Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả điều trị co giật nửa mặt bằng phẫu thuật giải ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. Phương pháp: Mô tả tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi mạch từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 năm 2013. Bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khảo sát mối tương quan mạch máu và thần kinh vùng góc cầu tiểu não bằng hình ảnh MRI, đánh giá kết quả cải thiện triệu chứng theo thang điểm Jankovski, các biến chứng, và theo dõi bằng tái khám hoặc qua điện thoại. Kết quả: 45 trường hợp co giật nửa mặt được phẫu thuật trong vòng 39 tháng. Ti lệ nam / nữ là 1 / 5 (8/37 ca), tuổi trung bình là 47,9 ± 8,4 , thời gian co giật trung bình trước phẫu thuật là 6 ± 3,7 năm, 44 trường hợp có triệu chứng điển hình (97,1%), co giật thường bị bên trái (23 trường hợp, 51%). Jankovic trước mổ mức độ III trong 35 trường hợp (78%), 39 trường hợp ( 88%) có hình ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII bên co giật. Có 19, (42%) trường hợp đã được điều trị bằng tiêm botulinumtoxin. Thời gian theo dõi trung bình là 12,8 ± 9,5 tháng. 34 (75,6 %) bệnh nhân hết co giật lúc xuất viện , sau thời gian theo dõi số trường hợp hết co giật tăng lên 42 ( 93%), 2 trường hợp tái phát sau 3 năm (4,4%). Không có trường hợp nào tử vong. Sau mổ, các bệnh nhân thường hay bị chóng mặt, liệt nhẹ mặt bên phẫu thuật và hầu hết đều hồi phục. Kết luận: Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, mặc dù số lượng bệnh nhân chưa nhiều, nhưng cũng cho thấy co giật nửa mặt là một rối loạn về chức năng với triệu chứng lâm sàng điển hình là yếu tố quyết định chẩn đoán phẫu thuật giải ép vi mạch là phương pháp điều trị hiệu quả cao và tỉ lệ biến chứng thấp.
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Co giật nửa mặt kết quả điều trị bằng vi phẫu thuật giải ép vi mạch tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 203
CO GIẬT NỬA MẶT KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẰNG VI PHẪU THUẬT
GIẢI ÉP VI MẠCHTẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH
Trần Hoàng Ngọc Anh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, kỹ thuật phẫu thuật và kết quả điều trị co giật nửa mặt
bằng phẫu thuật giải ép vi mạch tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Phương pháp: Mô tả tiền cứu các trường hợp co giật nửa mặt được điều trị bằng phẫu thuật giải ép vi
mạch từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9 năm 2013. Bệnh nhân được ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khảo sát
mối tương quan mạch máu và thần kinh vùng góc cầu tiểu não bằng hình ảnh MRI, đánh giá kết quả cải thiện
triệu chứng theo thang điểm Jankovski, các biến chứng, và theo dõi bằng tái khám hoặc qua điện thoại.
Kết quả: 45 trường hợp co giật nửa mặt được phẫu thuật trong vòng 39 tháng. Ti lệ nam / nữ là 1 / 5 (8/37
ca), tuổi trung bình là 47,9 ± 8,4 , thời gian co giật trung bình trước phẫu thuật là 6 ± 3,7 năm, 44 trường hợp
có triệu chứng điển hình (97,1%), co giật thường bị bên trái (23 trường hợp, 51%). Jankovic trước mổ mức độ
III trong 35 trường hợp (78%), 39 trường hợp ( 88%) có hình ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII, VIII
bên co giật. Có 19, (42%) trường hợp đã được điều trị bằng tiêm botulinumtoxin. Thời gian theo dõi trung bình
là 12,8 ± 9,5 tháng. 34 (75,6 %) bệnh nhân hết co giật lúc xuất viện , sau thời gian theo dõi số trường hợp hết co
giật tăng lên 42 ( 93%), 2 trường hợp tái phát sau 3 năm (4,4%). Không có trường hợp nào tử vong. Sau mổ,
các bệnh nhân thường hay bị chóng mặt, liệt nhẹ mặt bên phẫu thuật và hầu hết đều hồi phục.
Kết luận: Kết quả nghiên cứu tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định, mặc dù số lượng bệnh nhân chưa nhiều,
nhưng cũng cho thấy co giật nửa mặt là một rối loạn về chức năng với triệu chứng lâm sàng điển hình là yếu tố
quyết định chẩn đoán phẫu thuật giải ép vi mạch là phương pháp điều trị hiệu quả cao và tỉ lệ biến chứng thấp.
Key words: Co giật nữa mặt, phẫu thuật giải ép vi mạch, phức hợp dây VII, VIII, Hình ảnh học MR1
ABSTRACT
RESULTS OF TREATMENT HEMIFACIALSPASM BY MICROVASCULAR DECOMPRESSION
AT NHAN DAN GIA DINH HOSPITAL
Tran Hoang Ngoc Anh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 203 ‐ 208
Objectives: Described the clinical features, imaging, operation techniques and evaluated the results of micro
vascular decompression surgery for treating hemifacialspasm (HFS) at Nhan Dan Gia Dinh hospital.
Method: We performed a prospective descriptive study of hemifacialspasm (HFS) patients were operated for
microvascular decompression from April 2010 to September 2013. The patients were recorded clinical symtoms,
MRI images which focus on the neurovascular relationship in the affected cerebellopontine angle, evaluated the
improvement by Jankoski scale, the complications and observed by follow‐up examination or by phone.
Results: 45 hemifacial spasm patients were operated on consecutively over 39 months. The male / female
ratio is 1 / 5 (8/37), the mean age was 47.9 ± 8.4, the mean times of history was 6 ± 3.7 years, 44 cases ( 97.1%)
suffered typical symtoms, left side was predominant (23 cases, 51%). Jankovic scale III 35 cases (78%) On MRI
images of affected CPA, 39 (88%) cases had a blood vessel compressing the VII, VIII complex. 19(42%) patients
had been treated by botulinum toxin injection, most of them had been failed. The mean follow‐up period was 12.8
± 9.5 months. 34 (75.6%) HFS cases were completely relief of symtoms at the time of discharge, up to now, this
* Khoa Ngoại Thần Kinh ‐ Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, ** BM Ngoại Thần Kinh ĐHYD
Tác giả liên lạc: Ths Trần Hoàng Ngọc Anh ĐT: 0908152315 Email: drngocanh2002@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 204
number increase in 42 patients (93%)and 2 cases (4.4%) reflapse after 3 years. There’s no case of death. Many of
patients sufer from postoperated dizziness and minor facial palsy, most of them were recover.
Conclusion: The results of this study at Nhan Dan Gia Dinh hospital, although a small size trial, confirm
that HFS is a disturbance of neuronal function, which is diagnosed by typical symtoms. Microvascular
decompression is an effective method of treatment.
Key words: hemifacial pasme, micovascular decompression, facial –vestibulocochlear complex, Magnectic
Resonance Imaging
ĐẶT VẤN ĐỀ
Co giật nửa mặt là một rối loạn về chức
năng thần kinh đã được biết đến từ lâu gây
ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt và
công việc của người bệnh. Một trường hợp co
giật nửa mặt điển hình sẽ bị những cơn co giật
một bên mặt, ngắt quãng, không tự ý và không
gây đau(7,9,6).
Cho đến nay, nguyên nhân gây ra cơn co
giật mặt được cho là do dây thần kinh VII bị
chèn ép bởi một hay nhiều mạch máu tại vùng
REZ (vùng gốc đi ra của dây VII) là nơi chuyển
tiếp giữa các tế bào chứa myelin trung ương
(oligodendroglial cell) thành các tế bào chứa
myelin ngoại biên (Schwann cell)(1,3,6). Năm 1976,
Jannetta là người đầu tiên mô tả chi tiết về giả
thuyết tương tác mạch máu thần kinh này, và
ông cũng là người hoàn thiện kỹ thuật mổ vi
phẫu giải ép vi mạch để điều trị chứng co giật
nửa mặt(7).
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên
thế giới về phẫu thuật giải ép vi mạch trong
điều trị co giật nửa mặt. Năm 2002, Madjid
Samii(9) báo cáo 143 trường hợp vi phẫu giải ép
dây VII với tỉ lê thành công lên đến 90%. Năm
2009, Võ Văn Nho(2) báo cáo 30 trường hợp co
giật nửa mặt và trên 80% trường hợp phẫu
thuật có hiệu quả. Rất nhiều nghiên cứu khác
cũng cho kết quả khả quan tương tự(8). Do vậy,
mặc dù y học hiện đại chưa cho ra câu giải
thích rõ ràng về cơ chế bệnh sinh của chứng co
giật nửa mặt, nhưng phẫu thuật giải ép vi
mạch vẫn được chấp nhận là phương pháp
điều trị tốt nhất cho loại bệnh lý này.
Từ tháng 4 năm 2010, Bệnh Viện Nhân Dân
Gia Định bắt đầu triển khai kỹ thuật này, cho
đến nay đã điều trị cho nhiều bệnh nhân bị co
giật nửa mặt với kết quả khá khả quan. Mục tiêu
của chúng tôi trong nghiên cứu này là mô tả đặc
điểm triệu chứng lâm sàng, hình ảnh MRI, kỹ
thuật vi phẫu giải ép vi mạch và hiệu quả mà
chúng tôi đạt được trong điều trị chứng co giật
nửa mặt.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo thiết kế
tiền cứu mô tả hàng loạt ca. Địa điểm thực hiện
là Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định. Thời gian thu
thập số liệu là từ tháng 6 năm 2010 đến tháng 9
năm 2013.
Đối tượng nghiên cứu là tất cả các bệnh
nhân co giật nửa mặt đã được chúng tôi thực
hiện phẫu thật giải ép vi mạch. Mỗi bệnh nhân
được khám lâm sàng, đánh giá mức độ co giật
bằng thang điểm Jankovic, sau đó được chụp
MRI não không thuốc tương phản tập trung
khảo sát mối tương quan thần kinh và mạch
máu vùng góc cầu tiểu não. Các bệnh nhân sẽ
được đánh giá lại lâm sàng lúc xuất viện và lúc
tái khám tại phòng khám.
Thang điểm Jankovic:
1 điểm: Gia tăng nháy mắt và run mi mắt
kéo dài < 1 giây.
2 điểm: Gia tăng nháy mắt và run mi mắt
kéo dài > 1 giây, không có co gịât.
3 điểm: Co giật mi mắt gây nhắm mắt <50%
thời gian thức giấc.
4 điểm: Co giật mi mắt gây nhắm mắt > 50%
thời gian thức giấc.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 205
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Dịch tễ học
Tổng cộng 45 bệnh nhân được phẫu thuật
trong vòng 39 tháng. Trong đó có 8 bệnh nhân
nam và 37 bệnh nhân nữ, tỉ lệ nam/nữ = 1/5.
Tuổi trung bình là 47,9 , thấp nhất là 32 và cao
nhất là 70 tuổi, 50% số bệnh nhân tập trung từ
42 – 56 tuổi. Bệnh sử kéo dài trung bình là 6
năm, ngắn nhất là 8 tháng và lâu nhất là 20 năm.
Đa số bệnh nhân bị bênh trái (23 trường hợp,
chiếm 51%).
Bảng 1: Dịch tễ học.
Số ca 45
Nam 8 (20%)
Nữ 37(80%)
Tuổi (TB) 47,9 ± 8,4
Giới hạn tuổi 32 – 70
Bệnh sử (TB) (năm) 6 ± 3,7
Bên (P) 22 (49%)
Bên (T) 23 ( 51%)
Lâm sàng
Trong 45 bệnh nhân của nghiên cứu, tất cả
đều có cơn co giật mặt điển hình, co giật một
bên mặt, ngắt quãng, không tự ý và không đau.
Trong đó 44 bệnh nhân (97,1%) co giật bắt đầu
từ cơ vòng mi lan xuống cả mặt, một trường hợp
cơn khởi đầu từ cơ vòng miệng (2,9%). Đánh giá
theo thang điểm thì có 8 trường hợp (17,8%)
Jankovic 4,35 trường hợp Jankovic 3 (77,8%) và 2
trường hợp Jankovic 2 (4,4%). 39 trường hợp
(86,7%) cơn co giật có xảy ra lúc ngủ.
Trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi không
có trường hợp nào có chấn thương sọ não hay có
liệt bell’s trước đó. Các triệu chứng đi kèm
thường gặp là chảy nước mắt (19 trường hợp
42,2%), ngoài ra còn có 3 bệnh nhân kèm chóng
mặt, 1 bệnh nhân bị u tai bên co giật.
Có 19 trường hợp (42,2%) đã có chích
botulinum toxin trước đó, ít nhất là một lần, và
nhiều nhất thì bệnh nhân không nhớ hết. Hầu
hết các trường hợp này thì chích botulinum
toxin hoặc không hiệu quả, hoặc đã hết hiệu
quả.
Tất cả các bệnh nhân đều được chụp MRI
não không có thuốc tương phản. Trong đó bênh
nhân được khảo sát thêm vùng góc cầu tiểu não
bằng một chuỗi xung T2 B‐FFE 3D và TOF 3D
với lớp cắt mỏng khảo sát mối tương quan giữa
mạch máu và phức hợp thần kinh VII bênh bệnh
nhằm tìm sự hiện diện tương tác giữa mạch máu
và phức hợp VII, VIII. Trong lô nghiên cứu này
chúng tôi thấy có 40 trường hợp (88,9%) có hình
ảnh gợi ý mạch máu chèn vào phức hợp VII,
VIII bên bị co giật.
Kỹ thuật phẫu thuật
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi đều được ứng dụng phác đồ cạo tóc
tối thiểu vùng mổ. Theo phác đồ này bệnh nhân
được chuẩn bị tóc trước mổ, sau khi vào phòng
mổ và kê tư thế xong , phẫu thật viên sẽ cạo một
phần nhỏ tóc sau tai khoảng 3x4 cm, sau sau đó
sẽ được sát trùng rộng bằng betadine.
Bệnh nhân được đặt ở tư thế nằm nghiêng
ôm gối. Đầu bệnh nhân song song với mặt đất,
hơi xoay về phía đối bên khoảng 100, cằm gập
nhẹ, cố định đầu bằng khung Surgita.
Rạch da theo đường retrosigmoid, khoan
sọ lỗ đầu tiên gần góc hợp bởi xoang ngang và
xoang sigma. Những trường hợp đầu chúng
tôi thường khoan sọ nhiều lỗ và gặm sọ rộng
để bộc lộ mang cứng hố sau. Sau này, chúng
tôi chỉ khoan sọ 2 lỗ sát bờ sau và ở vị trí
khoảng 1/3 trên xoang sigma, sau đó dùng cưa
để cắt bản sọ hố sau. Mở màng cứng hình chữ
Y ngược. Phá bể dịch não tủy và hút bớt dịch
để tiểu não xẹp bớt.
Vén nhẹ tiểu não, bộc lộ phức hợp IX, X, XI.
Tách màng nhên quanh phức hợp thần kinh này
tìm đám rối mạch mạc não thất IV. Tiếp tục tách
rộng màng nhện xung quanh, vén sâu xuống
đám rối mạch mạc, chúng ta sẽ nhìn thấy gốc
xuất phát của dây VII tại vị trí nó đi ra khỏi rãnh
hành não – cầu não, nằm bên dưới so với dây
VIII. Tìm mạch máu nào tiếp xúc với vị trí này,
tách mạch máu ra khỏi đó và chèn vào giữa
mạch máu và gốc dây VII một mẩu Teflon.
Trong nghiên cứu này chúng tôi tìm thấy mạch
mạch máu chèn vào dây VII trong tất cả các
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 206
trường hợp. Trong 45 trường hợp thì 43 trường
hợp nguyên nhân chèn ép là động mạch, có 2
trường hợp nguyên nhân phối hợp vừa động
mạch và tĩnh mạch.
Tưới rửa phẫu trường liên tục và kiểm tra kỹ
có chảy máu hay không. Đóng màng cứng thật
chặt, đặt lại nắp sọ và bột xương. Khâu cân cơ
từng lớp. Khâu da.
Kết quả phẫu thuật
Để đánh giá kết quả phẫu thuật, chúng tôi sẽ
kiểm tra lại cơn co giật của bệnh nhân lúc xuất
viện cũng như trong những lần tái khám sau đó
bằng thang điểm Jankovic như trước mổ. Chúng
tôi chia làm 4 nhóm kết quả như sau :
‐ Hết triệu chứng: Jankovic = 0
‐ Giảm triệu chứng: Jankovic giảm điểm so
với trước mổ.
‐ Không đổi: Jankovic bằng với trước mổ.
‐ Tái phát: Nếu Jankovic lúc xuất viện giảm
so với trước mổ, nhưng sau đó tăng trở lại.
Trong nghiên cứu này, lúc xuất viện có 34
bệnh nhân (75,6%) hết hoàn toàn co giật
(Jankovic = 0), 11 trường hợp còn lại chỉ giảm
triệu chứng. Sau thời gian theo dõi thì chúng
tôi nhận thấy có thêm 10 trường hợp nữa hết
hoàn toàn co giật, tuy nhiên lại có hai trường
hợp tái phát (Jankovic 1) sau khi đã hết 3 năm.
Như vậy cho tới hiện nay trong 45 bệnh nhân
thì có 42 bệnh nhân hết hoàn toàn co giật nửa
mặt (tỉ lệ thành công là 93%), và 1 trường hợp
còn co giật nửa mặt nhẹ (mức Jankovic 2). Tuy
nhiên trường hợp này đều có giàm so với
trước mổ (Jankovic 3).
Bảng 2: Kết quả phẫu thuật.
Xuất viện Hiện tại
Hết 34(75,6%) 42(93%)
Giảm 11(24,4%) 1(2,3%)
Không đổi 0 0
Tái phát 0 2(4,5%)
Biến chứng phẫu thuật
Trong lô nghiên cứu của chúng tôi không có
trường hợp nào tử vong. Tất cả các bệnh nhân
xuất viện với GOS = 5. Không có trường hợp nào
bị viêm màng não .
Có 5 trường hợp lúc xuất viện có dấu hiệu
liệt mặt (11,3%), nặng nhất là liệt mặt độ 4 (2
bệnh nhân, 4,5%). Tuy nhiên tất cả những bệnh
nhân này đều hồi phục hoàn toàn hay một phần
sau đó. Hiện tại còn 3 (6,9%)bệnh nhân còn liệt
mặt nặng nhất là độ 3 (1 bệnh nhân , 2,3%).
Sau mổ không có trường hợp nào bị dò dịch
não tủy. Tuy nhiên có một bệnh nhân sau xuất
viện 1 tuần quay lại vì dò dịch nạo tủy qua vết
mổ. Bệnh nhân này được dẫn lưu thắt lưng, vết
mổ lành tốt.
Một bệnh nhân khác sau mổ có liệt nhẹ dây
IX, X. Nhưng bệnh nhân này cũng hồi phục
hoàn toàn khi xuất viện.
Một bệnh nhân hậu phẫu ngày thứ hai giảm
tri giác, tiến hành chụp CTscan phát hiện có
xuất huyết não vùng mổ và dãn nạo thất, Chúng
tôi quyết định mở lại vết mổ lấy máu tụ và dẫn
lưu não thất ra ngoài. Sau hai tuần điều trị bệnh
nhân ổn định tỉnh táo xuất viện không di chứng.
Ngoài ra, sau mổ bệnh nhân thường có
những khó chịu khác như chóng mặt, đau vết
mổ. Các triệu chứng này cũng hết hoàn toàn
trước khi xuất viện.
Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Xuất viện Hiện tại
Liệt mặt 5 (11,3%) 3 (6,9%)
Dò DNT 1(2,3%) 0
Liệt IX, X 1 (2,3%) 0
Chóng mặt 9 (20%) 0
Phù não+ dãn não thất 1(2,3%) 0
BÀN LUẬN
Phẫu thuật giải ép vi mạch từ khi được hoàn
thiện bởi Jannetta, cho đến nay nó được chấp
nhận như một phương pháp điều trị tối ưu các
rối loạn gây ra do hội chứng chèn ép mạch máu
thần kinh. Một trong số đó là chứng co giật nửa
mặt(5,6). Trong phạm vi hạn hẹp của nghiên cứu
của nghiên cứu này, chúng tôi muốn nêu lên
một số vấn đề về lâm sàng, hình ảnh học cũng
như điều trị chứng rối loạn này bằng phương
pháp phẫu thuật giải ép vi mạch.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 207
Gần như toàn bộ dân số nghiên cứu đều có
triệu chứng lâm sàng điển hình, nó cho thấy lâm
sàng chính là yếu tố quyết định trong chẩn đoán
co giật nửa mặt. Và vì đây là một rối loạn về mặt
chức năng, không phải là một bệnh lý ác tính
nên thông thường bệnh nhân có thời gian bênh
sử khá lâu (trung bình 6 năm). Đây là một
chứng bệnh thường gặp hơn ở nữ giới và bên
trái nhiều hơn bên phải. Bệnh thường ảnh
hưởng đến tuổi trung niên.
Về hình ảnh học, MRI não, trong loại bệnh lý
này, chủ yếu để loại trừ các thương tổn thực thể
nếu có ở vùng hố sau có thể gây ra triệu chứng
tương tự như u não, AVM, xơ cứng rải rác.(11,10)
Tuy nhiên với kỹ thuật hiện đại, sự cải thiện về
dộ phân gải của hình ảnh, chúng ta có thể tìm
thấy những hình ảnh gợi ý sự tương tác mạch
máu thần kinh trước phẫu thuật.
Điều trị co giật nửa mặt hiện nay có 2
phương pháp. Ngoài việc phẫu thuật giải ép vi
mạch, người ta còn có thể làm mất cơn co giật
nửa mặt bằng cách tiêm trực tiếp botulium toxin
vào các nhóm cơ đó(2,14). Tuy nhiên đây chỉ là
cách điều trị triệu chứng nên mặc dù tỉ lệ thành
công ban đầu tương đối cao, nhưng sau đó hiệu
quả sẽ giảm dần và thời gian phải tiêm nhắc lại
sẽ ngắn dần. Do đó, cho đến nay, đối với các
bệnh nhân không có nguy cơ phẫu thuật cao thì
giải ép vi mạch vẫn là biện pháp tối ưu.
Trên thế giới cũng như Việt Nam có nhiều
nghiên cứu cho ra kết quả rất khả quan về hiệu
quả của phẫu thuật. Và nghiên cứu của chúng
tôi cũng không ngoại lệ với tỉ lệ thành công là
93%. Đa phần các trường hợp cơn co giật sẽ hết
ngay sau mổ. Vài trường hợp cơn co giật giảm
dần rồi hết hẳn. Đặc biệt trong các bệnh nhân
của chúng tôi có một trường hợp bệnh nhân sau
mổ hết giật, tuy nhiên từ ngày hậu phẫu thứ 2,
cơn co giật xuất hiện trở lại, tăng dần trong ngày
hậu phẫu thứ 3,4 nhưng sau đó giảm dần và hết
giật vào ngày thứ 10 sau mổ.
Trong giai đoạn đầu triển khai phẫu thuật,
chúng tôi thường cố gắng tách tất cả những
mạch máu nào có tiếp xúc với dây VII dù điểm
tiếp đó ở bất kỳ vị trí nào trên dây thần kinh.
Một vài trường hợp có từ 2 đến 3 mạch máu ở
các vị trí khác nhau trên dây thần kinh mặt và
ngoài ra điều này làm chúng tôi có xu hướng tìm
cách kiểm soát toàn bộ dây thần kinh này đoạn
trong hộp sọ. Hệ quả là một số trường hợp sau
mổ bị liệt VII. Sau này việc tìm và tách mạch
máu ra khỏi dây VII chỉ tập trung vào vùng gốc
đi ra nơi dây thần kinh vùa ra khỏi thân này.
Điều này đã giúp giảm thời gian kéo vén tiểu
não, giảm thao tác trên các dây thần kinh. Do đó
chúng tôi đã tránh được biến chứng liệt mặt
nhưng kết quả vẫn tốt.
KẾT LUẬN
Ngày nay với sự tiến bộ của gây mê, sự hoàn
thiện dần về kỹ thuật cùng với sự hỗ trợ đắc lực
của các trang thiết bị tiên tiến, phẫu thuật giải ép
vi mạch ngày càng an toàn toàn và hiệu quả.
Điều đó càng khẳng định đây là phương pháp
điều trị ưu tiên lựa chọn cho các trường hợp co
giật nửa mặt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aoki N, Nagao T (1986): Resolution of hemifacial spasm after
posterior fossa exploration without vascular decompression.
Neurosurgery 18:478–479.
2. Apuzzo MLJ, Brain surgery(1994): Complication avoidance and
managerment – p2121.
3. Dandy WE (1945): Surgery of the brain, in Lewis D (ed): Practice
of Surgery. Vol 12, pp 177‐200.
4. Ferguson GG, Brett DC, Peerless SJ, et ah (1981). Trigeminal
neuralgia: a comparison of the results of percutaneous
rhizotomy and microvascular decompression. Can J Neurol Sci
8:207‐214.
5. Fromm GH (1991): Pathophysiology of trigeminal neuralgia, in
Fromm GH, Sessle BJ (eds): Trigeminal Neuralgia. Boston,
Butterworth Heneman, pp 179–192.
6. Greenberg MS (2010). Hemifacial spasm, handbook of
neurosurgery – Seven edition p.542‐544.
7. Jannetta PJ (1980): Neurovascular compression in cranial nerve
and systemic disease. Ann Surg 192: 518‐525.
8. Lê Trọng Nghĩa (2011). Đánh giá kết quả phẫu thuật giải ép vi
mạch điều trị co giật nửa mặt và đau dây V tại Bệnh Viện Nhân
Dân Gia Định. Y học thực hành, số 779 +780 tr. 280‐288.
9. Madjid S (2002): Microvascular Decompression to Treat
Hemifacial Spasm: Long‐term Results for a Consecutive Series
of 143 Patients. Neurosurgery, Vol. 50, No. 4.
10. Maroon JC (1978): Hemifacial spasm. A vascular cause. Arch
Neurol 35: 481‐483.
11. McLaughlin MR (1998) .Microvascular decompression of
cranial nerves: lessons learned after 4400 operations.
Neurosurgery focus.
12. Rhoton (2007)