Bướu niệu mạc đường niệu trên là bệnh hiếm gặp, chiếm khoảng 5% tất cả các loại bướu niệu mạc. Trong tháng 9-10/2011, 1 trường hợp bướu niệu mạc niệu quản được chẩn đoán và điều trị thành công tại Khoa Ngoại Tổng quát Bệnh viện Thống Nhất. Bệnh nhân nam 54 tuổi với tiền sử đau hông lưng phải và tiểu máu 1 tháng. MSCT Scan cho thấy thận phải ứ nước độ II và bướu niệu mạc kích thước 16X58mm. Bệnh nhân được cắt thận niệu quản phải và một phần bàng quang quanh miệng niệu quản phải. Kết quả phẫu thuật tốt, không có biến chứng. Chúng tôi đưa ra kết luận rằng phẫu thuật cắt thận niệu quản và một phần bàng quang quanh miệng niệu quản là lựa chọn thích hợp cho bướu niệu mạc bể thận niệu quản.
3 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cắt thận niệu quản điều trị bướu niệu mạc niệu quản thông báo 01 ca lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 208
CẮT THẬN NIỆU QUẢN ĐIỀU TRỊ BƯỚU NIỆU MẠC NIỆU QUẢN
THÔNG BÁO 01 CA LÂM SÀNG
Lý Văn Quảng*, Võ Hữu Toàn*, Lê Văn Quý*
TÓM TẮT
Bướu niệu mạc đường niệu trên là bệnh hiếm gặp, chiếm khoảng 5% tất cả các loại bướu niệu mạc. Trong
tháng 9-10/2011, 1 trường hợp bướu niệu mạc niệu quản được chẩn đoán và điều trị thành công tại Khoa Ngoại
Tổng quát Bệnh viện Thống Nhất.
Bệnh nhân nam 54 tuổi với tiền sử đau hông lưng phải và tiểu máu 1 tháng. MSCT Scan cho thấy thận phải
ứ nước độ II và bướu niệu mạc kích thước 16X58mm. Bệnh nhân được cắt thận niệu quản phải và một phần
bàng quang quanh miệng niệu quản phải. Kết quả phẫu thuật tốt, không có biến chứng. Chúng tôi đưa ra kết
luận rằng phẫu thuật cắt thận niệu quản và một phần bàng quang quanh miệng niệu quản là lựa chọn thích hợp
cho bướu niệu mạc bể thận niệu quản.
ABSTRACT
NEPHROURECTERECTOMY WITH EXCISION OF A BLADDER CUFF IN TREATMENT
UROTHELIAL CARCINOMA OF THE URETER: A CASE REPORT
Ly Van Quang, Vo Huu Toan, Le Van Quy
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 208 - 210
Urothelial carcinoma of the upper tracts is a rare disease, accounting for approximately 5% of all urothelial
tumors. From September to October 2011, a patient with urothelial carcinoma of the ureter was diagnosed and
successfully treated at Surgical Department of Thong Nhat hospital.
Case report: A 54-year-old male patient presented with a one- month history of right lumbar pain with
haematuria. MSCT Scan showed moderate right hydronephrosis with right urothelial tumor 16x58 mm in
diameter. The patient underwent right nephrourecterectomy with excision of a bladder cuff. There were no
complications. We concluded that nephrourecterectomy with excision of a bladder cuff is an appropriate option for
urothelial carcinoma of the pelvic and the ureter.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bướu niệu mạc đường niệu trên là bệnh
hiếm gặp(1,5), chiếm khoảng 5% tất cả các loại
bướu niệu mạc(5,6,7). Vì bướu niệu mạc niệu quản
có thể đa ổ nên điều trị triệt để tiêu chuẩn là cắt
thận niệu quản và một phần bàng quang quanh
miệng niệu quản(1,3,4).
Trong bài báo cáo này chúng tôi xin trình
bày 1 trường hợp bướu niệu mạc niệu quản
được chẩn đoán và điều trị thành công tại
khoa Ngoại Tổng quát Bệnh viện Thống Nhất.
BỆNH ÁN
Họ và tên bệnh nhân: Trần Công Đ., Nam,
54 tuổi
Nghề nghiệp: Bảo vệ
Địa chỉ: Tân Bình, TP HCM
Ngày vào viện: 26.9.2011
Lý do vào viện: Đau hông lưng phải và tiểu
máu.
Bệnh sử: Cách nhập viện 1 tháng, bệnh nhân
đau vùng hông phải, đau âm ỉ liên tục kèm tiểu
máu đi khám và nhập bệnh viện Thống Nhất.
* Bệnh viện Thống Nhất TP.Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Lý Văn Quảng ĐT: 0913633520 Email: bslyquang@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 209
Nhập viện do có cơn đau quặn thận phải. Bệnh
nhân được SA bụng, phát hiện thận phải ứ nước
độ II. Chụp UIV không thấy sỏi hệ niệu, thận
phải câm.
Kết quả MSCT Scan (19/8/2011): Thận phải ứ
nước độ II, niệu quản phải dãn. Thương tổn mật
độ mô mềm lấp đầy lòng niệu quản phải ngang
chỗ bắt chéo bó mạch chậu, kích thước 16x58
mm. Thương tổn bắt thuốc cản quang vừa phải
và có xóa mờ mô mỡ kế cận.
Bướu niệu mạc
Hình ảnh MSCT Scan
Kết luận: Thận phải ứ nước độ II nghĩ do
bướu niệu mạc niệu quản phải.
Xạ hình thận (24/8/2011): Thận phải teo nhỏ,
suy giảm nặng chức năng. Thận trái chức năng
còn trong giới hạn bình thường.
Chẩn đoán: Bướu niệu mạc niệu quản phải
Phẫu thuật: Ngày 29/9/2011.
Vô cảm: Mê nội khí quản.
Phẫu thuật gồm 2 thì:
Thì 1: Bệnh nhân nằm nghiêng, rạch da
đường xuyên hông phải, bóc tách niệu quản
xuống vùng chậu. Bướu niệu mạc niệu quản
phải 1/3 giữa, chưa ăn qua lớp thanh mạc. Cắt
bỏ thận phải và 2/3 trên niệu quản phải.
Thì 2: Bệnh nhân nằm ngửa, rạch da đường
Gibson phải, bóc tách cắt bỏ phần còn lại niệu
quản và 1 phần bàng quang quanh lỗ niệu quản.
Thời gian mổ 110 phút, mất máu không
đáng kể. Rút ống dẫn lưu vào ngày thứ 5.
Kết quả GPB: Carcinoma tế bào chuyển tiếp,
grade 2, xâm nhập tại niệu quản.
Chẩn đoán sau mổ: Ung thư niệu mạc niệu
quản phải, T2N0M0, biệt hóa vừa.
Bệnh nhân xuất viện vào ngày 10/10/2011
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Chẩn đoán
2/3 số bệnh nhân bướu niệu mạc đường niệu
trên được phát hiện ở tuổi từ 50 đến 70 tuổi, tuổi
thường gặp nhất là 65. Nam mắc bệnh nhiều
hơn nữ (tỷ lệ nam/nữ = 3/1)(2,7).
Tiểu máu, đau hông lưng là các triệu chứng
thường gặp của bướu niệu mạc trong đó tiểu
máu là triệu chứng thường gặp nhất, chiếm tỷ lệ
là 70-90% ở các bệnh nhân(7).
Đau hông lưng chiếm tỷ lệ 8-50%, là kết quả
của tắc niệu quản do cục máu đông, mảnh u
hoặc do xâm lấn tại chỗ(7).
Triệu chứng kích thích đi tiểu gặp ở 5-10%
bệnh nhân(7). Các triệu chứng như chán ăn, sụt
cân ít gặp, thường gặp ở các bệnh nhân đã có
di căn(7).
Bệnh nhân chúng tôi có biểu hiện 2 triệu
chứng chính tiểu máu và đau hông lưng, vào
viện với cơn đau quặn thận do sỏi. Theo các
tác giả, khi bệnh nhân có tiểu máu cần phải
loại trừ bệnh lý ác tính hệ niệu trước khi nghĩ
đến các bệnh lý khác. Trong trường hợp bệnh
nhân tiểu máu mà chức năng thận còn tốt,
bệnh nhân cần phải được làm CT scan hệ niệu
có cản quang, tế bào học nước tiểu và soi
bàng quang. Tế bào học nước tiểu có độ đặc
hiệu cao nhưng độ nhạy thấp, đặc biệt đối với
các u biệt hóa tốt. Chụp UPR thích hợp cho
các bệnh nhân có suy thận không thể sử dụng
thuốc cản quang tĩnh mạch. Trong trường hợp
có mass nghi ngờ trên CT Scan hoặc các chẩn
đoán hình ảnh khác, nên nội soi niệu quản và
sinh thiết để có chẩn đoán xác định(6).
Một số bệnh nhân nhập viện do phát hiện
mass lớn ở vùng hông lưng. Mass lớn ở vùng
hông lưng do thận ứ nước hoặc do khối u lớn
chiếm tỷ lệ khoảng 10-20%(7).
Điều trị
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất TP. HCM 2012 210
Điều trị chuẩn cho bướu niệu mạc đường
niệu trên là cắt bỏ thận, niệu quản cùng bên và 1
phần bàng quang quanh niệu quản(1,2,3,7,9). Niệu
quản phải được cắt bỏ kèm với thận vì bướu
niệu mạc có nguy cơ đa ổ dọc theo toàn bộ
đường niệu trên cao và không thể theo dõi mõm
cắt NQ một cách chính xác sau mổ(4). Phẫu thuật
này có thể tiến hành bằng mổ mở hoặc nội soi.
Bệnh nhân chúng tôi do đã có vết mổ hông lưng
lấy sỏi thận trước đây nên phải mổ hở để cắt bỏ
thận và toàn bộ niệu quản.
Theo các tác giả, u niệu mạc thường gặp ở
đoạn niệu quản dưới hơn: khoảng 70% u niệu
mạc ở 1/3 dưới NQ, 25% ở 1/3 giữa, 5% ở 1/3
trên(9). Riêng các trường hợp u khu trú ở 1/3
NQ dưới có thể xem xét chỉ định bão tồn thận
bằng cách cắt bỏ đoạn niệu quản dưới bị tổn
thương và cắm lại niệu quản trên vào bàng
quang(6). Bệnh nhân bướu niệu mạc niệu quản
biệt hóa tốt, giai đoạn sớm, kích thước khối u
nhỏ, có thể điều trị bằng đốt điện hoặc bằng
laser qua nội soi niệu quản, tuy nhiên bướu
biệt hóa xấu thì điều trị thông thường là cắt
bỏ toàn bộ thận và niệu quản(3,6).
Theo dõi
Theo các báo cáo gần đây, tỷ lệ tái phát
chung của bướu niệu mạc sau phẫu thuật là
8,7%-42%, thời gian tái phát trung bình là 7-18
tháng, vì vậy đòi hỏi cần có sự theo dõi chặt chẽ
và lâu dài(5). Tuy nhiên chưa có sự đồng thuận
về phác đồ theo dõi tái phát và di căn bướu.
Theo nhiều tác giả, CT Scan, UIV, SA là các
phương tiện chẩn đoán chính để theo dõi sau
mổ. Chụp bể thận niệu quản ngược dòng (UPR),
soi niệu quản chỉ tiến hành khi có nghi ngờ trên
kết quả của chẩn đoán hình ảnh.
Các chẩn đoán hình ảnh được thực hiện mỗi
3-4 tháng trong 2 năm đầu, sau đó tiến hành mỗi
6 tháng.
Chụp tim phổi, CT Scan ổ bụng hàng năm
thường quy để phát hiện di căn xa và tái phát
sau phúc mạc.
Theo Hiệp hội niệu khoa Châu Âu (EAU),
Xquang ngực và CT Scan bụng cần tiến hành
mỗi 6 tháng trong 2 năm đầu và sau đó hàng
năm cho các bệnh nhân từ T2 trở lên(5).
Theo phác đồ của NCCN UIV hoặc CT Scan
có cản quang sử dụng cho các bệnh nhân có
chức năng thận bình thường, UPR và MRI cho
các trường hợp có suy thận(5).
30 đến 70% bệnh nhân bướu niệu mạc
đường niệu trên sẽ phát triển bướu bàng quang,
vì vậy soi bàng quang định kỳ cần tiến hành cho
tất cả các bệnh nhân bướu niệu mạc.
KẾT LUẬN
Điều trị bướu niệu mạc niệu quản chưa xâm
lấn chủ yếu là bằng phẫu thuật. Tuy nhiên do tỷ
lệ tái phát sau mổ cao nên cần phải có sự theo
dõi chặt chẽ để phát hiện tái phát, di căn kịp
thời. CT scan hệ niệu có cản quang, tế bào học
nước tiểu và soi bàng quang là các phương pháp
chẩn đoán cần thiết cho các bệnh nhân tiểu máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Châu Quý Thuận, Trần Ngọc Sinh (2007), Bướu niệu mạc: Cắt
thận niệu quản qua nội soi sau phúc mạc tại bệnh viện Chợ
Rẫy, Y học TP. Hồ Chí Minh, Tập 11, Phụ bản số 1: 219-223.
2. Nguyễn Phương Hồng (2007), U đường tiết niệu trên, Bệnh
học Tiết niệu, Nhà xuất bản Y học, Hà nội: 383-393.
3. Trần Ngọc Sinh (2004), Bướu niệu quản, Sổ tay tiết niệu học
lâm sàng, Nhà xuất bản Y học, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí
Minh: 52-54.
4. Bajorin DF (2011), “Tumors of the kidney, bladder, ureters,
and renal pelvis”, Goldman: Goldman's Cecil Medicine.
Saunders.
5. Bradford TJ, Montie JE, Hafez KS (2006), “The role of imaging
in the surveillance of urologic malignancies”, Urol Clin N Am
33:377–396.
6. Clark PE (2010), “Malignant Tumors of the Urogenital Tract”,
Bope: Conn's Current Therapy 2011, Saunders.
7. Konety BR, Carroll PR (2008), “Urothelial Carcinoma: Cancers
of the Bladder, Ureter & Renal Pelvis”, Smith’s General
Urology, McGraw-Hill Companies: 308-327.
8. Olumi AF, Richie JP (2007), Urologic Surgery, Townsend:
Sabiston Textbook of Surgery, Saunders.
9. Sagalowsky AI, Jarrett TW, Flanigan RC (2011), “Urothelial
tumors of the upper urinary tract and ureter’, Wein: Campbell-
Walsh Urology, 10th Edition, Saunders Elsevier, Philadelphia.