Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến đến điều trị tại BV Da liễu TP HCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011

Mở đầu: Vẩy nến là một bệnh lý hệ thống của da và khớp với diễn tiến mạn tính, ít gây tử vong nhưng bệnh lại gây tổn thương nặng nề về mặt thể xác và tinh thần làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh vẩy nến đối với chất lượng cuộc sống cũng như khảo sát những yếu tố góp phần làm cho chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy giảm nặng nề hơn giúp cải thiện phần nào tình trạng sức khoẻ, xoá bỏ những mặc cảm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh trong tương lai. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011 Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tương quan. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân ≥ 15 tuổi bị bệnh vẩy nến chỉ có sang thương da và không có tổn thương khớp đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011. Kết quả: Có 181 bệnh nhân được nhận vào mẫu. Mức độ ảnh hưởng lên đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần lần lượt là 28% và 39%. Một số yếu tố có mối liên quan làm chất lượng cuộc sống bệnh nhân vẩy nến suy giảm nặng nề hơn là: nữ, khởi phát sớm trước 30 tuổi, thể vẩy nến đỏ da toàn thân, bệnh nhân có sang thương ở vùng da không thể che dấu như mặt, bàn tay, bàn chân, móng, và bệnh càng nặng (điểm PASI càng cao) thì chất lượng cuộc sống càng bị ảnh hưởng nặng.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến đến điều trị tại BV Da liễu TP HCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa II 284 CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN VẨY NẾN ĐẾN ĐIỀU TRỊ TẠI BV DA LIỄU TP HCM TỪ 01/09/2010 ĐẾN 30/04/2011 Trương Thị Mộng Thường*, Lê Ngọc Diệp* TÓM TẮT Mở đầu: Vẩy nến là một bệnh lý hệ thống của da và khớp với diễn tiến mạn tính, ít gây tử vong nhưng bệnh lại gây tổn thương nặng nề về mặt thể xác và tinh thần làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh vẩy nến đối với chất lượng cuộc sống cũng như khảo sát những yếu tố góp phần làm cho chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy giảm nặng nề hơn giúp cải thiện phần nào tình trạng sức khoẻ, xoá bỏ những mặc cảm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh trong tương lai. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011 Phương pháp nghiên cứu: Mô tả tương quan. Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân ≥ 15 tuổi bị bệnh vẩy nến chỉ có sang thương da và không có tổn thương khớp đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011. Kết quả: Có 181 bệnh nhân được nhận vào mẫu. Mức độ ảnh hưởng lên đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần lần lượt là 28% và 39%. Một số yếu tố có mối liên quan làm chất lượng cuộc sống bệnh nhân vẩy nến suy giảm nặng nề hơn là: nữ, khởi phát sớm trước 30 tuổi, thể vẩy nến đỏ da toàn thân, bệnh nhân có sang thương ở vùng da không thể che dấu như mặt, bàn tay, bàn chân, móng, và bệnh càng nặng (điểm PASI càng cao) thì chất lượng cuộc sống càng bị ảnh hưởng nặng. Kiến nghị: Cần mở các buổi tư vấn nhóm cũng như các phòng tư vấn cá nhân tại bệnh viện giúp cho các bệnh nhân vẩy nến có nhu cầu chia sẽ những lo lắng, buồn phiền cũng như các khó khăn trong việc đối phó với bệnh. Bên cạnh đó, những bệnh nhân có các yếu tố góp phần làm chất lượng cuộc sống suy giảm nặng nề sẽ là đối tượng mà các bác sĩ lâm sàng nên quan tâm và khuyến khích họ tham gia vào các buổi tư vấn tâm lý nhóm hoặc cá nhân để quá trình điều trị bệnh đạt được hiệu quả mong muốn và hạn chế tái phát bệnh. Từ khóa: chất lượng cuộc sống, vẩy nến ABSTRACT THE QUALITY OF LIFE OF PATIENTS WHO HAD BEEN DIAGNOSED AND TREATED OF PSORIASIS AT HOSPITAL OF DERMATO – VENEREOLOGY, HCMC FROM 01/09/2010 TO 30/04/2011 Truong Thi Mong Thuong, Le Ngoc Diep * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 284 – 292 Backgrounds: Psoriasis is a common chronic and recurrent systematic disease of the skin and joints. Although psoriasis generally does not affect survival, it can have a significant negative impact on the physical, emotional, and psychosocial wellbeing of affected patients. Therefore this study was conducted to assess the impact of psoriasis on quality of life as well as examine the factors contributing to make the patient’s life harder, thus * Học viên Cao học Da Liễu khóa 2009-2011, ** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP. HCM Tác giả liên lạc: TS. Lê Ngọc Diệp ĐT: 0938106969 Email: drngocdiep@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa II 285 helping improve their health, eliminating the inferiority and enhancing their quality of life in the future. Objectives: To determine the quality of life of patients who had been diagnosed and treated of psoriasis at Hospital of Dermato–Venereology, HCMC from 01/09/2010 to 30/04/2011 Methods: Cross sectional correlational study. Subjects were psoriasis patients ≥ 15 years with only skin lesions and no joint damage who had been diagnosed and treated of psoriasis at Hospital of Dermatology – Venereology, HCMC from 01/09/2010 to 30/04/2011. Results: 181 patients were admitted to the sample. The level of impact on daily life and mental life in turn is 28% and 39%. A number of factors relate to the psoriasis patients’ quality of life decline were: female, early onset before 30 years of age, erythroderma psoriasis, patients with exposed skin lesions in face, hands, feet and nails. The higher PASI scores are, the more severely affected the quality of patients’ life. Conclusion: It’s necessary to open a counseling group and individual counseling departments in hospitals to help psoriasis patients who need to share worries, sorrows and difficulties in coping with illness. In addition, patients who have been affected by the quality of life declining factors should be carefully considered by the physicians, thus encouraging them to participate in group or individual psychology counseling sessions to enhance the treatment effectiveness and minimize relapse. Key words: quality of life, psoriasis ĐẶT VẤN ĐỀ Vẩy nến là một bệnh viêm da và khớp với diễn tiến mạn tính, hay tái phát và rất thường gặp, chiếm tỉ lệ từ 1-2% dân số thế giới(2). Tại Mỹ, vẩy nến ảnh hưởng khoảng 2,2% dân số, với gần 150000 trường hợp mới mắc mỗi năm(2). Tại Trung Quốc, tỉ lệ mắc khoảng 1% dân số(Error! Reference source not found.) Tại Việt Nam, vẩy nến cũng là một bệnh da khá thường gặp. Theo thống kê ở bệnh viện Da Liễu Tp.HCM năm 2001, số bệnh nhân vẩy nến đến khám chiếm tỉ lệ 2,32%, đứng hàng thứ tư sau chàm, mụn trứng cá, mề đay(1). Mặc dù bệnh vẩy nến ít gây tử vong, trừ những trường hợp nặng như đỏ da toàn thân, mụn mủ toàn thân nhưng bệnh lại gây tổn thương nặng nề về mặt thể xác và tinh thần làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân(2,10). Do đó trên thế giới đã tiến hành rất nhiều công trình nghiên cứu về những tác động của bệnh vẩy nến lên chất lượng cuộc sống để có một cái nhìn toàn diện và đúng đắn về những ảnh hưởng của bệnh vẩy nến đối với người bệnh. Kết quả cho thấy bệnh vẩy nến có ảnh hưởng tiêu cực trên tất cả các khía cạnh của cuộc sống như trong công việc học tập, nghề nghiệp, các mối quan hệ xã hội, đời sống tình dục và cuộc sống gia đình của bệnh nhân(4,10) Ở Việt Nam cũng có các nghiên cứu được thực hiện liên quan đến bệnh vẩy nến tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu nói trên chỉ khảo sát về các yếu tố dịch tễ, các yếu tố thuận lợi, lâm sàng và đánh giá kết quả các phương pháp điều trị của bệnh vẩy nến, chưa có nghiên cứu nào đánh giá về ảnh hưởng của vẩy nến lên chất lượng cuộc sống bệnh nhân. Vì vậy nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh vẩy nến đối với chất lượng cuộc sống cũng như khảo sát những yếu tố góp phần làm cho chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy giảm nặng nề hơn để giúp cải thiện phần nào tình trạng sức khoẻ, xoá bỏ những mặc cảm và nâng cao chất lượng cuộc sống của người bệnh trong tương lai. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu tổng quát Xác định chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu TPHCM từ 01/09/2010 đến 30/04/2011. Mục tiêu chuyên biệt 1. Xác định ảnh hưởng của bệnh vẩy nến lên các hoạt động hàng ngày, nghề nghiệp, giải trí, các quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của bệnh nhân vẩy nến. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa II 286 2. Xác định mối liên quan của các yếu tố như tuổi, giới, trình độ học vấn, mức độ nặng, vị trí sang thương, thời gian bệnh, thể vẩy nến ảnh hưởng lên chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả – tương quan Đối tượng nghiên cứu Tất cả các bệnh nhân vẩy nến đến khám và điều trị tại bệnh viện Da liễu Tp.HCM từ 01/09/2010 đến 30/04//2011 hội đủ tiêu chuẩn sau: - Bệnh nhân ≥ 15 tuổi. - Chỉ có sang thương da và không có tổn thương khớp. Trường hợp bệnh khó xác định chẩn đoán sẽ được hội chẩn với các Bác sĩ bộ môn Da Liễu Đại học Y Dược. - Đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại ra - Bệnh nhân tâm thần. - Bệnh nhân vẩy nến khớp Phương pháp nghiên cứu Công thức tính cỡ mẫu 2 22 )2/1( d Z n   n: cỡ mẫu α: xác suất sai lầm loại I Z: trị số từ phân phối chuẩn, với = 0,05  Z2 (1- α /2) = 1,962 s: độ lệch chuẩn (Theo nghiên cứu của A.Y. Finlay cùng các cộng sự thì mức độ ảnh hưởng của bệnh vẩy nến lên chất lượng cuộc sống là (38,8 % + 23,3%) [4] nên chọn ε = 23,3) d: độ chính xác mong muốn (d = 3,5)  n = 170 Xử lý và phân tích dữ kiện Đối với bộ câu hỏi PDI: Phần câu hỏi về các hoạt động hàng ngày, công việc, các quan hệ cá nhân, giải trí, điều trị: Mỗi câu hỏi có 4 đáp án cho bệnh nhân chọn lựa là rất nhiều, nhiều, ít, không ảnh hưởng sẽ lần lượt tương tứng với các điểm là 3, 2, 1, 0. Kết quả sẽ là tổng điểm của 17 câu hỏi với số điểm cao nhất là 51 điểm và thấp nhất là 0 điểm tương ứng với mức ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống cao nhất là 100% (51 điểm) và hoàn toàn không ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống là 0% (0 điểm). Như vậy tỉ lệ % càng cao thì bệnh nhân càng bị ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống. Đối với bộ câu hỏi PLSI: Mỗi câu hỏi có 4 đáp án cho bệnh nhân chọn lựa là nhiều, vừa, nhẹ và không ảnh hưởng sẽ lần lượt tương tứng với các điểm là 3, 2, 1, 0. Kết quả sẽ là tổng điểm của 18 câu hỏi với số điểm cao nhất là 54 điểm và thấp nhất là 0 điểm tương ứng với mức độ stress, căng thẳng gây ra bởi bệnh vảy nến cao nhất là 100% (54 điểm) và hoàn toàn không bị ảnh hưởng là 0% (0 điểm). Như vậy tỉ lệ % càng cao thì bệnh nhân càng bị stress và căng thẳng do bệnh vảy nến càng nhiều. Số liệu sau khi được thu thập sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS 19. Các trị số được thể hiện bằng (trung bình + độ lệch chuẩn) hay tần số, tỷ lệ % để mô tả các biến số định tính. Kiểm định: dùng test t để so sánh 2 trị số trung bình, test Chi2 để so sánh 2 tỷ lệ, phép kiểm Fisher dùng trong so sánh 2 phương sai và phép kiểm chính xác Fisher (khi tần số lý thuyết < 5), p < 0,05 được xem như có ý nghĩa thống kê. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Từ ngày 01/ 09/ 2010 đến 30/ 04/ 2011, tại bệnh viện Da Liễu Tp HCM, có 181 trường hợp được chẩn đoán vẩy nến không có tổn thương khớp được nhận vào mẫu. Một số đặc điểm dịch tễ và lâm sàng - Giới: Nam 66,3%, nữ 33,7%. - Tuổi từ 15 đến 83 tuổi, trung bình 45,3 + 15,4, đa số thuộc nhóm tuổi 45 đến 55 (22,1%). - Trình độ học vấn: đa số có trình độ cấp 3 (36%) và đại học/ cao đẳng (21%). - Hoạt động thể lực: đa số bệnh nhân hoạt động thể lực không đều (63,5%). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa II 287 - Tiền sử gia đình: gặp nhiều nhất là bà con khác (5,5%) và cha (4,4%). - Tuổi khởi phát bệnh: trung bình là 34,87 tuổi (1 tháng đến 79 tuổi), đa số khởi phát bệnh muộn sau 30 tuổi chiếm 60,2% so với khởi phát bệnh sớm trước 30 tuổi là 39,8%. - Thời gian bệnh: trung bình là 116,5 tháng (1 đến 564 tháng), đa số bệnh nhân có thời gian mắc bệnh kéo dài trên 10 năm (37,6%). - Thể vẩy nến: vẩy nến mảng chiếm tỉ lệ cao nhất là 74,6% và vảy nến mủ chiếm tỉ lệ thấp nhất là 4,4%. Không có bệnh nhân mắc vẩy nến giọt và vẩy nến đảo nghịch. - Vị trí thương tổn: vị trí thường gặp là da đầu, thân mình và chi. Đa số bệnh nhân có sang thương vẩy nến nằm ở cả vùng da có thể che dấu được và vùng da dễ bị nhìn thấy (74,6%). - Độ nặng của bệnh: đa số là bệnh vẩy nến nặng (PASI > 20 điểm) chiếm 40,3%. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến Có 12 trường hợp (chiếm 6,6%) không bị bệnh vẩy nến làm ảnh hưởng đời sống sinh hoạt và 2 trường hợp (chiếm 1,1%) không bị bệnh vẩy nến làm ảnh hưởng đời sống tinh thần. Trong các yếu tố về đời sống sinh hoạt, quan hệ cá nhân và hoạt động giải trí là 2 yếu tố có tỉ lệ bệnh nhân hoàn toàn không bị ảnh hưởng cao nhất với 82 trường hợp (chiếm 45,3%) và 66 trường hợp (chiếm 36,5%), trong khi nghề nghiệp là yếu tố có mức ảnh hưởng cao nhất với 24 trường hợp (chiếm 13,3%) là bị bệnh ảnh hưởng hoàn toàn đến công việc/ học tập. Đối với đời sống hằng ngày của bệnh nhân Yếu tố Điểm tối đa (%) Điểm tối thiểu (%) Trung bình + ĐLC (%) Hoạt động hằng ngày 15 (100%) 0 (0%) 5,85 + 4,03 (39,00 + 26,89)% Nghề nghiệp 9 (100%) 0 (0%) 3,30 + 3,10 (36,77 + 34,45)% Quan hệ cá nhân 9 (100%) 0 (0%) 1,51 + 1,89 (16,88 + 21)% Hoạt động giải trí 9 (75%) 0 (0%) 2,10 + 2,23 (17,54 + 18,6)% Điều trị 6 0 1,75 + 1,47 (100%) (0%) (29,18 + 24,65)% PDI 40 (78,43%) 0 (0%) 14,46 + 10,28 (28,36 + 20,16)% Nhận xét: Đời sống sinh hoạt của 181 bệnh nhân vẩy nến bị ảnh hưởng trung bình là 28,36%. Sinh hoạt hàng ngày và nghề nghiệp là bị ảnh hưởng nhiều nhất với tỉ lệ trung bình lần lượt là 39% và 36,77%. Mối quan hệ cá nhân và hoạt động giải trí lại là 2 yếu tố ít bị ảnh hưởng nhất với tỉ lệ trung bình lần lượt là 16,88% và 17,54% Đối với đời sống tinh thần của bệnh nhân Đời sống tinh thần của bệnh nhân bị ảnh hưởng với tỉ lệ trung bình là 39 + 23,7%. Trong đó bị ảnh hưởng nhiều nhất là 94,4% và thấp nhất là 0% nghĩa là vẫn có bệnh nhân không bị bệnh làm ảnh hưởng về đời sống tinh thần. Mối liên quan giữa các yếu tố dịch tễ, lâm sàng với CLCS của bệnh nhân vẩy nến Về dịch tễ Giới tính Yếu tố Trung bình + ĐLC Giá trị p PDI (%) Nam 25,42 + 19,48 p = 0,005 Nữ 34,16 + 20,37 PLSI (%) Nam 36,21 + 23,81 p = 0,025 Nữ 44,50 + 22,54 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ ảnh hưởng của bệnh lên đời sống sinh hoạt và đời sống tinh thần giữa 2 giới nam và nữ. Tuổi: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ ảnh hưởng của bệnh lên chất lượng cuộc sống giữa các nhóm tuổi trong mẫu (p> 0,05). Về lâm sàng Tuổi khởi phát bệnh Tuổi khởi phát Trung bình + ĐLC Giá trị p PDI (%) Sớm 33,25 + 19,73 p = 0,008 Muộn 25,14 + 19,88 PLSI (%) Sớm 45,93 + 24,84 p = 0,001 Muộn 34,43 + 21,77 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ ảnh hưởng của bệnh lên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa II 288 chất lượng cuộc sống giữa 2 nhóm tuổi khởi phát bệnh. Thể vẩy nến Thể vẩy nến PDI (%) PLSI (%) Trung bình + ĐLC Trung bình + ĐLC Vẩy nến mảng 24,71 + 19,84 35,66 + 23,15 Vẩy nến mủ 40,92 + 21,87 48,84 + 24,06 Đỏ da toàn thân 38,69 + 16,38 48,81 + 22,61 Giá trị p p = 0,000 p = 0,004 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ ảnh hưởng của bệnh lên chất lượng cuộc sống giữa các nhóm mắc các thể bệnh vẩy nến khác nhau. Thể vẩy nến PDI PLSI VNMảng VNMủ p = 0,066 p = 0,355 VNMảng Đỏ da toàn thân p = 0,000 p = 0,007 VNMủ Đỏ da toàn thân p = 1,000 p = 1,000 Nhận xét: Kết quả chỉ cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ ảnh hưởng lên chất lượng cuộc sống giữa 2 thể bệnh vẩy nến mảng và đỏ da toàn thân. Vị trí thương tổn Vị trí sang thương Trung bình + ĐLC Giá trị p PDI (%) Chỉ ở vùng da dễ che dấu 15,81 + 13,43 p = 0,000 Có ở cả 2 vùng 32,65 + 20,31 PLSI (%) Chỉ ở vùng da dễ che dấu 27,81 + 18,55 p = 0,000 Có ở cả 2 vùng 42,81 + 24,06 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về vị trí sang thương. Độ nặng của bệnh Độ nặng của bệnh PDI (%) PLSI (%) Trung bình + ĐLC Trung bình + ĐLC Nhẹ 17,50 + 17,13 29,26 + 21,14 Trung bình 27,76 + 18,30 38,23 + 22,42 Nặng 39,24 + 18,08 48,87 + 22,82 Giá trị p p = 0,000 p = 0,000 Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về độ nặng của bệnh theo PASI Độ nặng của bệnh PDI PLSI Nhẹ Trung bình p = 0,015 p = 0,14 Trung bình Nặng p = 0,005 p = 0,054 Nặng Nhẹ p = 0,000 p = 0,000 Nhận xét: Đối với mức độ ảnh hưởng lên đời sống sinh hoạt, có sự khác biệt có ý nghĩa giữa từng cặp nhóm có độ nặng khác nhau. Đối với mức độ ảnh hưởng lên đời sống tinh thần, chỉ có nhóm bệnh nhẹ và nhóm bệnh nặng là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. BÀN LUẬN Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân vẩy nến Trong 181 trường hợp thu vào mẫu nghiên cứu, có 12 ca (chiếm 6,6%) không bị bệnh vẩy nến làm ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và 2 ca (chiếm 1,1%) không bị bệnh làm ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của bệnh nhân, nghĩa là bệnh nhân vẫn giữ được việc sinh hoạt, học tập, nghề nghiệp, vui chơi giải trí và các mối quan hệ xã hội như trước khi mắc bệnh. Như vậy có đến 169 bệnh nhân (chiếm 93,4%) bị ảnh hưởng đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và 179 bệnh nhân (chiếm 98,9%) bị ảnh hưởng đến đời sống tinh thần khi mắc bệnh vẩy nến, tỉ lệ này khá cao so với nghiên cứu của Hiệp hội vẩy nến quốc tế năm 1998 là chỉ có 79% bệnh nhân cho rằng bệnh có ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống sinh hoạt và tinh thần của họ(10). Điều này có thể do Việt Nam chúng ta là nước đang phát triển, trình độ hiểu biết về bệnh của người dân chưa cao, chế độ chăm sóc y tế cũng như mối quan tâm của bác sĩ dành cho bệnh nhân không cao bằng các nước tiên tiến trên thế giới khiến cho tỉ lệ bệnh nhân bị bệnh vẩy nến làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống cao hơn so với các nghiên cứu khác Đối với đời sống hằng ngày của bệnh nhân (bảng 6 và 7) Hoạt động hàng ngày: Trong nghiên cứu này nhận thấy có 20 bệnh nhân (chiếm 11%) không bị bệnh vẩy nến gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày và 5 bệnh nhân (chiếm 2,8%) bị bệnh gây ảnh hưởng hoàn toàn đến sinh hoạt hàng ngày. Như vậy có 89% bệnh nhân mắc bệnh vẩy nến trong nghiên cứu này có sinh hoạt hàng ngày bị ảnh hưởng ở mức độ trung bình là Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa II 289 39%, trong khi nghiên cứu của Finlay và Coles thì mức độ ảnh hưởng lên sinh hoạt hàng ngày trung bình là 49%(3) và nghiên cứu của Rakhesh và CS là 51,5%(11). Kết quả về mức độ ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày của nghiên cứu này hơi thấp hơn các nghiên cứu khác có thể do khí hậu ở nước ta là nóng ẩm, người bệnh dù trước hay sau khi mắc bệnh vẫn có thói quen tắm giặt thường xuyên, bên cạnh đó vì bệnh da không gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của bệnh nhân nên các công việc hằng ngày trong gia đình sẽ không bị bệnh làm ảnh hưởng nhiều. Nghề nghiệp: Nghiên cứu này có 71,8% bệnh nhân bị bệnh ảnh hưởng đến công việc học tập và nghề nghiệp ở mức độ trung bình là 37%. Kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu của Finlay và Coles là 34%(3) và của Rakhesh và CS là 47%(11). Quan hệ cá nhân: Có đến 82 bệnh nhân (chiếm 45,3%) hoàn toàn không bị bệnh gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ cá nhân của bản thân và chỉ có 1 bệnh nhân (chiếm 0,6%) là bị bệnh gây ảnh hưởng hoàn toàn đến các mối quan hệ của bản thân. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ ảnh hưởng trung bình đến quan hệ cá nhân là 16,9%, kết quả này khá tương đồng với nghiên cứu của Rakhesh và CS là 17,9%(11) nhưng thấp hơn nghiên cứu của Finlay và Coles là 30%(3), điều này có thể do lối sống và thói quen sống của văn hoá xã hội Việt Nam mang tính tương thân tương ái, trọng tình nghĩa, trong khi đời sống ở Anh là lối sống tự do cá nhân không ràng buộc cho nên mức độ bị ảnh hưởng do bệnh nhiều hơn. Hoạt động giải trí: Trong nghiên cứu của tôi có 63,5% bệnh nhân bị bệnh vẩy nến làm ảnh hưởng đến việc tham gia các hoạt động giải trí bên ngoài và phải thay thế bằng các hình thức như hút thuốc lá, uống rượu bia với mức độ bị ảnh hưởng trung bình là 17,5%, thấp hơn so với 34% nghiên cứu của Finlay và Coles(3) và 25% nghiên cứu của Rakhesh(11). Có thể do chỉ trong những năm gần đây nước ta mới bắt đầu có những trung tâm thể thao và giải trí so với các nước phát triển đã hình thành nếp sống tập thể dục và giải trí tại các trung tâm, du lịch thường xuyên vì vậy việc mắc bệnh vẩy nến làm họ mặc cảm không thể tham gia các hoạt động vui chơi giải trí mang tính cộng đồng nên mức độ ảnh hưởng sẽ nhiều hơn so với các bệnh nhân trong nghiên cứu củ