tự quyết:
Quyền phát ngôn: Quyền tự do phát ngôn cho phép người ta có quyền bày tỏ
quan điểm một cách tự do và không sợ bị trừng phạt;
Bầu cử theo nhiệm kỳ: Mỗi người được bầu ra phục vụ trong một thời gian
nhất định;
Quyền của các dân tộc thiểu số: Nền dân chủ cố gắng duy trì hòa bình giữa các
nhóm người khác nhau về văn hóa, tôn giáo và màu da;
Quyền sở hữu và quyền công dân: Quyền sở hữu là những đặc quyền và trách
nhiệm về tài sản. Quyền công dân bao gồm quyền tự do ngôn luận, quyền tự do
chính trị, quyền được đối xử công bằng;
Quyền tự quyết: là một quyền của chính phủ thực thi những đạo luật đã được
thông qua.
Chế độ chuyên chế
Trong chế độ chuyên chế, cá nhân thống trị xã hội mà không cần sự ủng hộ của dân
chúng. Chính phủ kiểm soát mọi hoạt động trong cuộc sống của dân chúng và những
người đứng đầu chế độ loại trừ mọi quan điểm đối lập.
Chính quyền của chế độ chuyên chế có xu hướng chia thành 3 điểm:
Có quyền lực thông qua áp đặt: Một cá nhân hoặc tổ chức tạo dựng hệ thống chính
trị mà không cần sự chấp thuận tuyệt đối của người dân.
Thiếu sự đảm bảo từ hiến pháp: Họ hạn chế, lạm dụng, loại bỏ ngay lập tức những
định chế quyền tự do ngôn luận, bầu cử định kỳ, quyền sở hữu, quyền được bảo
đảm của công dân và quyền của các dân tộc thiểu số.
Sự tham gia hạn chế: Những người làm chính trị được giới hạn hoặc trong những
đảng hoặc thông qua áp đặt.
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
30 IBS101_Bai2_v1.0013110214
2.1.1.3. Rủi ro chính trị
Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia đều phải
đối mặt với rủi ro chính trị - cụ thể sự thay đổi về chính trị có ảnh hưởng xấu đến công
việc kinh doanh. Rủi ro chính trị có thể đe dọa đến thị trường xuất khẩu, điều kiện sản
xuất, hoặc gây khó khăn cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về trong nước.
Rủi ro chính trị phát sinh là do nhiều nguyên nhân. Bao gồm những nguyên nhân sau:
Sự lãnh đạo chính trị yếu kém;
Chính quyền bị thay đổi thường xuyên;
Sự dính lúi đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội;
Hệ thống chính trị không ổn định;
Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số;
Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia.
Rủi ro chính trị có thể được phân thành nhiều loại dưới các góc độ tiếp cận khác nhau
Nếu căn cứ vào phạm vi tác động có thể phân rủi ro chính trị thành 2 loại cơ bản sau:
Rủi ro vĩ mô: đe dọa đến tất cả các doanh
nghiệp không trừ một ngành nào. Rủi ro vĩ mô
ảnh hưởng đến hầu hết các doanh nghiệp cả
doanh nghiệp trong và ngoài nước;
Rủi ro vi mô: là loại hình rủi ro chính trị chỉ
tác động đến những công ty trong một ngành
nào đó.
Nếu căn cứ vào hình thức biểu hiện, rủi ro chính trị được phân thành 5 dạng thức
chính sau:
Xung đột và bạo lực: Xung đột và bạo lực xảy ra có thể gây cản trở mạnh mẽ đến
đầu tư của các công ty, làm suy yếu khả năng sản xuất và phân phối sản phẩm, gặp
khó khăn trong việc vận chuyển nguyên liệu và thiết bị, gây cản trở việc tuyển
dụng lao động. Xung đột và bạo lực có thể xảy ra ở nhiều cấp độ có thể là xung đột
giữa người dân và chính phủ, giữa các chính phủ ở các quốc gia hay giữa các dân
tộc, chủng tộc và tôn giáo.
Khủng bố và bắt cóc: Bắt cóc và các cuộc khủng bố là phương tiện để các thế lực
khẳng định vị thế chính trị. Khủng bố có mục đích tạo ra sự lo sợ và ép buộc sự
thay đổi thông qua việc gây ra những cái chết và tàn phá tài sản một cách bất ngờ
và không lường trước được. Bắt cóc thường được sử dụng nhằm tài trợ tài chính
cho các hoạt động khủng bố. Các hãng kinh doanh nước ngoài lớn là mục tiêu
chính bởi vì nhũng người làm việc ở đây khá “nặng túi” và có thể trả những khoản
chuộc hậu hĩnh.
Chiếm đoạt tài sản: Đôi khi một số chính quyền chiếm đoạt tài sản của công ty
trên lãnh thổ của họ. Sự chiến đoạt diễn ra dưới ba hình thức: Tịch thu, Sung công,
Quốc hữu hóa.
o Tịch thu: là việc chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ mà không có sự
đền bù nào cả.
o Sung công: là quá trình chuyển tài sản của tư nhân vào tay chính phủ nhưng
được đền bù.
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
IBS101_Bai2_v1.0013110214 31
o Quốc hữu hóa: Quốc hữu hóa phổ biến hơn sung công và tịch thu. Trong khi
sung công áp dụng đối với một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì
quốc hữu hóa diễn ra đối với toàn bộ ngành. Quốc hữu hóa là việc chính phủ
đứng ra đảm nhiệm cả một ngành.
Sự thay đổi các chính sách: sự thay đổi chính sách của chính phủ cũng có thể là do
nguyên nhân mất ổn định xã hội hoặc là do có sự tham gia của các chính đảng mới.
Những yêu cầu của địa phương: Các yêu cầu của địa phương có thể gây bất lợi
cho sự tồn tại của doanh nghiệp trong dài hạn. Đặc biệt, họ có thể gây ra hai điểm
bất lợi đối với các công ty kinh doanh quốc tế là: (1) Yêu cầu phải tuyển dụng
những nhân công địa phương của họ có thể làm cho các công ty này thiếu những
người làm việc có đủ trình độ; (2) Yêu cầu các
công ty sử dụng toàn bộ hoặc một phần nguyên,
nhiên vật liệu của địa phương dẫn đến chi phí
sản xuất cao, chất lượng giảm sút hoặc cả hai.
Bên cạnh kiểm soát và dự đoán những khả
năng thay đổi chính trị, các công ty quốc tế
phải cố gắng quản lý được rủi ro chính trị mà
những rủi ro này đe dọa đến hoạt động hiện tại
cũng như tương lai của công ty. Có 5 phương
pháp quản lý rủi ro chính trị đó là:
Né tránh: Né tránh đơn giản là hạn chế đầu tư
vào những nước có nguy cơ rủi ro chính trị cao.
Thích nghi: Thích nghi có nghĩa là kết hợp chặt chẽ rủi ro với chiến lược kinh
doanh, thường được giúp đỡ của các quan chức địa phương. Các công ty thu nhận
rủi ro qua năm chiến lược: vốn nợ và vốn cổ phần của địa phương; định vị; trợ
giúp; cộng tác và bảo hiểm.
Duy trì mức độ phụ thuộc: Để duy trì mức độ phụ thuộc của nước sở tại vào hoạt
động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể tiếp cận theo ba hướng: (i) giải
thích cho người dân và các quan chức địa phương tầm quan trọng của họ đối với
phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống; (ii) sử dụng nguyên vật liệu,
công nghệ và một phần nguồn lực sẵn có của địa phương; (iii) Nếu công ty đủ
mạnh và đủ lớn, công ty có thể nhận được toàn bộ quyền kiểm soát kênh phân phối
ở địa phương. Nếu công ty bị đe dọa, nó có thể từ chối cung cấp cho người tiêu
dùng địa phương và người mua là các công ty địa phương.
Thu thập thông tin: Có hai nguồn dữ liệu cần thiết cho việc dự báo rủi ro chính
trị chính xác là: (i) công ty yêu cầu người lao động đánh giá mức độ rủi ro chính
trị. (ii) công ty có thể thu thập thông tin từ những hãng chuyên cung cấp những
dịch vụ về rủi ro chính trị.
Những chính sách địa phương: Các nhà quản lý có thể xem xét đến những quy
luật và quy định áp dụng trong kinh doanh ở mỗi quốc gia. Hơn nữa, pháp luật ở
nhiều quốc gia rất dễ thay đổi, và luật mới ra tiếp tục tác động đến doanh nghiệp.
Để những ảnh hưởng của địa phương có lợi cho họ, các nhà quản lý đề nghị những
định hướng thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới họ.
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
32 IBS101_Bai2_v1.0013110214
2.1.2. Hệ thống pháp luật
2.1.2.1. Các hệ thống pháp luật trên thế giới
Thông luật: Tòa án giải quyết một trường hợp nào đó thông qua việc làm sáng tỏ các
yếu tố lịch sử, tiền lệ và cách sử dụng. Tuy nhiên, mỗi bộ luật được vận dụng khác
nhau một chút trong mỗi tình huống.
Luật phổ thông bắt nguồn từ Anh quốc vào thế kỷ thức XVII và nó được công nhận ở
nhiều quốc gia trên thế giới như Anh, Canada, New Zealand, Mỹ... Hệ thống luật pháp
dựa trên những yếu tố lịch sử của luật pháp, dựa vào đó mà toàn án tiến hành xử lý
những tình huống cụ thể. Một hệ thống thông luật phản ánh 3 nhân tố:
Nhân tố truyền thống: là lịch sử pháp luật của một quốc gia;
Các tiền lệ: Các quy ước có tính chất bắt buộc xuất hiện trước khi có tòa án;
Cách sử dụng: Là những cách mà theo đó luật pháp được áp dụng cho một tình
huống cụ thể.
Luật dân sự: Luật dân sự xuất hiện ở Rome vào thế
kỷ XV trước công nguyên, nó là bộ luật lâu đời và
thông dụng nhất trên thế giới. Luật dân sự dựa trên
các quy định quy tắc bằng văn bản. Luật dân sự ít
có sự đối lập như thông luật bởi vì không cần giải
thích các điều luật theo lịch sử hình thành, tiền lệ và
cách sử dụng. Do tất cả các luật được hệ thống hóa
và súc tích, cho nên các nội dung bên trong hợp đồng cần làm rõ các từ hàm ý. Tất cả
những quyền lợi và trách nhiệm đều trực tiếp thể hiện trong hợp đồng. Bên cạnh đó,
chi phí về thời gian và tiền bạc ít tốn kém hơn. Thế nhưng luật dân sự có xu hướng bỏ
qua những tình huống đơn lẻ. Luật dân sự được áp dụng ở Cuba, Puerto Rico, Quebec
và tất cả các nước ở trung và nam Châu Phi.
Luật mang tính chất tôn giáo: Luật dựa trên nền tảng tôn giáo được gọi là luật thần
quyền. Có ba luật thần quyền nổi tiếng là Luật Đạo Hồi, đạo Hin-đu và Luật Do Thái.
Các hãng hoạt động ở những nước tồn tại luật thần quyền phải nhạy cảm với niềm tin
và văn hóa địa phương. Họ nên đánh giá hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh bao
gồm những thông lệ và chính sách đầu tư để đảm bảo phù hợp với không chỉ pháp luật
mà cả tôn giá và văn hóa địa phương.
2.1.2.2. Các vấn đề pháp luật toàn cầu
Tiêu chuẩn hóa
Bởi vì hệ thống pháp luật khác nhau ở mỗi nước, cho nên các công ty thường thuê
các chuyên gia pháp luật ở những nơi mà họ kinh doanh. Điều này có thể làm tăng
chi phí. Nhưng một điều thuận lợi, hệ thống pháp luật giữa các nước đều có chuẩn
mực chung.
Mặc dù, hệ thống pháp luật quốc tế không được rõ ràng, nhưng bước đầu đã có
những điểm chung. Luật quốc tế ảnh hưởng đến nhiều khu vực, bao gồm quyền sở
hữu trí tuệ, luật chống độc quyền, thuế, luật phân xử tranh chấp hợp đồng và
Bài 2: Môi trường kinh doanh quốc gia
IBS101_Bai2_v1.0013110214 33
những vấn đề thương mại nói chung. Bên cạnh đó, nhiều tổ chức quốc tế khuyến
khích việc áp dụng các chuẩn mực. Trong số các tổ chức có Liên Hợp Quốc (UN),
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Tổ chức về thống nhất của các luật
tư nhân ở Rome đã đưa ra các quy định cho kinh doanh quốc tế. Để tháo gỡ các
rào chắn cho các công ty hoạt động trên thị trường Tây Âu, Liên hiệp Châu Âu
cũng tiêu chuẩn hóa hệ thống pháp luật của các nước trong hiệp hội.
Quyền sở hữu trí tuệ
Tài sản là kết quả do hoạt động trí tuệ của con