Việt Nam đang trong thời kì mở cửa và hội nhập, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế và
xã hội. Tuy nhiên, hiện tại vốn xã hội Việt Nam chưa cao, ý thức người dân còn
kém, tổ chức xã hội chưa cao, nạn tham nhũng còn là vấn nạn lớn của quốc gia.
Những điều trên ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Việt Nam. Vì vậy, thông
qua nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của mô hình Cửa hàng trung thực trên
thế giới, tôi muốn áp dụng mô hình này vào các trường học ở Việt Nam nhằm cải
thiện vốn xã hội và từ đó, góp phần nào vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước.
53 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công trình áp dụng mô hình cửa hàng trung thực trong trường học Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
-----------------
CÔNG TRÌNH DỰ THI
GIẢI THƯỞNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
“NHÀ KINH TẾ TRẺ – NĂM 2010”
TÊN CÔNG TRÌNH
ÁP DỤNG MÔ HÌNH CỬA HÀNG TRUNG
THỰC TRONG TRƯỜNG HỌC VIỆT NAM
THUỘC NHÓM NGÀNH: KHOA HỌC KINH TẾ
TÓM TẮT
Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong thời kì mở cửa và hội nhập, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế và
xã hội. Tuy nhiên, hiện tại vốn xã hội Việt Nam chưa cao, ý thức người dân còn
kém, tổ chức xã hội chưa cao, nạn tham nhũng còn là vấn nạn lớn của quốc gia.
Những điều trên ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của Việt Nam. Vì vậy, thông
qua nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của mô hình Cửa hàng trung thực trên
thế giới, tôi muốn áp dụng mô hình này vào các trường học ở Việt Nam nhằm cải
thiện vốn xã hội và từ đó, góp phần nào vào công cuộc phát triển kinh tế-xã hội của
đất nước.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô hình Cửa hàng trung thực hiện nay đã và đang xuất hiện, cũng như phát triển
trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, định nghĩa này còn khá xa lạ. Ngoài ra, mô
hình này góp phần rất lớn vào cải thiện yếu tố vốn xã hội. Vì vậy, qua nghiên cứu,
tôi mong muốn có thể đưa khái niệm này đến gần với người dân Việt Nam hơn cũng
như tìm ra hướng áp dụng mô hình này vào các trường học ở Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Điều tra nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu tình huống
Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về vốn xã hội, khái niệm cũng như tầm quan trọng của vốn xã hội về
mọi mặt. Từ đó, tìm mối quan hệ giữa vốn xã hội và sự xuất hiện cửa hàng trung
thực. Thông qua một số cửa hàng trung thực trên thế giới và tình hình về mô hình
này ở Việt Nam, nhận định về khả năng tồn tại và phát triển của mô hình này. Sau
cùng, tôi tìm hướng đi nhằm áp dụng cửa hàng trung thực vào trường học ở Việt
Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm mở rộng mô hình.
Đóng góp của đề tài
Đưa khái niệm mô hình ―Cửa hàng trung thực‖ đến gần với xã hội Việt Nam hơn và
đưa ra phương hướng nhằm đưa Cửa hàng trung thực vào các trường học ở Việt
Nam. Phát triển mô hình và phần nào cải thiện vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Hướng phát triển của đề tài
Trước hết là áp dụng mô hình này vào các trường học rồi sau đó mở rộng ra các siêu
thị, trung tâm thương mại nhằm đến với nhiều người hơn, để mô hình phát huy tính
năng ra rộng hơn.
1
1 VỐN XÃ HỘI
1.1 Cơ sở lý thuyết
1.1.1 Khái niệm
Có khá nhiều quan điểm và lý thuyết về Vốn xã hội, tuy nhiên trong bài nghiên cứu
này, xin được trích dẫn nghiên cứu tổng hợp của luật sư Nguyễn Ngọc Bích với
những điểm chính như sau:
- Vốn xã hội là những sự ràng buộc lẫn nhau do người ta đặt ra hay tuân giữ
khi giao dịch hay khi chung sức làm một việc gì đó; nó còn được gọi là
những ràng buộc xã hội (social bonds) hay các hành vi mẫu mực (norms)
hoặc quy tắc (rules) xã hội và chúng là những yếu tố quan trọng cho sự bền
vững của cuộc sống.
- Những giá trị này được nhà xã hội học Jane Jacobs nêu lên năm 1961,
Bourdieu năm 1986, sau đó được Coleman đặt cho một khuôn khổ lý thuyết
rõ ràng năm 1989; rồi được Putnam phổ biến trên công luận năm 1993.
Coleman mô tả vốn xã hội là một cấu trúc, một khuôn khổ, cho sự giao dịch
giữa những người hành động (actors) và trong họ với nhau; thúc đẩy các hoạt
động sản xuất và trở thành những thứ gì có sẵn (tài nguyên) để cho một cá
nhân sử dụng hầu thực hiện những lợi ích riêng tư của họ. Khi ấy người ta có
thể sống với nhau mỗi ngày mà không phải mất công dàn xếp đi, dàn xếp lại
vừa mất thì giờ vừa tốn kém.
- Vốn xã hội được kết tinh sau một quá trình gồm có: (1) sự tin cẩn lẫn
nhau (trust) hay niềm tin; (2) sự có đi có lại, hay sự hỗ tương; (3) những
quy tắc hay hành vi mẫu mực chung và sự chế tài; (4) sự kết hợp lại với
nhau thành một mạng lưới.
- Về sự có đi có lại, hay sự tương tác, thì khi diễn ra chúng sẽ làm gia tăng
niềm tin. Có hai loại tương tác (Coleman, Putnam): (i) nhận ngay tức khắc
(specific reciprocity) là hai bên cùng trao đổi tức thời hai thứ có giá trị ngang
nhau, và (ii) sẽ nhận sau này (diffuse reciprocity) là một bên cứ làm lâu dài
và liên tục; không trông đợi sự đáp lại, nhưng qua thời gian thì sẽ được trả lại
2
hay bù đắp tương xứng. Sự tương tác cũng tạo ra nghĩa vụ lâu dài giữa các
bên.
Ngân hàng thế giới cũng đã công nhận ―vốn xã hội chỉ đến các tổ chức, các mối
quan hệ, và các khái niệm hình thành nên số lượng và chất lượng của các tương tác
xã hội trong một xã hộị. Ngày càng có nhiều minh chứng cho thấy các cố kết xã hội
rất quan trọng cho các xã hội tăng trưởng về mặt kinh tế và phát triển một cách bền
vững‖.
Mặc dù đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau , nhưng tựu trung vốn xã hội thường
được định nghĩa xoay quanh ba yếu tố có liên hệ mật thiết với nhau : (a) khả năng
làm việc chung với nhau , (b) sự tin cậy giữa con người với nhau , và (c) các mạng
lưới xã hội.
Một trong những thành tố quan trọng của vốn xã hội là tính liên kết. Có nhiều loại
liên kết khác nhau giữa các nhóm (mua bán hàng hóa, trao đổi thông tin, giúp đỡ lẫn
nhau, cho vay, cử hành các nghi lễ chung, đọc kinh, đám cưới, cầu ma). Chúng có
thể diễn ra theo nhiều hướng, chiều ngang, chiều dọc hay đứng một mình.
- Do các hình thức liên kết này, giáo sư Robert Putnam (2000) phân biệt ra
hai loại vốn xã hội: loại co cụm vào nhau (bonding social capital) và loại
vươn ra bên ngoài (bridging social capital). Loại trước tạo nên các nhóm như
Mafia ở Ý; loại sau tạo nên các ban hợp xướng, dàn nhạc, các tổ chức phi
chính phủ hay các hội từ thiện. Khi trong nước có nhiều đoàn thể thành lập
do sự tự nguyện để bảo vệ lợi ích cục bộ của mình và tìm cách tác động
vào luật pháp thì những việc ấy sẽ tạo nên một xã hội dân sự. Xã hội này là
một xã hội trong đó các nhóm, các đoàn thể góp tay với chính quyền chăm lo
mọi mặt của đời sống xã hội mà một mình chính quyền không làm xuể.
- Tùy hình thức của vốn, cái co cụm không đem lại lợi ích cho xã hội, chỉ có
những tổ chức hay mạng lưới phát triển theo chiều ngang do các cá nhân kết
hợp với nhau một cách tự nguyện tạo nên mới làm gia tăng năng suất của xã
hội và tạo ra sự gắn bó trong đó. Trong những xã hội mà sự tin cẩn nhau
không cao, sự tương tác hàng ngang bị thay thế bởi chính trị với những hệ
3
cấp của nó đi theo hàng dọc thì không có vốn xã hội và cũng chẳng có bao
nhiêu hoạt động dân sự (Putnam, 1998).
Nói một cách đơn giản, vốn xã hội là khái niệm mô tả sự tin tưởng lẫn nhau giữa
con người với con người trong cùng một xã hội, và sự tin tưởng của những
thành viên đối với chính xã hội đó.
1.1.2 Vai trò và tầm ảnh hưởng
Nói về vai trò của vốn xã hội, trong bài viết ―Vốn xã hội và phát triển‖ đăng trên tạp
chí Tia sáng, luật sư Nguyễn Ngọc Bích có đưa ra vài quan điểm như sau:
- Trong quyển ―Trust: The Social Virtues and the Creation of Prosperity‖ xuất
bản năm 1995, giáo sư Fukuyama đã nghiên cứu niềm tin trong việc tạo nên
vốn xã hội, và chú trọng đặc biệt đến sự phát triển kinh tế. Dùng niềm tin
như là tiêu chí chính yếu để so sánh cơ cấu kinh tế và xã hội của các nước,
ông cho rằng vốn con người và vốn xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Vốn con
người có thể làm tăng vốn xã hội. Thí dụ, người có học sẽ ý thức hơn tầm
quan trọng của việc săn sóc con cái, và con cái sẽ cố gắng học hành, trau dồi
vốn con người của mình để đáp lại cha mẹ.
- Niềm tin có thể được hiểu như sự chấp nhận đặt lợi ích của mình vào tay của
người khác. Ông nói thẳng: ―Chất lượng cuộc sống cũng như khả năng
cạnh tranh của một quốc gia tùy thuộc vào một đặc tính văn hóa độc đáo
lan tỏa trong quốc gia ấy, đó là mức độ tin cẩn nhau trong xã hội”. Để
minh chứng, ông cho rằng Trung Quốc, Pháp, Ý vì có mức tin cẩn lẫn nhau
thấp nên đã mất thế cạnh tranh với Mỹ, Nhật và Đức là những nước có mức
tin cẩn nhau cao. Trong một xã hội mà mức tin cẩn nhau thấp thì kinh doanh
thường hạn chế trong phạm vi gia đình, không có nhiều đại công ty (nếu
không được nhà nước tổ chức hoặc giúp đỡ). Xí nghiệp sẽ dễ bành trướng
trong một xã hội mà mức tin cẩn nhau cao.
5 năm sau khi viết như thế, trong một bài tham luận trình bày tại Quỹ Tiền tệ quốc
tế, ông định nghĩa: ―Vốn xã hội là hành vi mẫu mực không chính thức (informal)
phát sinh ngay lập tức và nó thúc đẩy sự hợp tác giữa hai người hay nhiều người
4
(nhường chỗ ngồi cho người già). Các hành vi mẫu mực tạo nên vốn xã hội có thể
bắt đầu từ một sự tương tác tự nhiên giữa hai người bạn lên cao cho đến tận các học
thuyết phức tạp và tinh vi như Cơ đốc giáo và Phật giáo. Hành vi mẫu mực phải
bung ra ngay lập tức (tức thời) trong các mối quan hệ cá nhân cụ thể. Hành vi mẫu
mực có đi có lại nằm ẩn trong mọi giao dịch của tôi đối với mọi người, và chỉ trở
thành cụ thể trong sự giao dịch của tôi đối với những bạn của tôi‖.
Không phải mọi hành vi mẫu mực phát sinh tức thời đều sẽ tạo nên vốn xã hội. Trái
lại chỉ có những cái nào giúp cho các nhóm trong xã hội hợp tác với nhau, hay tạo
nên sự hợp tác, thì đó mới là hành vi mẫu mực. Đa phần chúng lại là các đức tính
truyền thống như lòng trung thực, sự giữ lời hứa, việc thi hành bổn phận một cách
đáng tin cậy, sự tương tác và tinh thần trách nhiệm.
Theo ông, vốn xã hội xuất phát từ ba nguồn:
- Thứ nhất, như các nhà kinh tế đã nêu, là từ sự giao tiếp với nhau liên tục; hai
người giao dịch với nhau lâu sẽ thấy cần phải chứng tỏ mình là người trung
thực và giữ lời hứa.
- Thứ hai, là từ các tôn giáo hay hệ thống luân lý. Đó là nguồn gốc của một
quyền uy, nó ấn định các hành vi mẫu mực và trông đợi sự tuân thủ không
cần suy nghĩ. Những mẫu mực đó không chỉ diễn ra trong các cuộc thương
thảo riêng lẻ mà còn được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua các
qui trình đã được xã hội hóa sử dụng tập quán và thói quen nhiều hơn là lý
lẽ.
- Thứ ba, sự chia sẻ các kinh nghiệm lịch sử cũng tạo nên những hành vi mẫu
mực một cách không chính thức và do đó cũng tạo nên vốn xã hội. Thí dụ, cả
Đức và Nhật đều đã trải qua các cuộc đình công của thợ thuyền, rồi xung đột
chủ thợ với chính quyền trong những năm 1920, 30. Hai chính quyền ấy đã
phải trấn áp các nghiệp đoàn lao động độc lập và thay thế họ bằng công đoàn
―vàng‖. Sau khi hai nước bại trận, họ có cách tiếp cận mềm dẻo hơn đối với
việc quản lý các quan hệ lao động; kết quả là ở Đức đã có chính sách kinh tế
thị trường xã hội (Sozialmarktwirtschaft) còn ở Nhật là chế độ làm việc suốt
5
đời. Dẫu cũng còn những bất cập, hai định chế này đã đóng vai trò quan
trọng trong sự phục hồi kinh tế của hai nước kia và tạo nên một loại vốn xã
hội.
Thu gọn lại những điều trên, ta thấy vốn xã hội xuất phát từ các đức tính của mỗi
cá nhân (trung thực, trách nhiệm, hợp tác…) khi họ tự nguyện kết hợp lại với
nhau để làm một công việc chung nào đó. Xin gọi chúng là các yếu tố tinh thần.
Mối tương quan giữa các công trình trong xã hội với vốn xã hội và các yếu tố tinh
thần có thể thấy qua một thí dụ là công tác đắp đê chống lụt. Công tác này chính là
một công trình của xã hội – mọi người chung sức làm, kẻ cuốc, người đào, ai cũng
chăm chỉ (đó là vốn xã hội) – sở dĩ họ làm được như thế vì mỗi người tham gia ý
thức được mối lo chung và bổn phận của mình (đó là các yếu tố tinh thần). Xã hội
sẽ hoạt động tốt đẹp nhất khi mọi công dân chung lưng đấu cật để thực hiện một
mục tiêu chung và do đó chia sẻ một văn hóa của công dân (civic culture). Khi sự
tin cẩn lẫn nhau được tích tụ lại nhờ các sinh hoạt tự nguyện, thì đó là vốn xã hội,
và nó tạo ra những tài sản chung. Vốn đó làm cho các cố gắng của chính quyền trở
nên hữu hiệu.
Theo tác giả Huỳnh Thanh Điền, gần đây các nhà nghiên kinh tế sử dụng khái
niệm vốn xã hội của các nhà xã hội học như Broudieu (1986), Coleman (1988),
Putnam(1996) để đo lường mối quan hệ với tăng trưởng và phát triển kinh tế trên
nhiều phương diện. Kết quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội có tác động tỷ lệ thuận
và có ý nghĩa thống kê đến thu nhập hộ, tăng trưởng và phát triển kinh tế trên nhiều
phương diện, chẳng hạn như:
- Nghiên cứu ở Indonexia của Grooteart (1998); ở TanZania của Narayan và
Pritchet (1997); ở Kenya của La Ferrar (2002) đo lường vốn xã hội bằng
cách xác định mức độ tham gia sinh hoạt cộng đồng của các cá nhân trong hộ
giá đình. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác động của vốn xã hội đến phúc lợi
của hộ là rất lớn và tỷ lệ thuận.
- Nghiên cứu của Eward Miguel, Paul Gerler và David I Levine (2002) về sự
tác động của quá trình công nghiệp hoá ở Indonexia đến vốn xã hội. Kết quả
nghiên cứu đề nghị nên dự báo vốn xã hội trong phân tích các chính sách
6
kinh tế xã hội, nghĩa là cần có một mô hình đầu tư vốn xã hội để gợi ý chính
sách cho quá trình công nghiệp hoá của Indonexia từ năm 1997.
- Nghiên cứu của John Maliccio, Lawrance Haddad, And Julia N May (1999)
về vốn xã hội và sự sinh ra thu nhập ở Nam Phi giai đoạn 1993 – 1998.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu điều tra từ ở những tỉnh lớn nhất của Nam Phi để
ước lượng hàm chi tiêu bình quân đầu người với vốn xã hội. Nghiên cứu cố
định các yếu tố tác động khác để xem vốn xã hội tác động đến chi tiêu. Kết
quả nghiên cứu cho thấy vốn xã hội không có tác động đến chi tiêu bình quân
đầu người trong năm 1993 nhưng lại có tác động tỷ lệ thuận và có ý nghĩa
vào năm 1998. Tác giả giải thích điều này do sự thay đổi cấu trúc nền kinh tế
Nam Phi, mà nguyên nhân là nạn phân biệt chủng tộc ở Nam phi đã được
tháo bỏ.
- Nghiên cứu của Christan Bjonskov (2004) về tác động của các yếu tố cấu
thành vốn xã hội tác động đến thu nhập. Ông chỉ ra rằng mạng lưới xã hội
của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra thu nhập cho người đó.
Tuy nhiên, phụ nữ nhận được thu nhập từ mạng lưới xã hội nhiều hơn nam
giới.
- Nghiên cứu tác động của vốn xã hội đến các căn bệnh xã hội được thực hiện
bởi Dr.Holtgrave và R A Crosby (2003) ở Mỹ. Kết quả nghiên cứu cho thấy
vốn xã hội có tác động đến các căn bệnh xã hội như lậu, giang mai, Aids.
Những nghiên cứu thực nghiệm trên đã khẳng định được vai trò của vốn xã hội đối
với phát triển kinh tế trên nhiều phương diện như thu nhập, chi phí giao dịch, thông
tin hòan hảo, các vấn đề xã hội... Đặc tính lớn nhất của vốn xã hội là sự tín cẩn, nhờ
sự tín cẩn mà tạo nên một mạng lưới đoàn kết giữa các cá nhân, giữa các tổ chức,
thậm chí của cả hệ thống chính trị. Tính minh bạch của hệ thống chính trị, lòng tin
của người dân vào lãnh đạo cũng chính là vốn xã hội của quốc gia.
Cụ thể hơn, theo tác giả Trần Hữu Dũng, vốn xã hội mang lại những lợi ích cho
kinh tế:
7
- Vốn xã hội giúp giải quyết những ―bài toán tập thể”. Cụ thể, có những tình
huống mà mọi người đều có lợi (có thể khá lớn) nếu mỗi người làm một việc
nhỏ, song lợi ích (lớn) đó chỉ hiện thực khi mọi người đều làm việc nhỏ ấy.
Ví dụ đầy rẫy chung quanh ta: từ những việc quan trọng như đóng thuế, đến
những việc bình thường như dừng khi đèn đỏ hoặc không vứt rác nơi công
cộng. Nói theo các nhà kinh tế, vốn xã hội – như là kết tinh của một chuẩn
mực cư xử, một kì vọng chung của thành viên cùng một cộng đồng - giúp
giải quyết các ―bài toán phối hợp‖ (coordination problems). Đi xa hơn (dù
chưa thấy ai đề nghị), nhớ lại rằng nhiều nhà kinh tế đã giải thích những vấn
đề kinh tế vĩ mô như là hậu quả của sự ―thất bại phối hợp‖ (coordination
failures), người viết bài này nghĩ rằng ―tiếp cận vốn xã hội‖ có thể rất hữu
ích cho phân tích những hiện tượng vĩ mô tổng quát (như thất nghiệp, lạm
phát...)
- Vốn xã hội tiết kiệm phí giao dịch (transaction costs). Mọi giao dịch xã hội
và kinh tế sẽ ít rủi ro hơn nếu những đối tác liên hệ ngầm hiểu rằng mọi
người đều theo một chuẩn tắc cư xử (tự trọng, sợ mất danh giá gia đình, giữ
lời hứa, chẳng hạn), bởi vì như vậy thì những cá nhân liên hệ sẽ không tốn
nhiều thời giờ và tiền bạc để bảo đảm rằng đối tác sẽ chu toàn trách nhiệm
của họ.
- Vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và tốc độ tích lũy của
những loại vốn khác. Chẳng hạn, vốn xã hội có thể làm tăng vốn con người
(Coleman 1988).
- Trong những xã hội ít tin cẩn (tức là nghèo vốn xã hội), quyết định thuê
mướn nhân viên thường bị ảnh hưởng của những đặc tính cá nhân người ấy
(chẳng hạn như thân nhân hoặc quen biết riêng), ít dính dáng đến khả năng
làm việc. Ở xã hội nhiều tin cẩn thì những yếu tố khác như học vấn, tay
nghề, sẽ được quan tâm hơn. Do đó, muốn tiến thân, người trong xã hội
thiếu tin cẩn hay tìm cách móc nối thay vì trau dồi khả năng hay kiến
thức của mình.
8
- Một xã hội nhiều vốn xã hội là một xã hội ít tội phạm. Khi sinh ra trong một
xã hội mà thành viên tin cẩn nhau thì con người cũng dễ có lòng tốt với
người khác. Hậu quả là xã hội sẽ ít tội phạm hơn. Lợi ích kinh tế không phải
nhỏ.
- Vốn xã hội của nhà nước là cái sườn, là thành tố của pháp chế. Càng nhiều
vốn xã hội thì tư pháp càng vững chắc, khế ước càng nhiều khả năng thực
thi, tham nhũng càng ít, quyết định của nhà nước càng minh bạch, dễ kiểm
soát, và bộ máy hành chính càng hữu hiệu.
- Vốn xã hội, qua dạng tin cẩn, sẽ tăng mức khả tín của quan chức nhà nước,
đặc biệt là khi họ tuyên bố về chính sách kinh tế và tài chính. Do đó vốn
xã hội sẽ nâng cao mức đầu tư và những hoạt động kinh tế khác.
- Một xã hội đoàn kết, ít chia rẽ (tức là phong phú vốn xã hội) sẽ dễ hồi phục
sau những cú ―sốc‖ kinh tế. Theo Rodrik (1999), những cú sốc này đòi hỏi sự
quản lí những quyền lợi khác nhau trong xã hội. Vốn xã hội giúp hài hòa
những xung khắc mà một cơn khủng hoảng kinh tế sẽ phơi trần. Thiếu vốn
xã hội, ảnh hưởng của các cú sốc kinh tế sẽ trầm trọng và lâu dài hơn.
Ngoài ra, theo tác giả, ý niệm ―vốn xã hội‖ là một cầu nối giữa tiếp cận kinh tế và
tiếp cận xã hội, và do đó cung cấp những lí giải phong phú và thuyết phục hơn về
hiện tượng phát triển kinh tế. Nó cho thấy bản chất và chừng mực tương tác giữa
các cộng đồng và thể chế có ảnh hưởng quan trọng đến thành tựu kinh tế. Nhận định
này có nhiều hệ luận quan trọng cho chính sách phát triển mà cho đến nay hầu như
chỉ nhắm vào mặt kinh tế.
- Mọi chính sách đều có một bối cảnh xã hội, và mỗi bối cảnh ấy là một hỗn
hợp tế nhị giữa các tổ chức không chính thức (informal), những mạng (quen
biết cá nhân), và các thể chế. Do đó, quy hoạch chính sách đòi hỏi, trước hết,
một phân tích xã hội và thể chế để nhận dạng mọi thành phần liên hệ, và liên
hệ giữa các thành phần ấy. Cụ thể, khi hoạch định một phương thức can thiệp
kinh tế hay xã hội, cần lưu ý đến khả năng các nhóm thế lực có thể động viên
ảnh hưởng của họ theo cách có hại cho cộng đồng chung.
9
- Phải xem vốn xã hội là một nguồn lực như các nguồn lực khác trong mọi
công trình xây dựng, dự án phát triển, từ cơ sở hạ tầng, đến giáo dục, y tế...
Cũng nên nhớ rằng vốn xã hội là một loại ―hàng hóa công‖ và, cũng như các
loại hàng hóa công khác, nó sẽ không được thị trường cung ứng đầy đủ. Sự
hỗ trợ của nhà nước là cần thiết.
- Nói chung, cần vun quén vốn xã hội, song cũng nên nhớ (a) vốn xã hội
không phải bao giờ cũng tốt, (b) vốn xã hội thường là thuộc tính của một
―cộng đồng‖, một nhóm, đan xen, chồng chéo nhau - ít khi của toàn thể quốc
gia. Do đó, chính sách ―phát triển vốn xã hội‖ cần được cẩn thận chọn lọc, cụ
thể, trong đó có cả biện pháp kết nối những cộng đồng (mà nội bộ có vốn xã
hội riêng) trong một nước (Granovetter). Nó không thể là một chính sách
chung chung. Sự phân cực, manh mún trong xã hội sẽ làm giảm vốn xã hội.
Muốn phát triển kinh tế, chúng ta phải vượt lên những chia rẽ trong xã hội,
làm xã hội gắn kết hơn.
- Cần tăng cường khả năng tổ chức, phối hợp của người thu nhập thấp (nhưng
lại có thể rất giàu vốn xã hội) và giúp những tập thể, những nhóm xã hội liên
kết với nhau. Đặc biệt quan trọng là ―bắt cầu‖ (từ của Granovetter) giữa
những nhóm xã hội, bởi lẽ nhiều quyết định có ảnh hưởng đến người nghèo
là kh