Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) trên bệnh nhân (BN) bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1. Đối tượng và phương pháp: 13 BN được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng Taqman Probe. Kết quả nghiên cứu: Trước điều trị, hầu hết các BN đều có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH. Sau khi hoàn tất giai đoạn tấn công, có 5 trong 13 BN (38,46%) thì vẫn còn biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến 0,28 % trong khi FISH và RT‐PCR đều âm tính. Đối với BN ALL‐10, kết quả khảo sát bằng kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 trước điều trị là 75,82%, giảm còn 0,29% (gần 3 log) sau điều trị tấn công và không còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐ AML1 sau điều trị tăng cường. BN ALL‐13 với mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với ABL, sau điều trị xong giai đoạn tấn công, TLTBAT là 0,16% (giảm khoảng 2 log) và 0,10% sau đó 2 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ TLTBAT bắt đầu tăng lên ở các lần gửi mẫu tiếp theo lần lượt là 0,36% và 2,42% cho thấy xuất hiện lại dòng tế bào ác tính. Kết luận: Bước đầu sử dụng kỹ thuật RQ‐PCR đánh giá TLTBAT trong BCCDL‐B cho thấy có ý nghĩa trong đánh giá lui bệnh và dự đoán nguy cơ tái phát trong quá trình điều trị cho BN có mang tổ hợp gen TEL‐ AML1.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng đánh giá tồn lưu tế bào ác tính tổ hợp gen TEL‐AML1 tại Bệnh viện truyền máu huyết học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 184
BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT PCR ĐỊNH LƯỢNG
ĐÁNH GIÁ TỒN LƯU TẾ BÀO ÁC TÍNH TỔ HỢP GEN TEL‐AML1
TẠI BỆNH VIỆN TRUYỀN MÁU HUYẾT HỌC
Nguyễn Thị Minh Yên*, Phan Thị Xinh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ứng dụng kỹ thuật PCR định lượng (RQ‐PCR) trong đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT)
trên bệnh nhân (BN) bạch cầu cấp dòng lympho (BCCDL) có mang tổ hợp gen TEL‐AML1.
Đối tượng và phương pháp: 13 BN được chẩn đoán BCCDL‐B có biểu hiện TEL‐AML1 bằng RT‐PCR và
FISH được khảo sát TLTBAT lúc chẩn đoán và trong quá trình theo dõi điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR sử dụng
Taqman Probe.
Kết quả nghiên cứu: Trước điều trị, hầu hết các BN đều có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ
thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH. Sau khi hoàn tất giai đoạn tấn công, có 5 trong 13 BN (38,46%) thì vẫn còn
biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến 0,28 % trong khi FISH và RT‐PCR đều âm tính. Đối với BN
ALL‐10, kết quả khảo sát bằng kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 trước điều
trị là 75,82%, giảm còn 0,29% (gần 3 log) sau điều trị tấn công và không còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐
AML1 sau điều trị tăng cường. BN ALL‐13 với mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với ABL, sau điều
trị xong giai đoạn tấn công, TLTBAT là 0,16% (giảm khoảng 2 log) và 0,10% sau đó 2 tháng. Tuy nhiên, tỷ lệ
TLTBAT bắt đầu tăng lên ở các lần gửi mẫu tiếp theo lần lượt là 0,36% và 2,42% cho thấy xuất hiện lại dòng tế
bào ác tính.
Kết luận: Bước đầu sử dụng kỹ thuật RQ‐PCR đánh giá TLTBAT trong BCCDL‐B cho thấy có ý nghĩa
trong đánh giá lui bệnh và dự đoán nguy cơ tái phát trong quá trình điều trị cho BN có mang tổ hợp gen TEL‐
AML1.
Từ khóa: TEL‐AML1, tồn lưu tế bào ác tính, PCR định lượng.
ABSTRACT
DEVELOPMENT OF REAL‐TIME QUANTITATIVE PCR
TO MONITOR MINIMAL RESIDUAL DISEASE IN TEL/AML1 POSITIVE PATIENTS
AT BLOOD TRANSFUSION AND HEMATOLOGY HOSPITAL
Nguyen Thi Minh Yen, Phan Thi Xinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 184 ‐ 189
Object: Using Real Time Quatitative ‐ PCR (RQ‐PCR) to assess minimal residual disease (MRD) in
patients with TEL/AML1 positive acute lymphoblastic leukemia (ALL).
Methods: 13 B‐ALL patients detected TEL/AML1 positive by FISH and RT‐PCR methods before
chemotherapy are monitored MRD by RQ‐PCR with Taqman Probe.
Results: Before chemotherapy, most of patients express TEL‐AML1 at high levels by RQ‐PCR, RT‐PCR
and FISH. At the end of the induction therapy, 5 in13 cases (38.46%) are still detected MRD at the very low
levels, from 0.03% to 0.28 %; while both FISH and RT‐PCR indicate the negative result. To patient ALL‐10, the
result of RQ‐PCR shows the TEL‐AML1 high positive level at diagnosis time, standing at 75.82%, declining
* Khoa Di Truyền Học Phân Tử ‐ Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP Hồ Chí Minh
** Bộ môn Huyết Học ‐ Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. BS. Phan Thị Xinh ĐT: 093.2728.115 Email: phanthixinh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 185
sharply to 0.29% (approximately 3 logs) after induction therapy and then vanishing after intensification therapy.
Patient ALL‐13 shows positive TEL‐AML1/ABL level at 31.18%; after induction therapy, MRD occupies 0.16%
(decrease over 2 logs) and declining to 0.10% after 2 months. However, there is a significant increasing in MRD
levels of the next 2 times, 0.36% and 2.42%, respectively.
Conclusions: The first step applying RQ‐PCR method to assess MRD in TEL‐AML1 positive ALL patients
shows the important value of monitoring remission and predicts a relapse risk in treatment duration.
Key words: TEL‐AML1, minimal residual disease, Real Time Quatitative PCR.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đánh giá tồn lưu tế bào ác tính (TLTBAT) là
một yếu tố dự đoán nguy cơ tái phát rất quan
trọng ở bệnh nhân (BN) bệnh bạch cầu cấp dòng
lympho (BCCDL)(1,6,9). Trong hầu hết các nghiên
cứu, tỷ lệ TLTBAT lớn hơn 0,01% là tỷ lệ thuận
với nguy cơ tái phát(2). Hiện nay, việc đánh giá
TLTBAT trong BCCDL có thể sử dụng các kỹ
thuật như Flow Cytometry (FCM), PCR định
lượng (RQ‐PCR) các tái sắp xếp gen
imunoglobullin và T‐cell receptor và RQ‐PCR
các tổ hợp gen thường gặp(9,2,7). Trong đó, hai kỹ
thuật đầu tiên có khả năng là theo dõi khoảng 80
‐ 95% các BN(8,9). Đối với những BN BCCDL‐B có
biểu hiện tổ hợp gen như TEL/AML1, BCR/ABL,
E2A/PBX1 và MLL/AF4 thì RQ‐PCR khảo sát các
tổ hợp gen trên được lựa chọn ưu tiên vì đặc
hiệu cho dòng tế bào ung thư(2,3,6,8) và có thể theo
dõi được khoảng 30 ‐35% trường hợp.
Tổ hợp gen TEL/AML1 được tạo thành do
chuyển vị t(12;21)(p13;q22) gặp trong khoảng
20–25% BN BCCDL‐B và là yếu tố tiên lượng tốt
(8). Theo báo cáo của một số nghiên cứu, sau đợt
điều trị tấn công, kết quả đánh giá TLTBAT cho
thấy có khoảng 40‐50% bệnh nhân vẫn còn biểu
hiện tổ hợp gen TEL‐AML1(2,5). TLTBAT được
chứng minh là liên quan đến nguy cơ tái phát
sau này. Trong những nghiên cứu về vấn đề
này, các tác giả đã đưa ra kết quả chung rằng
những BN không phát hiện TLTBAT vẫn chưa
thấy bị tái phát, tuy nhiên, đối với những BN
vẫn còn TLTBAT, một số trường hợp đã bị tái
phát(4,8,11).
Huyết học (BVTMHH) TP. HCM, sau khi đã
thiết lập thành công điều kiện của kỹ thuật RQ‐
PCR cho tổ hợp gen TEL/AML1(12), chúng tôi tiến
hành khảo sát TLTBAT trên BN có biểu hiện
TEL/AML1 ở các giai đoạn sau điều trị, đặc biệt
sau giai đoạn tấn công.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Đối tượng
BN được chẩn đoán BCCDL‐B dựa vào tủy
đồ và dấu ấn bề mặt tế bào tại BVTMHH từ
tháng 06/2010 đến tháng 03/2013. Các BN này có
kết quả RT‐PCR dương tính với tổ hợp gen TEL‐
AML1 trước khi bắt đầu điều trị và có gửi mẫu
theo dõi sau điều trị.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả loạt ca.
Phương pháp tiến hành
Xử lý mẫu và ly trích RNA
Lấy 2 mL mẫu tủy trong chống đông
EDTA, ly giải hồng cầu bằng dung dịch ly giải
chứa 1M MgCl2, 5M NaCl và 1M Tris‐HCl.
Rửa tế bào bằng dung dịch đệm PBS và lấy 1 x
107 tế bào trộn đều với 1 mL Trizol (Life
Technologies, Mỹ).
RNA được ly trích từ mẫu tế bào lưu trữ với
Trizol theo qui trình kỹ thuật do công ty cung
cấp. Sau đó, đo nồng độ RNA bằng máy
Ultrospec 5300 pro (GE Heathcare, Anh). Mẫu
đạt chất lượng khi có tỉ lệ OD260/OD280 = 1,8 –
2,0. Lấy đúng 1g RNA để tổng hợp cDNA
nhằm đảm bảo sự đồng nhất đầu vào của các
mẫu cần định lượng. Lượng RNA còn lại được
lưu trữ ở nhiệt độ ‐80oC.
Tổng hợp cDNA
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 186
Tổng hợp cDNA sử dụng bộ kít Transcriptor
First Strand cDNA Synthesis Kit (Roche, Thụy
Sĩ) theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Hỗn hợp
RNA và men sao chép ngược trên được ủ bằng
máy luân nhiệt iCycler (Biorad, Mỹ) theo chu
trình luân nhiệt là 25oC trong 10 phút, 55oC
trong 30 phút, và 85oC trong 5 phút. Mẫu cDNA
được pha loãng để điều chỉnh về nồng độ 50
ng/3L và được lưu trữ ở ‐20oC đến khi sử dụng.
Thực hiện RQ‐PCR
Tiến hành chạy RQ‐PCR đồng thời mẫu
bệnh nhân, mẫu chuẩn và chứng nội tại ở cùng
điều kiện theo mô tả Thanh TTT và cộng sự(12) trên
máy CFX 96 của (Biorad, Mỹ). Mẫu chuẩn trong
nghiên cứu này được chuẩn bị theo mô tả của
Thanh TTT và cộng sự(12) với Taqman Probe có
đầu 5’ được đánh dấu bằng FAM, và đầu 3’
được đánh dấu bằng TAMRA và chứng nội tại
được lựa chọn sử dụng là gen ABL. Chu trình
luân nhiệt cho phản ứng RQ‐PCR như sau: 50oC
trong 2 phút; 95oC trong 10 phút; 50 chu kỳ với
95oC trong 10 giây, 60oC trong 30 giây. Phân tích
kết quả trực tiếp trên máy mà không cần qua
bước điện di.
Phân tích kết quả
‐ Kiểm tra các thông số của đường khuếch
đại và đường chuẩn để đánh giá tính chính xác,
hiệu suất phản ứng, và độ tin cậy của phản ứng.
‐ Tính tỉ lệ phần trăm tổ hợp gen quan tâm
so với chứng nội tại, thể hiện kết quả dưới dạng
biểu đồ để dễ dàng đánh giá được mức độ tồn
lưu tế bào ác tính.
KẾT QUẢ
Trong thời gian thực hiện nghiên cứu, chúng
tôi đã thu thập được 13 BN chẩn đoán BCCDL‐
B, thỏa mãn tiêu chuẩn chọn mẫu và được khảo
sát biểu hiện tổ hợp gen TEL‐AML1 qua các giai
đoạn điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR, trong đó
có 12 BN (ALL‐01 đến ALL‐12) là mới chẩn đoán
và 1 BN (ALL‐13) là tái phát tủy lần 2. Ở lần gửi
mẫu đầu tiên trước điều trị, hầu hết các BN đều
có biểu hiện TEL‐AML1 ở mức độ cao với kỹ
thuật RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH (Bảng 1), ngoại
trừ ALL‐11 và ALL‐13.
Bảng 1: Kết quả TEL‐AML1 với kỹ thuật RQ‐PCR,
RT‐PCR và FISH lúc chẩn đoán.
STT MÃ BN
RQ-PCR
TEL-
AML1/
ABL (%)
RT-PCR
TEL-AML1
(%)
FISH
t(12;21)
(%)
1 ALL-01 116,90 (+) 89,00
2 ALL-02 158,69 (+) 96,05
3 ALL-03 105,01 (+) 91,50
4 ALL-04 114,20 (+) 98,00
5 ALL-05 422,01 (+) 98,00
6 ALL-06 71,78 (+) 97,00
7 ALL-07 234,15 (+) 97,50
8 ALL-08 115,38 (+) 97,00
9 ALL-09 204,32 (+) 81,50
10 ALL-10 75,82 (+) 90,00
11 ALL-11 0,35 (+) 15,00
12 ALL-12 56,92 (+) 78,05
13 ALL-13 31,18 (+) 64,45
Đến lần gửi mẫu thứ hai sau khi hoàn tất
giai đoạn tấn công, những BN này không phát
hiện thấy TLTBAT bằng kỹ thuật RT‐PCR và
FISH. Tuy nhiên, 5 trong 13 BN (38,46%) vẫn còn
biểu hiện TEL‐AML1 ở mức thấp từ 0,03% đến
0,28 % với kỹ thuật RQ‐PCR (Bảng 2).
Bảng 2: Kết quả của BN còn biểu hiện TEL‐
AML1 sau hoàn tất giai đoạn tấn công.
STT MÃ BN
RQ-PCR
TEL-
AML1/ABL
(%)
RT-PCR
TEL-AML1
(%)
FISH
t(12;21)
(%)
1 ALL-05 0,28 (-) 0,00
2 ALL-07 0,03 (-) 0,00
3 ALL-09 0,04 (-) 0,00
4 ALL-10 0,29 (-) Không làm
5 ALL-13 0,16 (-) 0,00
Trong 13 BN trên, có 2 BN đã tiếp tục gửi
mẫu để khảo sát TEL/AML1 sau các đợt hóa trị
liệu. Kết quả mức độ biểu hiện TEL‐AML1 qua
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 187
các giai đoạn điều trị bằng kỹ thuật RQ‐PCR của
từng BN được mô tả như sau:
BN Châu Ngọc K. L. là BN nữ, sinh năm
2004, mã ALL‐10. Kết quả RQ‐PCR của 3 lần gởi
mẫu theo dõi điều trị của BN ALL‐10 được tóm
tắt theo biểu đồ 1.
Biểu đồ 1: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN
ALL‐10
Dựa vào biểu đồ 1, ở lần gửi mẫu đầu tiên
(ALL‐10‐1) trước điều trị, kết quả khảo sát bằng
kỹ thuật RQ‐PCR cho thấy mức độ biểu hiện tổ
hợp gen TEL‐AML1 là 75,82%. Ở lần gửi mẫu
thứ hai (ALL‐10‐2) sau khi hoàn tất giai đoạn tấn
công thì tỉ lệ này giảm gần 3 log và vẫn còn
0,29%. Đến lần gửi mẫu thứ ba (ALL‐10‐3), khi
hoàn tất tăng cường 1 bằng phát đồ FRALLE
2000 nhóm A1, kết quả RQ‐PCR cho thấy không
còn sự hiện diện của tổ hợp gen TEL‐AML1. Kết
quả RQ‐PCR so với kết quả RT‐PCR và FISH
theo Bảng 3.
Bảng 3: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca
ALL‐10 qua các lần gửi mẫu
Mã BN
RQ-PCR
TEL-AML1/ABL
(%)
RT-PCR
TEL-AML1
FISH
t(12;21) (%)
ALL-10-1 75,82 (+) 90,00
ALL-10-2 0,29 (-) Không làm
ALL-10-3 0,00 (-) 0,00
BN Phan Chí U là BN nam, sinh năm 2000,
mã ALL‐13, tình trạng bệnh là tái phát tủy lần 2.
Kết quả RQ‐PCR các lần gởi mẫu theo dõi điều
trị của BN ALL‐13 được tóm tắt theo biểu đồ 2.
BN ALL‐13 được chẩn đoán là BCCDL tái
phát và điều trị theo phác đồ COPRALL 2005.
Theo biểu đồ 2, ở lần gửi mẫu đầu tiên trước
điều trị (ALL‐13‐1), kết quả RQ‐PCR cho thấy
mức độ biểu hiện TEL‐AML1 là 31,18% so với
ABL. Sau hơn 3 tháng điều trị xong giai đoạn
tấn công, kết quả RQ‐PCR cho thấy mức độ
biểu hiện TEL‐AML1 giảm khoảng 2 log và vẫn
còn 0,16%.
Biểu đồ 2: Kết quả RQ‐PCR theo dõi điều trị của BN
ALL‐12
Sau đó 2 tháng, sau khi hoàn tất BLOCK R1
R2, RQ‐PCR cho thấy TLTBAT chỉ còn 0,10%
(Bảng 4). Đến lần gửi mẫu thứ 4 (ALL‐13‐4) và
thứ 5 (ALL‐13‐5), tỷ lệ TLTBAT đã bắt đầu tăng
lên lần lượt là 0,36% và 2,42%. RT‐PCR cho kết
quả dương tính với cả 5 lần gửi mẫu (Bảng 4).
Bảng 4: Kết quả RQ‐PCR, RT‐PCR và FISH của ca
ALL‐12
Mã BN RQ-PCR TEL-AML1/ABL (%)
RT-PCR
TEL-AML1
FISH
t(12;21 (%)
ALL-13-1 31,18 (+) 64,5
ALL-13-2 0,16 (+) 0,00
ALL-13-3 0,1 (+) Không làm XN
ALL-13-4 0,36 (+) Không làm XN
ALL-13-5 2,42 (+) Không làm XN
BÀN LUẬN
Trong 13 BN khảo sát biểu hiện TEL‐
AML1/ABL bằng RQ‐PCR trước điều trị, có 2 BN
ALL‐11 và ALL‐13 cho kết quả lần lượt là 0,35%
và 31,18%, thấp hơn nhiều so với các BN khác
(Bảng 1). Đối với trường hợp ALL‐11, kỹ thuật
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 188
FISH cho kết quả dương tính t(12;21) ở mức
thấp với 15%, ngoài ra còn có thêm 1 dòng tế
bào khác chiếm 80% biểu hiện 4 tín hiệu nhiễm
sắc thể 21. Trường hợp ALL‐13 đã được điều trị
bằng phát đồ đặc hiệu và tái phát lần 1, sau đó
được điều trị bằng phát đồ FRALLE 93 và tái
phát tủy lần 2, nên TEL‐AML1 không biểu hiện ở
mức cao. Những trường hợp mới được chẩn
đoán, chưa trải qua quá trình điều trị thì tỉ lệ
TEL‐AML1/ABL rất cao như ALL‐2, ALL‐5, ALL‐
7, ALL‐9,.. với tỉ lệ >100% (Bảng 1), cao hơn so
với tỉ lệ tế bào có t(12;21) khảo sát bằng kỹ thuật
FISH, cho thấy dòng tế bào ung thư có t(12;21)
biểu hiện bản sao TEL‐AML1 rất mạnh.
Tổ hợp gen TEL‐AML1 xuất hiện ở trẻ em
mắc bệnh BCCDL‐B cho tiên lượng tốt (5, 8). Sau
khi hoàn tất điều trị tấn công, kết quả kiểm tra
bằng FISH và RT‐PCR là âm tính hay kết quả
RQ‐PCR cho TLTBAT ở mức thấp hoặc không
phát hiện đã thể hiện khả năng đáp ứng điều
trị tốt của các BN BCCDL‐B dương tính tổ hợp
gen TEL‐AML1. Tuy nhiên, 38,46% BN vẫn còn
TLTBAT ở mức rất thấp (<1%), tương đồng với
các nghiên cứu của tác giả Gabert J (2) và
Drunat S (4) và cộng sự. Kết quả này đã phản
ánh độ nhạy cao, độ đặc hiệu theo dòng tế bào
ung thư của kỹ thuật RQ‐PCR, và đây là ưu
điểm của kỹ thuật RQ‐PCR như một công cụ
hiệu quả trong đánh giá TLTBAT với BN
dương tính với tổ hợp gen.
Việc phát hiện TLTBAT trong các BN sau
khi hoàn tất điều trị tấn công cho dự hậu về
nguy cơ tái phát, tương đồng với báo cáo của
tác giả de Haas V và cộng sự (4). Nghiên cứu
này đã so sánh trên 2 nhóm BN là chẩn đoán
mới và đã tái phát với mức độ TLTBAT sau
điều trị tấn công lần lượt là 0,02% ‐ 0,001% và
0,24% ‐ 1,2%, và từ đó đã cho thấy được ý
nghĩa quan trọng của TLTBAT trong tiên
lượng cho BN. Theo báo cáo của Madzo J và
cộng sự (8), nghiên cứu đã sử dụng kỹ thuật
RQ‐PCR và cho kết quả là có 75% BN không
còn phát hiện TLTBAT tại thời điểm kết thúc
điều trị tấn công và chưa có BN nào bị tái phát
sau 45 tháng điều trị. Tuy nhiên, đối với nhóm
BN vẫn còn phát hiện TLTBAT, có 3 BN có
TLTBAT là > 0,01% và 4 BN có TLTBAT
<0,01% đã bị tái phát. Một báo cáo khác của tác
giả Seeger K và cộng sự (11) cũng thống kê trên
94 BN và cho kết quả là 78% BN không còn
biểu hiện TEL‐AML1 sau điều trị tấn công và
cũng chưa phát hiện BN nào bị tái phát trong
thời gian nghiên cứu; trong tổng số những BN
còn dương tính thì có 2 BN đã tái phát sau 57,8
tháng điều trị.
Khả năng sống không sự kiện của các BN
mắc BCCDL‐B dương tổ hợp gen TEL‐AML1
trong 4 năm là 90% ‐ 100% (10). Chính vì vậy, sau
hơn 3 năm điều trị từ 6 ‐ 2010 đến 4 ‐ 2013, các
BN này vẫn còn trong tình trạng lâm sàng ổn
định và đang trong giai đoạn điều trị duy trì.
Tuy nhiên, tình trạng lâm sàng ổn định hiện tại
không có nghĩa loại trừ nguy cơ tái phát, nên
việc đánh giá TLTBAT trong suốt quá trình điều
trị là cần thiết. Do đó, chúng tôi đã sử dụng RQ‐
PCR để theo dõi 2 BN có gửi mẫu những lần
tiếp theo. Kết quả đánh giá TLTBAT ở BN Châu
Ngọc K. L. (ALL‐10) với tình trạng là bệnh chẩn
đoán mới và có gửi mẫu theo dõi 2 lần sau đó.
Từ lúc chẩn đoán đến lúc hoàn tất giai đoạn tấn
công và tiếp theo đó là giai đoạn tăng cường,
TLTBAT đã thuyên giảm đáng kể từ mức cao là
75,82% xuống mức 0,29% và cuối cùng là 0,00%.
Đối với BN Phan Chí U (ALL‐13), trong tình
trạng là tái phát tủy lần 2 lúc khảo sát, kết quả
RQ‐PCR trong biểu đồ biểu diễn mức độ
TLTBAT từ thuyên giảm đến sự gia tăng trở lại
qua các giai đoạn điều trị. Sau 5 tháng điều trị,
TLTBAT giảm từ 31,18% xuống mức rất thấp là
0,16% và tiếp tục giảm chỉ còn 0,10% ở lần thứ 3,
tương đồng với các kết quả khác như tình trạng
hồi phục tốt về huyết đồ, lui bệnh trên tủy đồ
cũng như dấu ấn miễn dịch sau điều trị tấn
công. Tuy nhiên, TLTBAT vẫn còn được phát
hiện ở mức thấp có thể dự đoán về nguy cơ tái
phát sau này cho bệnh nhân (4,8,11). Điều này đã
được thể hiện rõ ràng hơn khi BN tiếp tục được
theo dõi lần 4 và 5, TLTBAT bắt đầu tăng lên trở
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 189
lại, từ 0,10% lên 2,42%. Kêt quả của nghiên cứu
cho thấy việc đánh giá TLTBAT là quan trọng,
dự đoán nguy cơ tái phát của BN.
KẾT LUẬN
Kết quả bước đầu ứng dụng kỹ thuật RQ‐
PCR để đánh giá TLTBAT trên các BN BCCDL
dương tính TEL‐AML1 cho thấy sự thay đổi mức
độ biểu hiện trong suốt quá trình điều trị. Điều
này có ý nghĩa trong đánh giá lui bệnh và dự
đoán nguy cơ tái phát cho BN có mang tổ hợp
gen TEL‐AML1.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Borowitz MJ, Devidas M, Hunger SP (2008). Clinical
significance of minimal residual disease in childhood acute
lymphoblastic leukemia and its relationship to other
prognostic factors: a Childrenʹs Oncology Group study.
Blood;111(12):5477‐85.
2. Campana D (2010). Minimal residual disease in acute
lymphoblastic leukemia. Hematology Am Soc Hematol Educ
Program.;7‐12.
3. de Haas V, Breunis WB, Dee R, et al (2002). The TEL‐AML1
real‐time quantitative polymerase chain reaction (PCR) might
replace the antigen receptor‐based genomic PCR in clinical
minimal residual disease studies in children with acute
lymphoblastic leukaemia. Br J Haematol.;116(1):87‐93.
4. de Haas V, Oosten L, Dee R, et al (2000). Minimal residual
disease studies are beneficial in the follow‐up of TEL/AML1
patients with B‐precursor acute lymphoblastic leukaemia. Br J
Haematol. ;111(4):1080‐6.
5. Drunat S, Olivi M, Brunie G, et al (2001). Quantification of
TEL‐AML1 transcript for minimal residual disease
assessment in childhood acute lymphoblastic leukaemia. Br J
Haematol;114(2):281‐289.
6. Gabert J, Beilaird, et al (2003). Standardization and quality
control studies of “real‐time” quantitative reverse
transcriptase polymerase chain reaction of fusion giene
transcripts for residual disease detection in leukemia – A
Europe Against Cancer Program. Leukemia;17:2318–2357.
7. Gaipa G, Cazzaniga G, Valsecchi MG (2012). Time point‐
dependent concordance of flow cytometry and real‐time
quantitative polymerase chain reaction forminimal residual
disease detection in childhood acute lymphoblastic leukemia.
Haematologica;97(10):1582‐93.
8. Madzo J, Zuna J, Muzikova K, et al (2003). Slower Molecular
Response to Treatment Predicts Poor Outcome in Patients
with TEL/AML1 Positive Acute Lymphoblastic Leukemia.
Cancer;97:105–113.
9. Schrappe M (2012). Minimal residual disease: optimal
methods, timing, and clinical relevance for an individual