Bớc đầu tiên và quan trọng nhất trong xây dựng một chơng trình nhân giống cân bằng
là xây dựng một tập hợp các mục tiêu nhân giống.
Để thực hiện đợc điều này cần phải nắm đợc:
Tiềm năng sản xuất hoặc khả năng của trang trại.
Mức năng suất xuất hiện tại của đàn gia súc của bạn.
Các yêu cầu của thị trờng hoặc thị trờng bạn có kế hoạch cung cấp sản phẩm.
Những hạn chế về môi trờng.
Một khi các mục tiêu nhân giống đã đợc thiết lập công việc tiếp theo là xác định các tiêu
chuẩn chọn lọc sẽ đợc sử dụng trong đàn để đáp ứng mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện đợc việc này cần lập danh sách:
Các tính trạng quan trọng về kinh tế.
Mục tiêu sản xuất trong tơng lai.
Tiêu chuẩn chọn lọc.
Loại những con cái không chửa đẻ.
Những con đực có tốc độ sinh trởng cao cần chọn lọc.
Điều quan trọng là phải xác lập các mối liên kết hoặc t ơng quan di truyền giữa các tính
trạng và qua đó lựa chọn một tính trạng có thể tác động đến một tính trạng khác. Tác
động này có thể tích cực hoặc tiêu cực (có lợi hoặc có hại). Thí dụ chọn lọc về tốc độ sinh
trởng có thể làm tăng khối lợng sơ sinh, do đó làm tăng các trờng hợp đẻ khó.
Tiêu chuẩn chọn lọc cần đợc xếp u tiên theo tầm quan trọng kinh tế của các tính trạng.
Một số tiêu chuẩn chọn lọc sẽ đ ợc áp dụng trên cơ sở "tất cả hoặc không". Tính tình có
thể là một tính trạng nh vậy mà ở đó nếu gia súc đợc cho là có tính tình không hiền lành
thì phải loại thải, không kể gia súc đó đáp ứng các tiêu chuẩn khác nh thế nào.
Ngời quản lý đàn cần phải nhận rõ đợc ảnh hởng của chọn lọc con cái đến toàn đàn.
Trong một đời một bò cái giống có thể sản xuất 8 bê trong khi một con đực có thể sản
xuất đợc 120 bê.
Điều quan trọng là xác định khía cạnh nào trong quản lý chăm sóc đàn mà ng ời quản lý
có thể tác động để thay đổi năng suất bò cái. Các khía cạnh này là:
Dinh dỡng
Quản lý phối giống.
Di truyền (chọn lọc)
Bệnh tật.
Dinh dỡng có thể là yếu tố ảnh hởng lớn nhất đến khả năng sản xuất của bò cái nhng
yếu tố này không đợc thảo luận một cách chi tiết trong cuốn sách này. Cuốn sách này
chỉ đề cập đến các vấn đề:
Sinh sản (cấu tạo chức năng của đờng sinh dục cái)
Giá trị của chọn lọc
Chọn lọc bò cái nh thế nào cho đúng
Các công cụ trợ giúp trong chọn lọc và loại thải
40 trang |
Chia sẻ: thuylinhqn23 | Ngày: 08/06/2022 | Lượt xem: 474 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chọn lọc bò cái trong chăn nuôi bò thịt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Chọn lọc bò cái
Trong chăn nuôi
bò thịt
Hiệu đính: Vũ Chí Cương
Người dịch: Vũ Chí Cương
Phạm Kim Cương
2
Mục lục
Trang
Giới thiệu 2
1. Chương 1: Sinh sản bò cái
Giới thiệu 3
Giải phẫu cơ quan sinh dục cái 3
Sinh lý sinh sản 4
Động dục trở lại sau khi đẻ 10
Chăm sóc, quản lý chung 12
2. Chương 2: Giá trị của chọn lọc bò cái 16
Giới thiệu chung 16
Hiệu suất sinh sản 17
Tổng số lượng và chất lượng bê thông qua chọn lọc bò cái 19
Cải thiện các tính trạng về thịt xẻ 21
Tóm tắt 21
3. Chương 3: Chọn những con cái tốt 23
Đại cương 23
Các nguyên tắc chọn lọc cơ bản 23
Thiết lập những mục tiêu lai tạo giống 27
Cân bằng chọn lọc 27
Chọn lọc bò cái giống 28
Hệ thống quản lý bò cạn sữa 33
Chọn lọc bò cái với cường độ cao 35
Tóm tắt 35
4. Chương 4: Các công cụ quản lý đàn bò
Giới thiệu
Xác định những gia súc chất lượng cao 37
Ghi chép và sử dụng số liệu 37
Đo đạc và phân tích khả năng sản xuất 39
Quản lý phối giống-BREEDPLAN 39
Phối giống nhân tạo 45
Cấy truyền phôi 45
Tránh có chửa cho những bò cái loại thải 46
3
Giới thiệu
Bước đầu tiên và quan trọng nhất trong xây dựng một chương trình nhân giống cân bằng
là xây dựng một tập hợp các mục tiêu nhân giống.
Để thực hiện được điều này cần phải nắm được:
ã Tiềm năng sản xuất hoặc khả năng của trang trại.
ã Mức năng suất xuất hiện tại của đàn gia súc của bạn.
ã Các yêu cầu của thị trường hoặc thị trường bạn có kế hoạch cung cấp sản phẩm.
ã Những hạn chế về môi trường.
Một khi các mục tiêu nhân giống đã được thiết lập công việc tiếp theo là xác định các tiêu
chuẩn chọn lọc sẽ được sử dụng trong đàn để đáp ứng mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện được việc này cần lập danh sách:
ã Các tính trạng quan trọng về kinh tế.
ã Mục tiêu sản xuất trong tương lai.
ã Tiêu chuẩn chọn lọc.
ã Loại những con cái không chửa đẻ.
ã Những con đực có tốc độ sinh trưởng cao cần chọn lọc.
Điều quan trọng là phải xác lập các mối liên kết hoặc t ương quan di truyền giữa các tính
trạng và qua đó lựa chọn một tính trạng có thể tác động đến một tính trạng khác. Tác
động này có thể tích cực hoặc tiêu cực (có lợi hoặc có hại). Thí dụ chọn lọc về tốc độ sinh
trưởng có thể làm tăng khối lượng sơ sinh, do đó làm tăng các trường hợp đẻ khó.
Tiêu chuẩn chọn lọc cần được xếp ưu tiên theo tầm quan trọng kinh tế của các tính trạng.
Một số tiêu chuẩn chọn lọc sẽ được áp dụng trên cơ sở "tất cả hoặc không". Tính tình có
thể là một tính trạng như vậy mà ở đó nếu gia súc được cho là có tính tình không hiền lành
thì phải loại thải, không kể gia súc đó đáp ứng các tiêu chuẩn khác nh ư thế nào.
Người quản lý đàn cần phải nhận rõ được ảnh hưởng của chọn lọc con cái đến toàn đàn.
Trong một đời một bò cái giống có thể sản xuất 8 bê trong khi một con đực có thể sản
xuất được 120 bê.
Điều quan trọng là xác định khía cạnh nào trong quản lý chăm sóc đàn mà ng ười quản lý
có thể tác động để thay đổi năng suất bò cái. Các khía cạnh này là:
ã Dinh dưỡng
ã Quản lý phối giống.
ã Di truyền (chọn lọc)
ã Bệnh tật.
Dinh dưỡng có thể là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng sản xuất của bò cái nhưng
yếu tố này không được thảo luận một cách chi tiết trong cuốn sách này. Cuốn sách này
chỉ đề cập đến các vấn đề:
ã Sinh sản (cấu tạo chức năng của đường sinh dục cái)
ã Giá trị của chọn lọc
ã Chọn lọc bò cái như thế nào cho đúng
ã Các công cụ trợ giúp trong chọn lọc và loại thải
4
Chương 1
Sinh sản của gia súc cái
Giới thiệu
Hiểu biết chắc chắn về sinh lý sinh sản ở bò cái tạo cho những ng ười chăn nuôi có
thể điều khiển và cải thiện năng suất sinh sản của bò. Cải tiến trong quản lý sinh
sản có thể làm tăng hiệu quả kinh tế cho những người chăn nuôi bò.
Giải phẫu cơ quan sinh dục cái
Buồng trứng
Cơ quan sinh dục sơ cấp của con cái là buồng trứng. Buồng trứng có hai chức năng:
sản xuất tế bào sinh dục và hocmon. Các tế bào sinh dục của con cái gọi là trứng. ở
bò một buồng trứng có hơn 100.000 trứng lúc mới sinh. Tuy nhiên trong suốt đời của
một con bò cái chỉ một số lượng nhỏ trứng sẽ được thụ tinh và phát triển thành bê.
Hocmon được tiết ra từ buồng trứng điều khiển mức độ biểu hiện tính dục, sinh
trưởng và các quá trình phát triển. Chúng sẽ được thảo luận chi tiết sau.
Phần lớn điều khiển về sinh sản liên quan đến điều khiển buồng trứng.
Hình 1: Đường sinh dục của bò cái
- Hậu môn - âm đạo - âm hộ - Cổ tử cung - Thân tử cung - Sừng tử cung - ống dẫn
trứng - Bóng đái - Niệu đạo - Túi niệu
Kích thước và hình dáng của buồng trứng ở bò rất đa dạng. Những người khám thai
có kinh nghiệm có khả năng cảm nhận được buồng trứng của bò khi sờ nắn qua trực
tràng. Buồng trứng có kích thước bằng hạt đậu Hà Lan và ở những bê chưa thành
thục về tính chúng có kích thước nhỏ hơn. Khi bắt đầu thành thục về tính chúng dài
khoảng 2 cm. Sau giai đoạn này kích th ước và hình thái của chúng rất thay đổi. ở bò
Hậu môn
Âm hộ
Bóng đái
Âm đạo
Thân tử cung
Sừng tử
cung
Vòi trứng
Buồng
trứng
Cổ tử
cung
ống
niệu đạo Lỗ niệu
đạo
Manh nang
Rãnh cổ tử
cung
5
thành thục về tính trung bình buồng trứng có kích thước và hình thái tương tự hạt
hạnh nhân.
Đường sinh dục
Âm hộ: là phần có thể nhìn thấy được ở đường sinh dục cái, nó nằm ngay dưới hậu
môn và bảo vệ cửa vào âm đạo. Âm đạo dài khoảng 24-26 cm ở hầu hết bò cái đã
thành thục về tính và có hình ống. Lúc giao phối tinh dịch đọng lại trong âm đạo gần
cổ tử cung. Cổ tử cung là cơ quan hình ống có cơ dày nối âm đạo với các bộ phận
khác của đường sinh dục, những người khám có kinh nghiệm có thể cảm nhận được
chúng dễ dàng qua sỡ nắn trực tràng.
ở những bê cái tơ chưa thành thục về tính đường kính của cổ tử cung có thể <10
mm. ở thời kỳ thành thục về tính cổ tử cung ở phần lớn bò cái tơ có đ ường kính là 1-
2 cm. ở những bò cái lớn tuổi hơn đường kính cổ tử cung có thể lên đến 6cm hoặc
hơn và dài 15 cm hoặc hơn. Cổ tử cung có kích th ước tăng lên theo tuổi và số lượng
bê mà bò mẹ đã đẻ và có khuynh hướng lớn hơn ở giống bò có nguồn gốc từ Bos
indicus. Cổ tử cung có tác dụng là hàng rào chắn bảo vệ nằm giữa âm đạo và các tổ
chức mô khác của tử cung.
Tử cung được chia thành hai sừng tử cung, chúng cách cổ tử cung khoảng 2-4 cm.
Sừng tử cung xoắn về phía trước và phía dưới và có thể dài đến 40 cm. Bê con sẽ
phát triển trong sừng tử cung sau khi trứng thụ tinh ở trong ống dẫn trứng (hay vòi
fallop). ống dẫn trứng nối liền loa kèn với sừng tử cung và phần còn lại của đ ường
sinh dục. Buồng trứng được loa kèn bao quanh, loa kèn thu hút trứng được giải
phóng từ buồng trứng và dẫn trực tiếp vào trong vòi fallop. T oàn bộ cơ quan sinh dục
được cố định nhờ một mảnh tổ chức gọi là dây chằng rộng. Dây chằng này cũng
bám vào trực tràng.
Sinh lý sinh sản
Sinh sản đạt kết quả tốt liên quan đến chu kỳ động dục (động dục đều) giao phối,
thụ thai (trứng thụ tinh), chửa, đẻ và tiết sữa (cho bê bú sữa).
Mỗi một thời kỳ trong các giai đoạn này đều đ ược điều khiển bằng hormone.
Hormone là các chất dẫn truyền thông tin hoá học được giải phóng vào trong máu
và tác dụng đến phần khác của cơ thể. Hormone sinh dục cái đ ược giải phóng từ
buồng trứng và từ tuyến nội tiết nằm ở mặt dưới não - tuyến yên. Hormone được giải
phóng từ tuyến yên chịu sự điều khiển của cơ chế thông tin ng ược, với sự tham gia
của các hormone giải phóng từ buồng trứng và các thông tin nhận đ ược từ não bộ.
Các thông tin từ bộ phận não cao cấp hơn chịu ảnh hưởng của điều kiện cơ thể, mức
dinh dưỡng và các tín hiệu khác.
Chu kỳ động dục
Trong buồng trứng của bò, trứng phát triển liên tục trong suốt cả đời thành các mụn
nước chứa đầy dịch gọi là noãn nang. Mỗi một trứng mất khoảng 6 tháng để phát
triển. Phần lớn trứng không phát triển đầy đủ và bị tái hấp thu đi một cách đơn giản.
Sự phát triển của trứng đến khi thành thục về tính không cần có hormone của não.
Sau khi thành thục về tính, hormone được tuyến yên ở não tiết ra làm cho một số
trứng được chọn lọc phát triển đầy đủ và giải phóng khỏi buồng trứng có nghĩa là
rụng trứng. Noãn nang có thể có đường kính 10-15 mm ngay trước khi rụng trứng.
Phần lớn các noãn nang khác đường kính chỉ đạt 1-2 mm trước khi bị tái hấp thu. Tỷ
lệ thụ tinh cao nhất ở bò cái tơ động dục lần thứ 2 hoặc thứ 3. Mặc dù một số bò cái
tơ sẽ thụ tinh ở lần động dục đầu tiên và sẽ có thai nếu cho phối giống. Chu kỳ động
dục điển hình ở bò là 21 ngày, tuy nhiên có thể giao động trong phạm vi 18-24 ngày.
6
Sự thành thục về tính
Sự thành thục về tính được định nghĩa là tuổi hoặc thời kỳ phát triển, mà tại thời điểm
đó gia súc có thể sinh sản được có nghĩa là đã thành thục về tính. Tuổi thành thục
về tính ở bò cái tơ rất thay đổi giữa các cá thể, giống và các điều kiện khác nhau,
đặc biệt là dinh dưỡng.
Hình 2: Khối lượng bò cái tơ lai Brahman ở nam Australia lúc thành thục về
tính (G.Fordyce, DPI Queensland, chưa xuất bản)
ở vùng ôn đới của Australia có khí hậu ôn hoà, điều kiện nói chung thuận lợi bò có
tốc độ sinh trưởng nhanh, bò cái tơ thành thục ở khối lượng thấp hơn và ở tuổi nhỏ
hơn so với môi trường nhiệt đới khắc nghiệt hơn như môi trường ở miền bắc
Australia.
Ghép đôi giao phối lúc khoảng 1 năm tuổi (thường từ 13-17 tháng tuổi) có thể là sự
lựa chọn thực tế và mong muốn trong các điều kiện bò sinh tr ưởng tốt. Bò cái có
"khối lượng giao phối tốt nhất" là 280 kg đối với phần lớn giống bò của Anh được
dùng làm chỉ số mà tại đó phần lớn bò cái tơ đạt được thành thục về tính. Chỉ số này
được sử dụng vì ở khối lượng này 85% bò cái tơ hoặc hơn sẽ bắt đầu động dục nếu
lớn lên trong các điều kiện dinh dưỡng tốt. Sự chênh lệch về khối lượng khi bò cái tơ
bắt đầu động dục rất ít: ± 25 kg trong các điều kiện tốc độ sinh trưởng nhanh.
Tình hình này rất khác ở các vùng nhiệt đới khắc nghiệt. Trong các vùng này nghiên
cứu của DPI (Bộ Nông nghiệp Bang Queensland) cho thấy có sự biến động lớn về
khối lượng khi bắt đầu thành thục về tính: ± 100 kg (tham khảo hình 2). Động dục lần
đầu được phát hiện ở 95% gia súc có khối lượng nằm trong khoảng 175-375kg và
tuổi nằm trong khoảng 13-33 tháng. Nói chung điều kiện càng khó khăn và dinh
dưỡng càng nghèo, thời gian bắt đầu thành thục về tính càng kéo dài. Lần động dục
đầu tiên thường ở khối lượng và tuổi cao hơn nhiều trong các điều kiện nghèo dinh
dưỡng so với các điều kiện tốt hơn.
Tuổi bắt đầu thành thục về tính trung bình ở bò lai Brahman ở Bắc Queensland là
20,5 tháng và khối lượng 285 kg như vậy ở khối lượng này chỉ 1/2 số gia súc bắt đầu
động dục. Tuy nhiên do khối lượng lớn hơn thường đạt được vào đầu mùa ẩm ướt,
phần lớn bê cái lỡ sẽ đủ lớn để thành thục về tính và được cho giao phối thành công
vào cuối mùa mưa. Khối lượng trung bình lúc thành thục về tính ở mùa vụ thuận lợi ở
Swans Lagoon là khoảng 250 kg và ở mùa không thuận lợi là khoảng 300 kg. ở
miền Bắc Australia ghép đôi giao phối lúc bò dưới 18 tháng, bò cái tơ Bos indicus là
20-30% có thai trong thời kỳ ghép đôi giao phối 3 tháng. Tỷ lệ này dao động trong
Khối lượng (kg)
T
ỷ
lệ
đ
ạt
tu
ổi
th
àn
h
th
ục
(
%
)
7
khoảng 20-80% phụ thuộc vào mùa vụ và chăm sóc quản lý. Bổ sung thức ăn ở mức
thấp có thể làm tăng tỷ lệ thụ thai 15%. ở các môi trường thuận lợi hơn tỷ lệ thụ thai
có kết quả đạt 70-90% ở thời kỳ ghép đôi giao phối ngắn.
Ghép đôi giao phối
Giao phối lúc bò cái động dục là lúc bò cái tiếp nhận, tìm kiếm và thu hút con đực.
Động dục bình thường kéo dài khoảng 6-30 giờ. Bò cái Bos indicus và bò ở các môi
trường nóng hơn có xu hướng thể hiện các biểu hiện động dục trong thời gian ngắn
hơn.
Trong thời kỳ động dục con cái biểu hiện các dấu hiệu điển hình về các hành vi này
do khối lượng lớn oestrogen tiết ra từ các noãn nang trước khi rụng trứng tác động
đến não gây ra. Các dấu hiệu này là: Bồn chồn, nhảy lên các bò cái khác, đứng yêu
cho con khác nhảy lên, từ tử cung và tử cung giải phóng một l ượng niêm dịch dạng
sợi trong suốt được xem là các sợi thu hút con đực. Các biểu hiện bên ngoài về hoạt
động tính dục có thể nhìn thấy được là âm hộ trở nên sưng, đỏ, lông và đuôi xù lên,
có các vết cọ sát ở phần đầu của đuôi và các x ương đuôi nhỏ.
Hình 3 : Phôi bò
Thụ thai
Thụ thai là sự thụ tinh thành công của một trứng bởi một tinh trùng sau khi rụng
trứng. Rụng trứng do luternizing hormone (LH) được giải phóng từ tuyến yên ở não
gây ra. Rụng trứng thường xảy ra khoảng 12 giờ sau khi các biểu hiện động dục kết
thúc. Tuy nhiên giới hạn này có thể nằm trong khoảng 2-26 giờ. Rụng trứng chậm
sau khi kết thúc biểu hiện động dục bảo đảm rằng tinh trùng đã ở trong đ ường sinh
dục con cái ít nhất 1-6 giờ trước khi trứng chuyển xuống ống dẫn trứng để thụ tinh.
Thời gian này cho phép tinh trùng trải qua một quá trình tăng hoạt lực, quá trình này
giúp cho sự thụ tinh xảy ra. Quá trinh fnày nhằm thay đổi cấu trúc đầu tinh trùng làm
cho nó có khả năng thụ tinh một tế bào trứng có hiệu quả.
Sự thụ tinh cần phải xảy ra trong vòng 6 giờ sau khi rụng trứng. Sau thời gian này
trứng không được thụ tinh sẽ thoái hoá hoặc nếu được thụ tinh thì hợp tử cũng không
có khả năng sống. Sau khi thụ tinh hợp tử mất 6-7 ngày để chuyển xuống ống dẫn
trứng đi vào trong sừng tử cung và cấy vào đó.
Sau khi rụng trứng, khoảng trống do noãn nang rụng đi để lại ở trong buồng trứng
được lấp đầy bởi các tổ chức có màu da cam hơi vàng, và sau 5 ngày hình thành thể
vàng. Thể vàng sản sinh ra progesterone cần thiết để duy trì thai. Sau 5-6 tháng thai
nghén các cấu trúc khác như nhau thai sản xuất đủ progesterone để duy trì thai cho
8
đến sau khi sinh. Progesterone cũng tác động đến não, ức chế giải phóng hormone
tuyến yên và ngăn cản bò có thai động dục.
Nếu bò cái không có thai, tử cung sẽ giải phóng prostaglandin khoảng 16-17 ngày
sau khi rụng trứng. Các prostaglandin làm tiêu tan thể vàng và nh ư vậy ngăn cản sự
sản xuất tiếp tục progesterone. Tiếp theo đó hormone kích thích noãn nang (FSH)
được giải phóng từ tuyến yên bò và làm cho chu kỳ động dục mới bắt đầu. FSH có
thể tạo khả năng cho một hoặc nhiều noãn nang đang phát triển có kích th ước nhỏ
(đường kính 1-2 mm) lớn lên đủ kích thước để rụng trứng.
Một con cái sẽ tiếp tục chu kỳ động dục 21 ngày một lần trừ khi nó có thai hoặc chịu
stress về dinh dưỡng làm cho não giảm sản xuất hormone từ tuyến yên.
Chửa
Phôi thai rời khỏi ống dẫn trứng và đi vào tử cung vào ngày thứ 6 hoặc thứ 7. Một số
ngày sau đó phôi bám vào vách tử cung. Sau đó phôi giải phóng ra các tín hiệu hoá
học nhắc nhở các hệ thống ở bò cái về sự hiện diện của nó. Điều này ngăn cản tử
cung bò giải phóng prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, chấm dứt việc chửa.
Không phải toàn bộ sự thụ thai đều đưa đến có chửa. Bình thường khoảng 25% phôi
bị mất đi trong vòng 17 ngày từ khi thụ thai. Điều này có thể là do khuyết tật nhỏ về
di truyền hoặc phôi không có khả năng chuyển được các tín hiệu hoá học mạnh đến
hệ thống hormone của bò. Trên thực tế một tỷ lệ có thai 75% là tỷ lệ có thể đạt được
ở một chu kỳ động dục đơn. Điều này giải thích tại sao 3 chu kỳ động dục hoặc
nhiều hơn (tối thiểu 9 tuần) là cần thiết để đạt được tỷ lệ có thai 95%.
Tỷ lệ phôi chết tăng lên trong vòng 17 ngày sau khi thụ thai có thể do bò cái chịu
stress từ nhiệt độ không bình thường, nghèo dinh dưỡng hoặc mắc bệnh. Trong
phần lớn trường hợp mất phôi sớm được xem là không thụ thai vì bò cái sẽ động dục
trở lại ở thời điểm bình thường.
Tỷ lệ không có chửa sau 17 ngày không nên vượt quá 3% nếu không có chửa quá
mức này cần phải được điều tra vì có thể liên quan đến các bệnh: phẩy khuẩn
(vilriosis) bệnh Trichomonas (Trichomonasis), bệnh Lepto (Leptospirosis).
Bò cái có thời gian chửa trung bình là 283 ngày, bình thường khoảng 275-295 ngày.
Một số giống như Jersey có thời gian chửa ngắn hơn trong khi các giống Châu âu có
thời gian chửa dài hơn. Bò Bos indcus chửa dài nhất khoảng 290 ngày. Chửa bê đực
thường dài hơn chửa bê cái 1 hoặc 2 ngày.
Chửa sinh đôi xảy ra khoảng 2 trong 1000 lần sinh đẻ ở bò Bos indicus và con lai
của chúng, nhưng lên đến 30 trong 1000 lượt sinh đẻ ở bò sữa, 90% trường hợp
chửa sinh đôi máu đến nuôi dưỡng bê là chung cho cả hai. Nếu một bê là đực và
một bê là cái, hormone do phôi thai đực sản xuất giữa ngày thứ 80 và ngày thứ 120
trong giai đoạn có chửa có thể làm rối loạn sự phát triển của cơ quan sinh dục bê cái
dẫn đến tình trạng được gọi là bất dục (freemartin). Freemertin có tính đực ở bên
ngoài và thường mất một số phần ở đường sinh dục. Bê Freemertin không có khả
năng sinh sản và cần phải loại thải. 10% trong các bê sinh đôi có 2 giới tính hỗn hợp
có thể phát triển thành con cái bình thường.
Đẻ
Đẻ hay sinh lần đầu tiên bắt đầu do bê chứ không do phải bò mẹ: khi đạt đến một
giai đoạn phát triển nhất định, não bê giải phóng các hormone gây stress gọi là
corticosteroid hormone và hormone này gây ra quá trình sinh đẻ, đẻ cũng một phần
do di truyền quyết định. Thời điểm đẻ thích hợp có khả năng đ ược kế thừa. Điều này
có nghĩa là thời gian chửa có thể thay đổi bằng sự chọn lọc.
Quá trình sinh đẻ có sự tham gia và điều khiển của nhiều hormone. Giải phòng
hormone corticosteroid ở bê làm cho tử cung bò mẹ giải phóng prostaglandin.
Prostaglandin làm tiêu tan thể vàng, làm dãn cổ tử cung và gây co bóp tử cung
9
Hormone relaxin làm dãn dây chằng vùng chậu, chính hormone này làm cho bò cái
đi lại kém vững chắc hơn và đuôi dường như nâng cao hơn khi bò cái "đứng bật
dậy". Oxytocin gây co bóp tử cung mạnh hơn xảy ra ở thời kỳ cuối của giai đoạn đẻ.
Oxytocin cũng là hormone làm tăng thêm sữa.
Khi đẻ phần lớn bê xuất hiện chân trước duỗi ra và đầu tựa lên chân trước hoặc nằm
giữa 2 chân trước. Nếu các chân sau ra trước đó là đẻ ngôi nông. Quá trình đẻ hoàn
thành khi nhau thai được đẩy ra ngoài.
Phần lớn bê chết trong vòng 1 tuần sau khi sinh. Tỷ lệ chết của bê lên đến 10%
trong khoảng thời gian từ khi kiểm tra xác định có chửa đến khi cai sữa, có thể xảy
ra ở các môi trường khắc nghiệt. Bê chết do nhiều nguyên nhân khác bao gồm: bê
chết khi sinh ra hoặc yếu do đẻ khó, bệnh tật và các nhân tố stress khác hoặc nuôi
dưỡng bò mẹ không đầy đủ dẫn đến thiếu sữa.
Tiết sữa
Khả năng tiết sữa của con mẹ là nhân tố quyết định chủ yếu sự sống sót của bê và
khối lượng cai sữa ở bê. Yêu cầu về thức ăn và năng lượng của bò cái ở thời kỳ sau
của giai đoạn có chửa và ở giai đoạn tiết sữa rất cao. Những ng ười sản xuất có thể
xác định điều này bằng cách đánh giá thay đổi điểm thể trạng ở bò cái.
Hình 4: Nhu cầu năng lượng hàng ngày để duy trì thể trạng một bò lai
Brahman khối lượng 400kg (Tính toán của G. Forduyce, DPI, Charters T owers)
Bò có thể bù lại từng phần nhu cầu năng lượng thêm ra trong lúc cho sữa bằng cách
tăng lượng thức ăn ăn vào, lượng thức ăn ăn vào có thể tăng >20%. Trong các điều
kiện dinh dưỡng tốt lượng thức ăn ăn vào tăng này có thể đủ để cho bò cái duy trì
khối lượng và thể trạng của cơ thể trong khi cung cấp sữa nuôi d ưỡng một con bê
(hoặc trong các trường hợp ngoại lệ tăng khối lượng lên một ít). Điều này có thể xảy
ra ở bắc Australia vì bò đẻ trong mùa mưa ẩm ướt.
Do nhu cầu năng lượng cho tiết sữa, năng suất tối ưu của bò cái chỉ có được khi
những người chăn nuôi kết hợp hài hoà giữa tháng cho sữa và nuôi d ưỡng. Bò đẻ
trong các thời điểm không thuận lợi như mùa khô sẽ tìm cách khắc phục sự thiếu hụt
năng lượng bằng cách huy động các phần dự trữ của cơ thể (giảm khối l ượng và thể
trạng của cơ thể) và bằng cách sản xuất ít sữa hơn.
Tốc độ sinh trưởng của bê trong các điều kiện khắc nghiệt: ở Swan Lagoon (vùng
nhiệt đới khô hanh) ở bắc Queensland bê bú sữa tăng trưởng điển hình 0,8-0,9
kg/ngày trong mùa ẩm. Tuy nhiên sự tăng trưởng này giảm xuống đến 0,5 kg/ngày
trong đầu mùa khô và chỉ còn 0,3 kg/ngày vào cuối mùa khô.
Ch