Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 258 
BƯỚC ĐẦU PHÂN TÍCH DỊCH TỄ HỌC 
 VI KHUẨN GÂY BỆNH GRAM ÂM 
 BẰNG KỸ THUẬT SINH HỌC PHÂN TỬ 
Nguyễn Trọng Hiệp*, Nguyễn Hoàng Thu Trang*, Bùi Tùng Hiệp** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Nghiên cứu gần đây tại Việt Nam cho thấy hiện tượng sinh enzym β-lactamase phổ rộng (ESBL) 
ngày càng phổ biến trên vi khuẩn đường ruột và đang lan ra những vi khuẩn Gram âm khác. Mặt khác, nhiễm 
trùng bệnh viện và tình trạng nhiễm chéo là cặp bài trùng luôn song hành với nhau. Tuy nhiên ở Việt Nam chưa 
có nhiều nghiên cứu tỉ lệ nhiễm chéo các vi khuẩn gây bệnh qua phân tích dịch tễ học phân tử, phương pháp 
nghiên cứu đã được áp dụng hữu hiệu ở các nước phát triển để kiểm sóat nguy cơ này. 
Mục tiêu: Bước đầu phân tích dịch tễ học phân tử vi khuẩn E. coli và Klebsiella pneumoniae ESBL trong số 
các vi khuẩn gây bệnh Gram âm để chứng minh tình trạng nhiễm chéo. 
Phương pháp: Vi khuẩn thu thập được từ bệnh phẩm nước tiểu, máu, đàm, dịch phế quản,  được phân 
lập trên các môi trường chuyên biệt và định danh bằng các phản ứng sinh hóa. Thử nghiệm bằng phương pháp 
đĩa giấy kháng sinh kết hợp hiệp lực để sàng lọc vi khuẩn ESBL. Các chủng vi khuẩn E. coli và K. pneumoniae 
sinh ESBL được tiến hành kỹ thuật ERIC-PCR với mồi ERIC để xác định tỉ lệ nhiễm chéo, gồm ERIC-2 (5'-
AAG TAA GTG ACT GGG GTG AGC G-3') và ERIC-1026 (5'-TAC ATT CGA GGA CCC CTA AGT G-3'). 
Sản phẩm khuếch đại được điện di trên gel agarose và phân tích số lượng và kích thước các băng DNA thu được. 
Kết quả: 494 chủng vi khuẩn thu được năm 2009 từ 448 bệnh nhân tại bệnh viện Chợ Rẫy TP. HCM năm 
2009, 351 chủng là vi khuẩn Gram âm là (71%). Tỉ lệ vi khuẩn có kiểu hình ESBL là 28,8% (101/351 chủng). 
Họ vi khuẩn đường ruột chiếm đến 81,1% các chủng ESBL (89/101 chủng), với đa số là E. coli và K. 
pneumoniae, tỉ lệ lần lượt là 36 chủng (40,4%) và 25 chủng (28,1%). Với kỹ thuật ERIC-PCR, các chủng E. coli 
và K. pneumoniae ESBL được xác định tỉ lệ nhiễm chéo cho thấy ở E. coli có tỉ lệ nhiễm chéo là 52,7% (19/36 
chủng) với 7 type phụ, trong đó có 1 type phụ gây nhiễm chéo ra 9 chủng. Ở K. pneumoniae, tỉ lệ nhiễm chéo là 
48% (12/25 chủng), có 4 type phụ gây nhiễm chéo. Như vậy bước đầu khảo sát với 2 loài vi khuẩn E. coli và K. 
pneumoniae, tỉ lệ nhiễm chéo đã rất cao, xác định được là 50,8%. 
Kết luận: Trong nghiên cứu của chúng tôi, bước đầu khảo sát trên 2 lòai vi khuẩn E. coli và K. pneumoniae 
ESBL, đã cho thấy tỉ lệ nhiễm chéo là từ gấp rưỡi đến gần gấp đôi so với các nghiên cứu nước ngoài. Kết quả này 
thật sự nghiêm trọng với việc điều trị tại bệnh viện vì các vi khuẩn ESBL đều đa đề kháng với nhiều kháng sinh 
thông dụng. 
Từ khóa: Vi khuẩn gây bệnh Gram âm, Họ vi khuẩn đường ruột, enzym β-lactamase phổ rộng, PCR trình 
tự chung xen kẽ lặp của vi khuẩn đường ruột (ERIC-PCR), nhiễm chéo 
*Khoa Dược- ĐH Y Dược TP HCM, TP. HCM **Bệnh viện cấp cứu Trưng Vương, TP. HCM 
Tác giả liên hệ: TS. Nguyễn Trọng Hiệp ĐT: 0907429991 Email: 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 259
ABTRACT 
PRELIMINARY EPIDEMIOLOGICAL ANALYSIS 
 OF PATHOGENIC GRAM-NEGATIVE ISOLATES BY MOLECULAR BIOLOGY TECHNIQUE 
Nguyen Trong Hiep, Nguyen Hoang Thu Trang, Bui Tung Hiep 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 258 - 264 
Background: In Vietnam, recent studies show the emergence of extended-spectrum ß-lactamases (ESBLs) 
producing organisms along with multiple resistant isolates pose a serious problem in the hospital setting, ESBL-
producing bacteria are frequently in the Enterobacteriaceae family and spread other Gram-negative bacteria. 
Moreover, nosocomial infections and the cross-transmission are always being together. However, there was not 
studied about the cross-transmission rates among bacterial pathogens by using molecular epidemiological 
analysis in Vietnam. This method is very common in the developed countries in order to control the cross-
transmission. 
Objectives: To analyse the molecular epidemiology of E. coli and Klebsiella pneumoniae ESBL among 
pathogenic Gram-negative isolates for the cross-transmission. 
Method: The bacterial strains were isolated from urine, blood, sputum, bronchial aspiration, abdominal 
liquid and cerebrospinal fluid. The double disk synergy test was performed to screen ESBL strains. E. coli 
and K. pneumoniae ESBL isolates were realized the ERIC-PCR with ERIC primers: ERIC-2 (5'-AAG TAA 
GTG ACT GGG GTG AGC G-3') and ERIC-1026 (5'-TAC ATT CGA GGA CCC CTA AGT G-3'). The 
amplified products were electrophoresed on agarose gel, the profiles were analyzed on the number and the size 
of DNA bands. 
Results: 494 clinical isolates obtained in 2009 from 448 patients in Cho Ray hospital of HCM city, 351 
strains were Gram-negative bacteria (71%). ESBL phenotypes occupied 28.8% (101/351 Gram-negative strains). 
ESBL isolates from the Enterobacteriaceae family were very high (89/101 strains), more predominant with 36 E. 
coli strains (40.4%) and 25 K. pneumoniae strains (28.1%). E. coli and K. pneumoniae ESBL isolates were 
performed the ERIC-PCR to determine the cross-transmission rate. The results demonstrated that the cross-
transmission among E. coli was 52.7% (19 of 36 strains) with 7 sub-types in which 1 sub-type caused the cross-
transmission to the other 9 strains. In K. pneumoniae, the cross-transmission was 48% (12 of 25 strains) with 4 
sub-types. Therefore, our preliminiary study on two species bacteria of E. coli and K. pneumoniae ESBL showed 
that the cross-transmissions were very high to at least 50.8%. 
Conclusion: In our study, the preliminary analysis identified that the cross-transmission rate between E. 
coli and K. pneumoniae ESBL were higher than from half to twofold of the foreign studies. It is really a serious 
problem in the hospital setting because all these strains producing ESBL were multi-resistant to many common 
antibiotics. 
Keywords: Gram-negative clinical isolates, Enterobacteriaceae family, extended-spectrum ß-lactamases 
(ESBLs), enterobacterial repetitive intergenic consensus-PCR (ERIC-PCR), cross-transmission 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Hiện nay, Việt Nam vẫn là một trong những 
nước có tỉ lệ nhiễm trùng cao trên thế giới. Đặc 
điểm khí hậu nhiệt đới là điều kiện thuận lợi cho 
vi khuẩn gây bệnh, trong đó các vi khuẩn Gram 
âm chiếm tỉ lệ khá cao, có thể đến 84,5%. Những 
vi khuẩn tác nhân quan trọng có thể kể đến: 
Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas 
aeruginosa vv, có thể gây ra các bệnh nhiễm 
trùng nguy hiểm(5). 
Mặt khác, trong môi trường bệnh viện, 
nhiễm trùng bệnh viện và nhiễm trùng chéo 
(cross-transmission) là cặp bài trùng luôn song 
hành với nhau(12). Theo số liệu của Tổ chức y tế 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 260 
thế giới, trong các loại nhiễm trùng bệnh viện thì 
viêm phổi chiếm tỉ lệ cao nhất (62,3%), kế đến tại 
vị trí đặt catheter mạch máu (18%), nhiễm khuẩn 
huyết (16%), tiếp theo là các thủ thuật can thiệp 
chẩn đoán và điều trị như bộc lộ tĩnh mạch, đặt 
thông dạ dày, đặt nội khí quản thở máy, vi 
khuẩn tác nhân thường đồng thời là vi khuẩn 
tiết enzym β-lactamase phổ rộng (ESBL)(5). Đây 
là một trong những quan tâm lớn nhất của các 
bác sĩ thực hành lâm sàng, những nhà quản lí và 
điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân. Nhiều nghiên 
cứu cho thấy nhiễm trùng chéo thường gặp nhất 
trong Khoa hồi sức cấp cứu, tần suất có thể đến 
10,7% /1000 bệnh nhân-ngày do nhiều nguyên 
nhân(212). 
Để phân tích tình trạng nhiễm chéo, phải áp 
dụng các kỹ thuật sinh học phân tử (SHPT). Đây 
là phương pháp duy nhất phân biệt hai cá thể 
cùng lòai dựa trên khác biệt các dấu ấn di truyền 
trong DNA, đã được áp dụng hữu hiệu ở các 
nước phát triển để giới hạn nguy cơ trên. Trong 
các kỹ thuật dùng phân tích dịch tễ học phân tử 
vi khuẩn gây bệnh thì kỹ thuật RAPD-PCR (PCR 
khuếch đại đa hình các đoạn DNA được khuếch 
đại ngẫu nhiên- Random Amplified 
Polymorphic DNA); nếu dùng mồi trình tự 
chung xen kẽ lặp của vi khuẩn đường ruột 
(ERIC) thì thường gọi là ERIC-PCR 
(enterobacterial repetitive intergenic consensus-
PCR), thường được sử dụng vì không cần nhiều 
trang thiết bị đắt tiền, năng lực phân tích các cá 
thể trong cùng loài khá tốt. Điện di phân tích 
trên gel agarose sẽ cho một phổ (profile) các sản 
phẩm khuếch đại, thường đặc trưng riêng biệt 
cho một chủng cụ thể(6,9,10). Ở Việt Nam chưa có 
nhiều nghiên cứu phân tích dịch tễ học tình 
trạng nhiễm chéo các vi khuẩn gây bệnh bằng 
kỹ thuật SHPT. Nghiên cứu nhằm phân tích 
dịch tễ học, bước đầu xác định tỉ lệ nhiễm chéo 
trên 2 vi khuẩn ESBL gây bệnh phổ biến là E. coli 
và Klebsiella pneumoniae tại bệnh viện bằng kỹ 
thuật ERIC-PCR. 
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chủng vi khuẩn 
Nghiên cứu được thực hiện trên 351 chủng vi 
khuẩn Gram âm được phân lập từ mẫu nước tiểu, 
máu, đàm, dịch phế quản, dịch não tuỷ, dịch 
báng tại bệnh viện Chợ Rẫy Tp.HCM từ tháng 3 
đến tháng 5 năm 2009. Tiêu chuẩn chọn bệnh 
nhân: bệnh nhân được yêu cầu tiến hành xét 
nghiệm vi sinh, chưa sử dụng kháng sinh trong 
vòng 1 tuần trước khi lấy mẫu bệnh phẩm. 
Phân lập, định danh vi khuẩn 
Theo quy trình trong “Sổ tay các quy trình 
Vi sinh lâm sàng” của bệnh viện Chợ Rẫy nhằm 
thu được các chủng thuần khiết. Các mẫu bệnh 
phẩm được hoạt hóa, phân lập trên môi trường 
thích hợp và định danh bằng các phản ứng sinh 
hóa. Thông tin dịch tễ học của bệnh nhân như 
tuổi tác, giới tính, chẩn đóan nhiễm trùng được 
ghi nhận. 
Kiểm tra tính đề kháng kháng sinh 
Thực hiện kháng sinh đồ với các chủng vi 
khuẩn đã được thuần khiết theo hướng dẫn của 
NCCLS (National Committee for Clinical 
Laboratory Standards), E. coli ATCC 25922 được 
dùng làm mẫu chứng kiểm tra chất lượng(8). Ghi 
nhận lại tỉ lệ đề kháng với 6 kháng sinh quan 
trọng nhất ở những vi khuẩn Gram âm: 
augmentin (amoxicillin+ clavulanic acid), 
ceftazidime, cetriaxone, imipenem, amikacin, và 
ciprofloxacin. Vi khuẩn được xác định là đa đề 
kháng khi đề kháng từ 3 kháng sinh trở lên(16). 
Xác định kiểu hình ESBL 
Bằng phương pháp đĩa đôi: tìm tác dụng 
hiệp lực trên thạch Mueller-Hinton giữa đĩa 
chứa 20 μg amoxicillin/10 μg clavulanic acid đặt 
chính giữa và các đĩa cephalosporin thế hệ 3 đặt 
xung quanh (đặt cách 2-3 cm tính từ trung tâm 
đĩa), gồm ceftazidime (30 μg), cefotaxim (30 μg). 
Nếu có sự tăng rộng vùng ức chế nơi giao thoa 
của 2 kháng sinh, một số tài liệu gọi là hình ảnh 
“nút chai champagne”, có thể kết luận chủng có 
tiết enzym ESBL(8). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 261
Kỹ thuật sinh học phân tử 
Chiết DNA vi khuẩn 
Hoạt hóa các chủng có kiểu hình ESBL trên 
môi trường Trypticase soy broth, sau đó thực 
hiện chiết DNA bộ gen vi khuẩn bằng bộ kit 
(Wisard SV genomic DNA purification system-
Cat A 2361-Promega). 
Thực hiện phản ứng ERIC-PCR 
Sử dụng 2 cặp mồi ERIC-2 (5'-AAG TAA 
GTG ACT GGG GTG AGC G-3') và ERIC-1026 
(5'-TAC ATT CGA GGA CCC CTA AGT G-3'). 
Phản ứng được thực hiện trên máy luân nhiệt 
(ATC401 model; Apollo-CLP) với 1 chu kỳ biến 
tính trong 3 phút ở 940C; 40 chu kỳ (1 phút ở 
960C, 1 phút ở 520C, 1 phút ở 720C); 10 phút ở 
720C. Sản phẩm khuếch đại được điện di trong 
điện trường 100V trong 45 phút trên gel agarose 
1,5% có chứa ethidium bromide. Sản phẩm được 
phát hiện dưới bước sóng 254 nm bằng hệ thống 
chụp gel (Dolphin-Doc). Kỹ thuật ERIC-PCR 
phân tích tình trạng nhiễm chéo được thực hiện 
trên 36 chủng E. coli và 25 chủng K. pneumoniae 
ESBL trong tổng số 101 chủng ESBL phát hiện 
được bằng phương pháp đĩa đôi. 
Phân tích kết quả 
Tổng số các vạch DNA về số lượng và 
kích thước tạo nên phổ riêng biệt cho từng 
chủng. Giữa các chủng vi khuẩn trong cùng 
loài được xem là có liên quan mật thiết về 
mặt di truyền với nhau khi có không quá 2 
vạch khác biệt, nói cách khác là đều từ 1 
chủng vi khuẩn đã nhiễm chéo tạo ra(10). Các 
vi khuẩn E. coli và K. pneumoniae ESBL cũng 
được phân tích các type phụ (sub-type) để từ 
đó cho biết 1 chủng vi khuẩn có thể lây nhiễm 
chéo ra bao nhiêu, số trường hợp nhiễm chéo 
sẽ bằng n-1 (n là số chủng vi khuẩn trong 
cùng loài có cùng 1 type phụ). 
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN 
Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2009, chúng tôi 
đã phân lập và định danh 494 chủng vi khuẩn từ 
448 mẫu bệnh phẩm tại bệnh viện Chợ Rẫy TP. 
HCM. 403 bệnh phẩm có 1 chủng, 44 bệnh phẩm 
có 2 chủng và 1 bệnh phẩm có 3 chủng. 
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ vi 
khuẩn Gram âm ở bệnh viện Chợ Rẫy chiếm 
đến 71% (351/494 chủng) trường hợp nhiễm 
trùng. Một nghiên cứu gần đây ở bệnh viện Nhi 
Đồng II cũng cho thấy một tỷ suất mắc của các 
vi khuẩn Gram âm lên đến 81,8%. Nghiên cứu 
khác cũng ở bệnh viện Chợ Rẫy (2003), đã kết 
luận vi khuẩn Gram âm là nguyên nhân gây 
nhiễm trùng thường gặp nhất. 
Tỉ lệ vi khuẩn ESBL trong số vi khuẩn 
Gram âm được xác định thông qua thử 
nghiệm đĩa đôi là 28,8% (101/351 chủng), vi 
khuẩn họ Enterobacteriaceae chiếm đến 81,1% 
(89/101 chủng) mà E. coli và K. pneumoniae là 
đa số, tỉ lệ lần lượt là 40,4% (36/89 chủng) và 
28,1% (25/89 chủng). Ngoài ra, Acinetobacter 
baumanii (vi khuẩn không thuộc họ 
Enterobacteriaceae) chiếm 10,9%. Nghiên cứu ở 
bệnh viện Nhiệt đới (2002-2004) thì tỉ lệ vi 
khuẩn ESBL là 33,14%, nhiều nghiên cứu khác 
cho thấy tỉ lệ vi khuẩn ESBL thay đổi tuỳ theo 
khu vực, bệnh viện hoặc quốc gia nhưng tại 
Việt nam thì thường là chiếm tỉ lệ cao(1,3,6). 
Kháng sinh đồ đối với 89 chủng ESBL thuộc 
họ Enterobacteriaceae, kết quả cho thấy mức độ đề 
kháng đối với các loại kháng sinh cephalosporin 
thế hệ thứ 3 là rất cao (ceftazidime 67,4%, 
ceftriaxon 89,9%). Sự đề kháng với 
fluoroquinolone (ciprofloxacine) cũng đáng báo 
động so với các kháng sinh khác (83,1%). Các 
chủng trên vẫn còn nhạy cảm tương đối với 
amikacin, tỉ lệ 54,8%. Imipenem và 
amoxicillin/clavulanat vẫn còn tác dụng rất tốt 
nhưng một vài chủng cũng đã xuất hiện kiểu 
hình trung gian (Bảng 1). Đa số các chủng ESBL 
đa đề kháng 6 kháng sinh, 7 kháng sinh và 8 
kháng sinh cùng một lúc với một tỷ lệ cao lần 
lượt là 32,6%, 29,2% và 21,3%, số chủng đề 
kháng 6 loại kháng sinh là nhiều nhất. Mặt khác, 
không có chủng ESBL nào đề kháng chỉ 1 hay 2 
kháng sinh. Có thể nói tình hình đề kháng 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011
Chuyên Đề Dược Khoa 262 
kháng sinh của vi khuẩn họ Enterobacteriaceae tiết 
enzym ESBL rất nghiêm trọng. 
Bảng 1. Tính đề kháng kháng sinh của họ vi khuẩn 
đường ruột Enterobacteriaceae sinh ESBL 
Kháng sinh Đề kháng (%) 
Augmentin 0 
Ceftazidime 67,4 
Ceftriaxone 89,9 
Imipenem 0 
Amikacin 36 
Ciprofloxacine 83,1 
Chúng tôi thực hiện phản ứng ERIC-PCR 
cho 36 chủng E. coli, 25 chủng K. pneumonia và 
phân tích kết quả điện di. Đối với vi khuẩn E. 
coli, chúng tôi nhận thấy có 7 type phụ gây ra 
nhiễm chéo. Trong đó có 1 type phụ A gây 
nhiễm chéo ở 9 chủng vi khuẩn, type phụ B 
nhiễm chéo ở 6 chủng vi khuẩn, type phụ C gây 
nhiễm chéo ở 3 chủng. Type phụ D, E, F, G đều 
gây nhiễm chéo ở 2 chủng vi khuẩn (Hình 1). Do 
vậy tỉ lệ nhiễm chéo ở vi khuẩn E. coli là 52,7% 
(19/36 chủng) 
Ở K. pneumoniae, các chủng cho những băng 
khuếch đại kích thước từ 300 bp đến khoảng 
2kb. Chúng tôi nhận thấy có 4 type phụ gây 
nhiễm chéo. Type phụ I gây nhiễm chéo cho 6 
chủng vi khuẩn, type phụ II gây nhiễm chéo cho 
5 chủng vi khuẩn, type phụ III gây nhiễm chéo 
cho 3 chủng vi khuẩn, type phụ IV gây nhiễm 
chéo cho 2 chủng vi khuẩn. Như vậy tỉ lệ nhiễm 
chéo của K. pneumoniae là 48% (12/25 chủng). 
Như vậy nghiên cứu bước đầu với 2 loài vi 
khuẩn E. coli và K. pneumoniae, tỉ lệ nhiễm chéo 
đã rất cao, xác định được là 50,8% (31/61 chủng). 
Hình 1. Sản phẩm phản ứng ERIC-PCR của E. coli M: Marker 1Kb (Bio-Labs); N: Marker 100 bp (Novagen). Có 7 
type phụ gây ra nhiễm chéo từ 36 chủng E. coli khảo sát: A (giếng 2,3,6,11,12,19,22,31,35), B (giếng 5,8,9,18,25,36),C 
(giếng 7,10,24), D (giếng 1,15), E (giếng 13,21), F (giếng16,33), G (giếng 29,30). Các chủng còn lại không có sự nhiễm chéo 
(giếng 4,14,17,20,23,26,27,28,32,34) 
Hình 2. Sản phẩm phản ứng ERIC-PCR của Klebsiella. Pneumoniae M: thang 1Kb(Bio Lads); M1: thang 100 bp 
(Novagen); có 4 type phụ gây ra nhiễm chéo từ 25 chủng K. pneumoniae: I (lane 1,2,3,6,9,10), II (7,15,20,21,25), III 
(18,23,24), IV (12,14). Các chủng còn lại không có sự nhiễm chéo (lane 4,5,8,11,13,16,17,19,22) 
1kb 
500 bp 700 bp 
M 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 N M 17 18 19 20 21 22 23 24 25 N 
I I I I II I I IV IV II III II II III III II
1 kb 
700 bp 
500 bp 
M 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 N M 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 N 
D A A B A C B B C A A E D F B A E A C B G G A F A B
1kb 1 kb 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Khoa 263
Nghiên cứu của Weist K cho thấy nhiễm 
chéo thường gặp nhất trong Khoa hồi sức cấp 
cứu, tần suất có thể đến 39,3 /1000 bệnh nhân-
ngày do nhiều nguyên nhân khác nhau như: 
không thực hiện nguyên tắc vệ sinh cá nhân, qui 
định trang phục phòng mổ hoặc vệ sinh các 
dụng cụ thăm khám bệnh nhân....Trong nghiên 
cứu này, những vi khuẩn thường gây nhiễm 
chéo nhất trong Khoa săn sóc đặc biệt là S. 
aureus, Enterococcus faecalis, E. coli và P. 
aeruginosa, một vi khuẩn có thể nhiễm chéo đến 
7 bệnh nhân, tỉ lệ nhiễm khuẩn chéo từ các 
chủng vi khuẩn nhiễm trùng bệnh viện là 34,6% 
(12). Nghiên cứu còn cho thấy bằng các kỹ thuật 
sinh học phân tử, nhiều tác giả khác đã chứng 
minh tỉ lệ nhiễm khuẩn chéo có thể từ 13-50% 
các chủng vi khuẩn nhiễm trùng bệnh viện. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, như vậy tỉ lệ 
nhiễm chéo chỉ tính riêng các vi khuẩn E. coli và 
K. pneumoniae ESBL tại bệnh viện lớn của nước 
ta cao hơn từ gấp rưỡi đến gần gấp đôi so với 
các nghiên cứu nước ngoài (412). Kết quả này thật 
sự nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến chất 
lượng điều trị vì các chủng vi khuẩn ESBL đều 
đa đề kháng với nhiều loại kháng sinh thông 
dụng. 
Về các nguồn lây nhiễm chéo, nghiên cứu 
năm 1997 của Marinella và cộng sự(7), đã tìm 
thấy 100% ống nghe có nhiễm Staphylococcus 
coagulase âm và 38% nhiễm S. aureus, do đó việc 
vệ sinh dụng cụ y tế thông thường cũng đóng 
vai trò rất quan trọng. Nghiên cứu đã đưa ra các 
quy trình để ngăn chặn việc làm nhiễm dụng cụ 
chăm sóc bệnh nhân, quy trình tẩy trùng và tẩy 
uế máy móc, quy trình sử dụng găng tay, áo 
choàng của nhân viên y tế. Nghiên cứu khác cho 
thấy thủ thuật chăm sóc có nguy cơ dẫn đến 
nhiễm khuẩn từ bệnh viện là: mở khí quản, thở 
máy, đặt nội khí quản, thở oxy, đặt ống thông 
tiểu, chạy thận nhân tạo, ung thư, đặt ống thông 
tĩnh mạch trung tâm; các ca phẫu thuật kéo dài 
và phẫu thuật cấp cứu cũng có nhiều nguy cơ 
dẫn đến bị nhiễm khuẩn vết mổ. Ngoài ra, các 
dụng cụ y tế đơn giản như ống nghe, máy đo 
huyết áp, nhân viên y tế, bệnh nhân và cả thân 
nhân cũng là trung gian gây nhiễm khuẩn(4). 
Gần đây, năm 2009, Chang HL và cộng sự(2) đã 
ứng dụng nhiều phương pháp sinh học phân tử 
để nghiên cứu tình hình nhiễm chéo các vi 
khuẩn kháng thuốc và nguồn gây nhiễm chéo. 
Kết quả cho thấy chính các dụng cụ y khoa và 
nhân viên y tế là nguồn lây nhiễm, nghiên cứu 
vì thế đã tìm ra nguyên nhân và đề ra biện pháp 
ngăn chặn nguồn lây lan. 
Tại Việt Nam, một nghiên cứu tại bệnh viện 
Cấp cứu Trưng Vương TP. HCM năm 2007 về 
tình trạng nhiễm khuẩn một số dụng cụ dùng 
cho bệnh nhân các khoa lâm sàng và buồng nội 
soi cũng cho thấy tỉ lệ nhiễm khuẩn vẫn cao cho 
dù đã dùng dung dịch sát khuẩn đối với các 
dụng cụ y tế như: bình kềm và kềm (6,56%), đầu 
ống nội soi dạ dày, tá tràng