Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang diễn ra sôi nổi và là động lực của sự tăng trưởng kinh tế thì kinh tế địa phương giữ một vai trò hết sức quan trọng. Mỗi địa phương phát triển, trước hết làm cho cuộc sống của người dân được nâng cao, hơn nữa nó góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Chính vì lẽ đó mỗi địa phương đã bằng việc khai thác những tiềm lực sẵn có, những lợi thế cũng như thu hút đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển địa phương mình. Và cho đến nay có rất nhiều minh chứng cụ thể và khá rõ nét về điều này trong thực tế.
Với nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú cùng chính sách phát triển công nghiệp chung của cả nước và của địa phương, Cao Bằng đã nỗ lực khai thác thế mạnh đó của mình, nhiều điểm mỏ khai thác khoáng sản hoạt động mạnh kèm theo đó là hoạt động chế biến khoáng sản cũng phát triển. Những hoạt động này đã đóng góp lớn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tuy nhiên bên cạnh đó, nó cũng tạo ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Đặc biệt khi môi trường nền càng tốt thì lại càng nhạy cảm với bất kỳ một hoạt động nào dù nhỏ ảnh hưởng đến nó. Do vậy, hoạt động khai thác chế biến khoáng sản ở Cao Bằng đã góp phần không nhỏ làm cho thực trạng môi trường nơi đây trở nên xấu đi, đáng chú ý hơn cả là môi trường nước và không khí. Xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường đặt ra yêu cầu cần phải được giải quyết ngay, đó là: Làm sao để có thể phát triển kinh tế một tỉnh nghèo miền núi theo đà phát triển chung của cả nước mà vẫn giữ được sự trong lành của môi trường nơi đây.
Trên thực tế có nhiều biện pháp ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường hữu hiệu, mà các biện pháp này xuất phát từ chính những thay đổi nhỏ trong hành vi sinh hoạt hay sản xuất kinh doanh của con người, nó vừa bảo vệ môi trường đồng thời cũng là vì lợi ích của ngay chính bản thân họ. Nhằm thấy rõ điều này liên quan đến hoạt động chế biến khoáng sản tại Cao Bằng, em chọn đề tài “Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thay thế công nghệ xử lý bụi ướt bằng công nghệ xử lý bụi khô ở Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng”
72 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thay thế công nghệ xử lý bụi ướt bằng công nghệ xử lý bụi khô ở Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà phát triển, công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang diễn ra sôi nổi và là động lực của sự tăng trưởng kinh tế thì kinh tế địa phương giữ một vai trò hết sức quan trọng. Mỗi địa phương phát triển, trước hết làm cho cuộc sống của người dân được nâng cao, hơn nữa nó góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Chính vì lẽ đó mỗi địa phương đã bằng việc khai thác những tiềm lực sẵn có, những lợi thế cũng như thu hút đầu tư từ bên ngoài vào để phát triển địa phương mình. Và cho đến nay có rất nhiều minh chứng cụ thể và khá rõ nét về điều này trong thực tế.
Với nguồn tài nguyên khoáng sản khá phong phú cùng chính sách phát triển công nghiệp chung của cả nước và của địa phương, Cao Bằng đã nỗ lực khai thác thế mạnh đó của mình, nhiều điểm mỏ khai thác khoáng sản hoạt động mạnh kèm theo đó là hoạt động chế biến khoáng sản cũng phát triển. Những hoạt động này đã đóng góp lớn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tuy nhiên bên cạnh đó, nó cũng tạo ra những tác động tiêu cực tới môi trường. Đặc biệt khi môi trường nền càng tốt thì lại càng nhạy cảm với bất kỳ một hoạt động nào dù nhỏ ảnh hưởng đến nó. Do vậy, hoạt động khai thác chế biến khoáng sản ở Cao Bằng đã góp phần không nhỏ làm cho thực trạng môi trường nơi đây trở nên xấu đi, đáng chú ý hơn cả là môi trường nước và không khí. Xung đột giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường đặt ra yêu cầu cần phải được giải quyết ngay, đó là: Làm sao để có thể phát triển kinh tế một tỉnh nghèo miền núi theo đà phát triển chung của cả nước mà vẫn giữ được sự trong lành của môi trường nơi đây.
Trên thực tế có nhiều biện pháp ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường hữu hiệu, mà các biện pháp này xuất phát từ chính những thay đổi nhỏ trong hành vi sinh hoạt hay sản xuất kinh doanh của con người, nó vừa bảo vệ môi trường đồng thời cũng là vì lợi ích của ngay chính bản thân họ. Nhằm thấy rõ điều này liên quan đến hoạt động chế biến khoáng sản tại Cao Bằng, em chọn đề tài “Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thay thế công nghệ xử lý bụi ướt bằng công nghệ xử lý bụi khô ở Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng”
Đối tượng nghiên cứu: Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu hoạt động sản xuất của Xí nghiệp.
- Nghiên cứu công nghệ xử lý bụi.
- Phân tích chi phí, lợi ích của việc thay đổi công nghệ xử lý bụi.
Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu đề tài này nhằm chỉ ra lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường đạt được khi thay đổi công nghệ xử lý bụi.
- Chứng minh để thấy rõ việc chú ý đầu tư trong sản xuất nhằm bảo vệ môi trường là hoàn toàn có lợi chứ không phải là một gánh nặng của doanh nghiệp, nó không chỉ đem lại lợi ích về mặt môi trường mà còn về mặt kinh tế, xã hội.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phân tích chi phí lợi ích.
- Tổng hợp, khái quát.
- Kế thừa các kết quả nghiên cứu có sẵn.
- Điều tra thực tế, phỏng vấn.
Kết cấu nội dung chuyên đề:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thay đổi một công nghệ.
Chương II: Hiện trạng sản xuất và các vấn đề môi trường của Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng.
Chương III: Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội của việc thay thế công nghệ xử lý bụi ướt bằng công nghệ xử lý bụi khô của Xí nghiệp luyện gang Cao Bằng.
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ hết sức nhiệt tình từ rất nhiều phía. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới những người trực tiếp cũng như gián tiếp giúp đỡ để em có được kết quả như ngày hôm nay:
TS Lê Hà Thanh, Giảng viên khoa KTQLMT&ĐT, Trường ĐHKTQD.
ThS Huỳnh Thị Mai Dung, Giảng viên khoa KTQLMT&ĐT, Trường ĐHKTQD.
KS Nông Ngọc Bộ, Cán bộ phòng Luyện kim và Cơ khí, Công ty Khoáng sản và Luyện kim Cao Bằng. Cùng các cán bộ khác thuộc phòng Luyện kim và Cơ khí, phòng Kế hoạch Tài chính, phòng Tổ chức, Xí nghiệp luyện gang, Công ty Khoáng sản và Luyện kim Cao Bằng.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐÁNH GIÁ
HIỆU QUẢ KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA VIỆC THAY ĐỔI
MỘT CÔNG NGHỆ
I. HIỆU QUẢ KINH TẾ, XÃ HỘI
1.1. Khái niệm chung về hiệu quả
Khi ra quyết định cho một hành động nào đó, người ta thường cân nhắc dựa vào việc tính toán hiệu quả của hành động đó. Đó là việc xác định các kết quả hay lợi ích thu được và các chi phí bỏ ra để có được lợi ích đó, tính toán chênh lệch giữa lợi ích và chi phí sẽ xác định được hiệu quả. Như vậy, hiệu quả là kết quả thu được sau khi đã tính đến tất cả chi phí, thiệt hại, là sự so sánh giữa kết quả và chi phí, sự so sánh này có thể là tuyệt đối hay tương đối.
Chúng ta sẽ lựa chọn phương án hành động mà nó đem lại hiệu quả, hoặc trong trường hợp có nhiều phương án thay thế lẫn nhau thì phương án nào có hiệu quả cao nhất sẽ là phương án được chọn. Như vậy, hiệu quả chính là chỉ tiêu để đánh giá phương án hành động.
Hiệu quả = Kết quả- Chi phí (Hiệu quả tuyệt đối)
Hay: Hiệu quả = Kết quả/Chi phí (Hiệu quả tương đối)
Khi đánh giá phương án, việc sử dụng một trong hai hiệu quả tuyệt đối hay tương đối đều không đem lại một sự lựa chọn chính xác mà ta nên kết hợp cả hai.
Phân biệt hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân:
Hiệu quả tài chính hay hiệu quả sản xuất - kinh doanh là hiệu quả về mặt kinh tế xét trong phạm vi doanh nghiệp. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích và chi phí mà chỉ liên quan đến doanh nghiệp, mà ta biết mục tiêu hàng đầu của mỗi doanh nghiệp đều là lợi nhuận kinh tế, do đó lợi ích và chi phí ở đây chỉ xét khía cạnh kinh tế, xét những gì liên quan đến doanh nghiệp, những gì doanh nghiệp trực tiếp bỏ ra và trực tiếp thu được.
Hiệu quả kinh tế quốc dân hay hiệu quả kinh tế xã hội là hiệu quả xem xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, trên quan điểm của toàn xã hội. Chi phí ở đây là những gì mà cả nền kinh tế, cả xã hội bỏ ra hay mất đi, còn lợi ích là tổng hợp của tất cả những lợi ích đem lại cho toàn bộ thành viên trong xã hội, dù họ có hay không phải bỏ ra chi phí, chịu thiệt hại trực tiếp từ hoạt động đang xét.
Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế quốc dân có mối quan hệ với nhau, đó là mối quan hệ giữa bộ phận và tổng thể. Hiệu quả tài chính là mục tiêu của doanh nghiệp, xét trên quan điểm doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân là mục tiêu của toàn xã hội, xét trên quan điểm xã hội. Chúng có những điểm khác nhau nhưng lại thống nhất với nhau. Giống nhau ở điểm chúng đều là mục tiêu cần đạt tới trong suốt quá trình hoạt động của các đối tượng chủ thể, bất cứ hoạt động nào của con người cũng đều hướng tới việc đạt được mục tiêu hiệu quả. Chúng khác nhau ở các đối tượng được được hưởng hiệu quả đó, cụ thể là: Đối với hiệu quả tài chính, đối tượng hưởng hiệu quả là các cá nhân, đơn vị doanh nghiệp, còn hiệu quả kinh tế quốc dân đối tượng hưởng hiệu quả là toàn xã hội trong đó có cả các cá nhân và đơn vị kinh doanh
Xét về mặt nội dung của hiệu quả thì có hiệu quả kinh tế, hiệu quả môi trường và hiệu quả xã hội. Đó là khi các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của hoạt động hay dự án đạt được.
1.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế: mức tăng thu nhập, lợi nhuận, mức tăng trưởng kinh tế, tăng sản lượng, chất lượng sản phẩm...
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội: mức cải thiện đời sống vật chất cho người dân, mức nâng cao trình độ văn hoá, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ người dân, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có việc làm, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ dân nghèo, đói, chỉ số phát triển con người HDI...
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường: mức cải thiện chất lượng các thành phần môi trường, số người dân được hưởng các dịch vụ vệ sinh môi trường, mức thay đổi đa dạng sinh học, tăng giảm các giống loài động thực vật, tỷ lệ che phủ rừng...
II. THAY ĐỔI CÔNG NGHỆ VÀ HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THAY ĐỔI CÔNG NGHỆ
2.1. Khái niệm công nghệ và thay đổi công nghệ
Có nhiều cách hiểu về công nghệ, theo định nghĩa của Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP): Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, công nghệ được sử dụng cả trong hoạt động sản xuất vật chất và trong các lĩnh vực hoạt động xã hội.
Trong hoạt động sản xuất, công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành một công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công việc. Công nghệ là tập hợp các phương pháp gia công, chế tạo, làm thay đổi trạng thái, tính chất, hình dạng nguyên vật liệu hay bán thành phẩm sử dụng trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Đó là công nghệ để sản xuất ra sản phẩm. Hiện nay, khi mà vấn đề chất thải trong sản xuất ngày càng trở nên quan trọng và đáng lưu tâm thì công nghệ còn áp dụng trong việc xử lý chất thải, gọi là giải pháp công nghệ trong quản lý môi trường. Công nghệ gồm bốn thành phần chính là kỹ thuật, con người, tổ chức và thông tin.
Thay đổi công nghệ hiện nay nói chính xác hơn là đổi mới công nghệ - cấp cao nhất của thay đổi công nghệ. Đổi mới công nghệ trong nó đã bao hàm sự cải thiện, tốt hơn và phát triển hơn so với công nghệ cũ. Đổi mới công nghệ là việc thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lõi) hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn, hiệu quả hơn. Nó mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế và là động lực quan trọng của phát triển kinh tế xã hội.
Từ trước đến nay đổi mới công nghệ là để nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông số sản xuất như năng suất, chất lượng, hiệu quả…Công nghệ có tính hai mặt, bên cạnh việc tạo ra những lợi ích to lớn thì nó cũng gây ra chi phí khá lớn, đó chính là sự đánh đổi. Một trong những mặt trái của việc sử dụng công nghệ là về góc độ môi trường, đặc biệt là về vấn đề ô nhiễm môi trường. Chính do các tác động tiêu cực đó cho nên cùng với quá trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nó cũng tạo ra chi phí cho xã hội. Một trong những mục tiêu quan trọng của đổi mới công nghệ là thân thiện hơn với môi trường, tạo điều kiện phát triển bền vững cụ thể là giảm thiểu những tác động tiêu cực tạo ra cho môi trường và xã hội. Đây là một mục tiêu quan trọng của quản lý công nghệ tầm vĩ mô. Nhờ đổi mới công nghệ theo hướng này làm giảm cường độ tác động tiêu cực tới môi trường cụ thể như giảm lượng chất độc hại vào môi trường, tiêu hao ít nguyên nhiên vật liệu mà chủ yếu là lấy từ môi trường tự nhiên.
Đổi mới công nghệ là một tất yếu bởi công nghệ cũng là một sản phẩm, nó cũng tuân theo quy luật chu trình sống của sản phẩm, tức là nó được sinh ra, phát triển và suy vong. Các nhà quản lý nếu không muốn doanh nghiệp mình bị đào thải trên thị trường thì phải không ngừng đổi mới công nghệ, đây là việc làm hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển.
Như vậy đổi mới công nghệ là để tồn tại. Ngoài ra, đổi mới công nghệ còn do các lợi ích khác nhau cho chính doanh nghiệp đổi mới nói riêng cũng như cho toàn xã hội nói chung. Sau đây là các lợi ích của đổi mới công nghệ đối với cơ sở đổi mới công nghệ:
- Cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm
- Duy trì và củng cố thị phần
- Mở rộng thị phần của sản phẩm
- Mở rộng phẩm cấp sản phẩm, tạo thêm chủng loại sản phẩm
- Đáp ứng được các quy định, tiêu chuẩn, luật lệ
- Giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng
- Cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị
- Giảm tác động xấu tới môi trường sống...
2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của việc thay đổi một công nghệ
Hiện nay chúng ta đang sống trong thời đại không thể thiếu công nghệ, đặc biệt là công nghệ trong hoạt động sản xuất, trong hoạt động thông tin. Công nghệ đóng một vai trò cực kỳ to lớn làm thay đổi bộ mặt cuộc sống.
Tại sao cần thay đổi công nghệ? Như đã nói ở trên, một công nghệ có thể phù hợp với đối tượng nào đó và ở một giai đoạn nào đó và sau đó nó trở nên không phù hợp nữa. Sự phát triển của một công nghệ có quy luật biến đổi theo thời gian, và chúng ta cần biết được lúc nào thì công nghệ nên được thay đổi và việc thay đổi đó có đem lại hiệu quả theo như mục tiêu của quyết định thay đổi đã đề ra hay không. Muốn vậy thì cần thiết phải có một phân tích, đánh giá hiệu quả của sự thay đổi. Đánh giá đầy đủ hiệu quả của đổi mới công nghệ là một công việc khó khăn, do những lợi ích và kết quả của đổi mới công nghệ rất đa dạng, trong đó có những lợi ích không thể đánh giá một cách chính xác được. Hiệu quả đổi mới công nghệ được xác định:
Hiệu quả = Lợi ích/Chi phí = (VA1- VA2)/(CT + CH + CI + CO)
Trong đó lợi ích của đổi mới được đánh giá thông qua so sánh giá trị gia tăng của doanh nghiệp trước (VA2) và sau khi đổi mới (VA1). Các chi phí cho đổi mới thể hiện ở các chi phí đầu tư cho các thành phần của công nghệ:
CT: chi phí đổi mới phần kỹ thuật
CH: chi phí đào tạo nhân lực cho kỹ thuật mới
CI: chi phí cho thông tin, tư vấn, bí quyết
CO: chi phí cải tạo bộ máy quản lý
Cụ thể hiệu quả của đổi mới công nghệ thể hiện ở các chỉ tiêu như:
- Mức giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, năng lượng
- Mức tăng năng suất
- Mức độ giảm thiểu ô nhiễm môi trường
- Mức độ nâng cao chất lượng sản phẩm
- Mức giải phóng lao động chân tay
- Mức chênh lệch các giá trị hiệu quả sản xuất kinh doanh như chênh lệch sản lượng, lợi nhuận, doanh thu…
- Sự thay đổi hình ảnh của doanh nghiệp sau khi thay đổi công nghệ...
III. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CHI PHÍ, LỢI ÍCH
3.1. Tổng quan về phương pháp phân tích chi phí, lợi ích
Để xác định tính hiệu quả của hoạt động, dự án, có hai phương pháp phân tích thường được sử dụng là phân tích kinh tế và phân tích tài chính.
Phân tích tài chính là phân tích đứng trên giác độ của cá nhân, của chủ đầu tư với mục tiêu là đạt được lợi nhuận tối đa. Nó tập trung vào phân tích giá thị trường và các dòng tiền tệ.
Phân tích kinh tế, xã hội được sử dụng để phân tích các hoạt động, dự án đứng trên giác độ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mục tiêu của nó là tối đa hoá thu nhập quốc dân. Phân tích kinh tế trong đó đã bao hàm cả phân tích tài chính đồng thời xét các chi phí và lợi ích về xã hội và môi trường ảnh hưởng tới hoạt động, dự án mặc dù chúng có thể không được phản ánh trên thị trường.
Phân tích tài chính cho ta xem xét được hiệu quả tài chính, còn phân tích kinh tế xã hội cho phép ta xem xét hiệu quả kinh tế quốc dân.
Phân tích chi phí lợi ích là một phương pháp phân tích kinh tế, bản chất là sử dụng đồng tiền làm thước đo các mức độ tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường, xã hội.
Phân tích chi phí, lợi ích xuất phát từ ý niệm của con người là phải cân bằng giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra hay thiệt hại, sự mất đi lợi ích trước khi đưa ra bất kỳ một quyết định nào. Theo đó thì lợi ích thu được bao giờ cũng phải lớn hơn chi phí bỏ ra mới là tốt, hoặc nếu lợi ích không bù đắp được toàn bộ chi phí thì phương án nào bù đắp được nhiều nhất là tốt nhất. Đối với cá nhân thì mưu cầu lợi ích là điều khá rõ ràng, còn đối với xã hội thì cũng không có sự khác biệt, vì lợi ích của xã hội xét cho cùng đều là lợi ích của mỗi cá nhân, xã hội có lợi thì cá nhân được hưởng và mỗi khi cá nhân có lợi thì toàn xã hội có lợi.
Do đó trong tất cả các hoạt động, đặc biệt là liên quan nhiều đến xã hội, vì lợi ích xã hội thì việc cân nhắc chi phí lợi ích trước khi thực hiện là một việc làm cần thiết và quan trọng. Một hoạt động có hiệu quả tức là đem lại lợi ích sẽ được chấp nhận. Phương pháp phân tích chi phí, lợi ích là một phương pháp để đánh giá hiệu quả của các hoạt động đó, ưu điểm của nó là không chỉ xác định chi phí lợi ích về mặt tài chính mà còn mặt xã hội và môi trường.
Nguyên tắc đánh giá, lựa chọn là:
Trong đó NPV: Giá trị hiện tại ròng
Bt: Lợi ích thu được ở thời điểm t
Ct: Chi phí bỏ ra để thu được lợi ích ở thời điểm t
r: Tỷ suất chiết khấu
n: số năm hoạt động của dự án
Trong phân tích chi phí lợi ích, để nhấn mạnh chi phí và lợi ích môi trường, người ta tách yếu tố môi trường ra, khi đó:
Et: chi phí hay lợi ích môi trường ở thời điểm t
Chi phí và lợi ích ở đây được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả chi phí và lợi ích về tài nguyên, môi trường của các thành viên trong xã hội, do đó còn gọi là phân tích chi phí lợi ích mở rộng.
Ứng dụng thực tiễn: phân tích chi phí lợi ích mở rộng được tiến hành trên cơ sở cộng tác nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều khó nhất ở đây là quyết định chọn những tác động nào đến tài nguyên và môi trường để đưa vào phân tích và bằng cách nào có thể định lượng cũng như định giá các tác động đó.
Một số điểm quan trọng cần lưu ý khi phân tích chi phí lợi ích:
Bắt đầu từ những ảnh hưởng đến môi trường dễ nhận biết và dễ đánh giá nhất
Tính đối xứng của phân tích chi phí lợi ích: một lợi ích bị bỏ qua thì chính là chi phí và ngược lại, tránh được một chi phí thì là một lợi ích. Do đó phải luôn chú ý tới khía cạnh lợi ích của bất cứ hành động nào.
Phân tích kinh tế cần được tiến hành với cả hai trường hợp: có và không có dự án
Mọi giả thiết phải đưa ra một cách thật rõ ràng
Khi không thể sử dụng giá cả thị trường thì có thể sử dụng giá bóng.
3.2. Các bước phân tích chi phí, lợi ích
Có nhiều cách phân chia các bước thực hiện phân tích chi phí lợi ích, song chung quy lại bao gồm các bước sau:
Bước 1: Trước hết cần xác định các đối tượng liên quan đến hoạt động mà ta đang tiến hành phân tích chi phí, lợi ích và tiếp đó là phân định chi phí và lợi ích thuộc về ai, về đối tượng liên quan nào. Đây là bước đầu tiên quan trọng làm cơ sở để chúng ta có cách nhìn nhận khá toàn diện đối với việc phân bổ nguồn lực, mỗi một sự phân định có một thay đổi về chi phí và lợi ích. Bước này làm nền tảng cho các kết quả sau này. Chi phí và lợi ích trên quan điểm toàn cầu hay quan điểm địa phương, quan điểm cá nhân hay quan điểm xã hội đều có những khác biệt làm ảnh hưởng đến kết quả phân tích về sau, có trường hợp lợi ích đối với cá nhân nhưng lại là chi phí đối với xã hội, và ngược lại. Chính vì lẽ đó, việc phân định ngay từ đầu chi phí và lợi ích là hết sức quan trọng.
Bước 2: Xác định, lựa chọn danh mục các phương án thay thế. Khi có một dự án nào đó áp dụng phân tích chi phí lợi ích thì đều có nhiều giải pháp thay thế khác nhau, từ đó lựa chọn phương án nào là tối ưu nhất. Muốn lựa chọn được phải qua nhiều kỹ thuật phân tích, đòi hỏi phải có sự so sánh và dự đoán.
Bước 3: Liệt kê các ảnh hưởng tiềm năng và lựa chọn các chỉ số đo lường. Trong phân tích các dự án, đặc biệt các dự án liên quan đến môi trường, việc đánh giá những ảnh hưởng tiềm năng, từ đó xem xét các chỉ số để tính toán là một vấn đề đòi hỏi kỹ thuật cao đối với người làm phân tích vì nếu như ở bước này không chính xác và đảm bảo tính toàn diện thì quá trình thực thi dự án là rất rủi ro. Nếu xét về mặt dài hạn thì những tác động tiềm năng không được dự đoán trước sẽ là nguyên nhân làm sai lệch các kết quả chúng ta đã tính toán.
Bước 4: Dự đoán, tính toán về lượng suốt quá trình dự án. Trên cơ sở chúng ta đã liệt kê hay xác định được những ảnh hưởng có tính tiềm năng, vấn đề quan trọng là các ảnh hưởng đó phải được lượng hoá như thế nào dựa vào các nguyên lý và các chỉ tiêu để chúng ta xác định về mặt lượng.
Bước 5: lượng hoá bằng tiền của tất cả các tác động đã xác định. Trên cơ sở bước 4 đã quy đổi số lượng, chúng ta phải tiền tệ hoá các lượng đó để đưa vào mô hình phân tích và tính toán. Khi tiền tệ hoá gặp phải những khả năng có thể xảy ra: có những chỉ số về số lượng có giá thị trường thì ta sử dụng giá thị trường để tính toán. Còn đối với những ảnh hưởng không có giá thị trường thì phải tính toán thông qua giá tham khảo (giá bóng).
Bước 6: Quy đổi giá trị tiền tệ. Đó là việc mà bất cứ một dự án nào cũng phải làm bởi lẽ đối với tất cả các dự án được triển khai trong thực tế thường biến thiên theo thời gian nhiều năm nhưng khi đưa vào tính toán thì lại xác định cho một năm cụ thể và do đó chúng ta phải quy đổi tất cả các dòng tiền tệ vào thời điểm tính toán. Có hai khả năng xảy ra: tính cho giá trị hiện tại, tính cho giá trị tương lai và hệ số sử dụng cho tính toán ở bước này là hệ số chi