Mục tiêu: Mô tả và đo đạc một số kích thước của mạch xuyên cơ ra da của hệ thống động mạch mũ đùi ngoài (ĐMMĐN) trên xác người Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 30 xác gồm 17 xác nam và 13 xác nữ. Kết quả: mạch xuyên cơ ra da chiếm 84% tổng số mạch xuyên; nguyên uỷ 53,8% từ nhánh xuống, 45,6% từ nhánh lên; đường kính nguyên uỷ trung bình 1,0 ± 0,5 mm, chiều dài trung bình 27,6 ± 14,8 mm. Kết luận: Mạch xuyên loại M chiếm tỉ lệ cao (84,0% tổng số mạch xuyên ra da), đường kính nguyên uỷ lớn hơn 0.5mm (78,5%), chiều dài trung bình 27,6 ± 14,8 mm. Có hướng đi ra trước hoặc hướng xuống dưới về phía xương bánh chè, chếch với bề mặt da một góc dưới 720, tập trung cao ở khoảng (2/8 – 3/8) và (5/8 – 6/8) theo trục dọc đùi
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm giải phẫu mạch xuyên cơ từ động mạch mũ đùi ngoài ở người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 172
ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU MẠCH XUYÊN CƠ
TỪ ĐỘNG MẠCH MŨ ĐÙI NGOÀI Ở NGƯỜI VIỆT NAM
Trần Đăng Khoa*, Phạm Đăng Diệu*, Trần Ngọc Anh**, Nguyễn Kim Giang*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả và đo đạc một số kích thước của mạch xuyên cơ ra da của hệ thống động mạch mũ đùi
ngoài (ĐMMĐN) trên xác người Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 30 xác gồm 17 xác nam và 13 xác nữ.
Kết quả: mạch xuyên cơ ra da chiếm 84% tổng số mạch xuyên; nguyên uỷ 53,8% từ nhánh xuống, 45,6%
từ nhánh lên; đường kính nguyên uỷ trung bình 1,0 ± 0,5 mm, chiều dài trung bình 27,6 ± 14,8 mm.
Kết luận: Mạch xuyên loại M chiếm tỉ lệ cao (84,0% tổng số mạch xuyên ra da), đường kính nguyên uỷ lớn
hơn 0.5mm (78,5%), chiều dài trung bình 27,6 ± 14,8 mm. Có hướng đi ra trước hoặc hướng xuống dưới về phía
xương bánh chè, chếch với bề mặt da một góc dưới 720, tập trung cao ở khoảng (2/8 – 3/8) và (5/8 – 6/8) theo trục
dọc đùi.
Từ khóa: động mạch mũ đùi ngoài, nhánh xuống ngoài, nhánh xuống trong, mạch xuyên, mạch xuyên cơ
da.
ABSTRACT
SURGICAL ANATOMY OF THE MUSCULAR PERFORATORS OF THE LATERAL CIRCUMFLEX
FEMORAL ARTERY (STUDY ON VIETNAMESE CADAVER)
Tran Đang Khoa, Pham Dang Dieu, Tran Ngoc Anh, Nguyen Kim Giang
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 172 - 177
Objectives: Describe and measure some sizes of the vessels through skin of Lateral Circumflex Femoral
Artery in Anterolateral Thigh Flap on Vietnamese cadavers
Methods: cross-sectional study on 30 cadavers included 17 males and 13 females
Results: the vessels through skin have a high rate (84% of total of the vessels through skin), the original
diameter is greater than 0.5 mm (78.5%), the average length is 27.6 ± 14.8 mm with directions to the front or side
facing down the patella, angling with a bottom skin surface 720 and a high concentration of about (2/8 - 3/8) and
(5/8 - 6/8) by along the femoral axis.
Key words: lateral circumflex femoral artery, branch perforators, muscular perforators.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nhánh lên – ngang – xuống của động
mạch mũ đùi ngoài trên đường đi cho các
nhánh động mạch xuyên cơ hoặc xuyên qua cân
ra nuôi da, gọi tắt là các mạch xuyên da. Các
mạch xuyên da này là cơ sở để thiết kế các loại
vạt da mà loại vạt nổi tiếng nhất chính là vạt đùi
trước ngoài, dựa trên nền tảng cấp máu của
nhánh xuống của động mạch mũ đùi ngoài,
đang được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi
trên khắp thế giới, đặc biệt là ở châu Á(1,14).
Vạt đùi trước ngoài được mô tả lần đầu bởi
Song và cộng sự(12) năm 1984. Mạch xuyên nuôi
vạt được mô tả như là mạch xuyên vách gian cơ
ra da, tỷ lệ loại mạch xuyên này theo nghiên cứu
* Bộ môn Giải Phẫu - Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch ** Đại học Y Hà Nội.
Tác giả liên lạc: BS. Trần Đăng Khoa ĐT: 0916301199 Email: khoatrandr@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 173
của tác giả trên 9 vạt là 100%. Tuy nhiên những
nghiên cứu sau đó nhận thấy rằng loại mạch
xuyên chủ yếu của vùng này là loại mạch xuyên
cơ – da, loại mạch xuyên vách gian cơ – da
chiếm tỷ lệ ít hơn nhiều.
Ở Việt Nam cho đến nay, chúng tôi chưa
thấy có tài liệu nghiên cứu về mạch xuyên vách
gian cơ ra da được công bố(9,11). Chính vì vậy
trong bài báo này chúng tôi giới thiệu những kết
quả bước đầu về đặc điểm giải phẫu mạch
xuyên vách gian cơ ra da của hệ ĐMMĐN trên
người Việt nam, với mục tiêu nghiên cứu như
sau:
1. Mô tả đặc điểm giải phẫu mạch xuyên cơ
từ động mạch mũ đùi ngoài
2. Đo đạc một số kích thước mạch xuyên cơ
từ động mạch mũ đùi ngoài trên 30 xác người
Việt Nam tại Bộ môn Giải phẫu trường Đại học
Y khoa Phạm Ngọc Thạch từ 12/2008 đến
12/2010.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
60 vùng đùi của xác, không phân biệt nam
nữ.
Đối tượng nghiên cứu và kiểu chọn mẫu
Chọn thuận tiện các xác có trong phòng lưu
trữ xác tại Bộ môn Giải phẫu trường Đại học y
khoa Phạm Ngọc Thạch sao cho thỏa tiêu chuẩn
nhận :
1. Xác người Việt Nam, trưởng thành trên 18
tuổi
2. Còn nguyên vẹn cả 2 đùi phải trái
3. Không biến dạng, u bướu hay bất thường
về giải phẫu vùng đùi, không có phẫu thuật và
vết thương trước đó.
Tiêu chuẩn loại
Khi không thỏa các điều kiện trong tiêu
chuẩn nhận.
Chỉ số cần thu thập
Chỉ số định tính
Nguồn gốc của mạch xuyên cơ ra da của hệ
thống động mạch mũ đùi ngoài; tính chất phân
loại theo đường đi ra da của các mạch xuyên cơ
ra da.
Chỉ số định lượng
Đường kính và chiều dài của mạch xuyên cơ
ra da.
Cách tiến hành
1. Xác được cố định trong dung dịch
formalin.
2. Chọn xác thỏa tiêu chuẩn nhận.
3. Tiến hành phẫu tích:
- Đường vẽ và rạch da: dùng xanh
methylene và thước dây vẽ 1 đường thẳng
đường gai chậu trước trên đến điểm giữa bờ
ngoài xương bánh chè (gọi là “Đường chuẩn”).
- Xây dựng hệ trục tọa độ Oxy trên bề mặt
da vùng đùi trước ngoài với gốc tọa độ O tại gai
chậu trước trên; trục Y là đường thẳng nối từ gai
chậu trước trên đến điểm giữa bờ ngoài xương
bánh chè, hướng dương của trục Y hướng
xuống bàn chân; trục X vẽ vuông góc với trục Y
tại gai chậu trước trên, hướng dương của trục X
hướng ra ngoài.
- Lấy điểm giữa đoạn chuẩn làm tâm, vẽ một
vòng tròn có bán kính là 3cm.
- Dùng dao rạch da dọc theo giữa cơ may
(phân chia vùng đùi trước ngòai và vùng đùi
trước trong). Bóc tách từ da vào đến cơ.
- Bóc tách dọc theo bờ trong cơ may để vào
tam giác đùi, tìm động mạch đùi, động mạch
đùi sâu, động mạch mũ đùi ngoài và thần kinh
đùi. Sau đó bóc tách dần từ gốc của động mạch
mũ đùi ngoài để tìm các phân nhánh ngang và
phân nhánh lên, phân nhánh xuống của động
mạch này. Tiếp theo đó bóc tách dọc theo đường
đi của các phân nhánh lên-nhánh ngang-nhánh
xuống để tìm các mạch xuyên cơ ra da.
- Tại vị trí mạch xuyên đâm vào da, dùng
kim đâm vuông góc với mặt trong da để xác
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 174
định vị trí của mạch xuyên trên mặt ngoài của
da.
4. Thu thập các số liệu nghiên cứu. Sau đó
xử lý số liệu: hiệu chỉnh các số liệu thô từ bảng
thu thập, mã hóa các biến số, thống kê và phân
tích bằng phần mềm SPSS/PC 10.5. Cuối cùng
trình bày số liệu và báo cáo kết quả.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số mẫu: 60 vùng đùi (15 bên phải, 15
bên trái) của 30 xác, trong đó có 17 xác nam
(56,7%), 13 xác nữ (43,3%) với độ tuổi trung bình
56 dao động từ 21-84 tuổi.
Nguồn gốc nhánh xuyên cơ từ động mạch
mũ đùi ngoài
Trong 60 mẫu đùi nghiên cứu chúng tôi tìm
được tổng cộng 405 nhánh xuyên ra da. Đây là
tất cả những nhánh xuyên của hệ thống động
mạch mũ đùi ngoài. Trong tổng số nhánh
xuyên, có 340 nhánh xuyên cơ da, nguồn gốc
chủ yếu từ nhánh xuống (53,8%) hoặc nhánh lên
(45,6%), tỉ lệ rất thấp từ thân chung lên – ngang.
Mẫu có ít nhánh xuyên nhất là 1 nhánh và
nhiều nhánh xuyên nhất là 14 nhánh. Số nhánh
xuyên loại M trung bình trên mỗi chân là 5.7
nhánh/chân và không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về số lượng nhánh xuyên giữa hai
chân.
Hình 1: Các loại mạch xuyên ra da
Một số kích thước mạch xuyên cơ từ động
mạch mũ đùi ngoài
Đuờng kính nguyên uỷ của mạch xuyên cơ
từ hệ ĐMMĐN trung bình là 1,0 ± 0,5 mm,
78,5% có đường kính > 0,5 mm. Đuờng kính vào
da của mạch xuyên loại M từ hệ ĐMMĐN trung
bình là 0,96 ± 0,53 mm, 75,5% có đường kính >
0,5 m. Chiều dài mạch xuyên loại M trung bình
27,6 ± 14,8 mm. Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về các kích thước này giữa hai
chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
Phân bố vị trí mạch xuyên loại M trên bề
mặt da
Xét về hướng đi của các mạch xuyên loại M
theo trục dọc đùi, chúng tôi ghi nhận đa số
mạch này chạy hướng ra trước hoặc hướng
xuống dưới về phía xương bánh chè, với tổng tỉ
lệ 77,4%.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 175
Hình 2: Hướng của mạch xuyên theo chiều dọc của đùi
Khi xét theo trục ngang đùi, các mạch xuyên
loại M đa số tập trung ở phía ngoài đường
chuẩn đùi (54,7%), những mạch xuyên thoát ra
da ở trong đường chuẩn cũng chiếm tỉ lệ cao là
27,9%.
Góc vào da của các mạch xuyên loại M đa
số dưới 720, chiếm 75%, có nghĩa các mạch
xuyên này đi song song hoặc chếch so với bề
mặt da bên trên.
Khi chia đường chuẩn đùi thành 3 khoảng
bằng nhau, chúng tôi ghi nhận các mạch xuyên
loại M tập trung rất cao ở khoảng 1/3 và 2/3 đầu
của đường chuẩn (81,5%) (biểu đồ 1). Khi chia
đường chuẩn đùi thành 8 khoảng bằng nhau,
chúng tôi nhận thấy các mạch xuyên loại M tập
trung chủ yếu ở khoảng (2/8 – 3/8) và (5/8 – 6/8)
với tỉ lệ lần lượt là 42% và 34,1% (biểu đồ 2).
Biểu đồ 1: Phân lớp đùi thành 3 khoảng. Biểu đồ 2: Phân lớp đùi thành 8 khoảng.
BÀN LUẬN
Nguồn gốc nhánh xuyên cơ từ động mạch
mũ đùi ngoài
Trong 60 mẫu đùi nghiên cứu chúng tôi tìm
được tổng cộng 405 mạch xuyên ra da, trong đó
có 106 mạch thuộc chân phải và 209 mạch thuộc
chân trái. Đây là tất cả những mạch xuyên của
hệ thống động mạch mũ đùi ngoài. Trong tổng
số mạch xuyên này, có đến 340 mạch xuyên
vách gian cơ ra da, chiếm 84,0%.
Chúng tôi tìm thấy trung bình 5,7 mạch
xuyên loại M/chân, số mạch dao động từ 1 đến
14 mạch trong mỗi đùi. Tỉ lệ này cao hơn hẳn so
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 176
với các nghiên cứu khác như Kavita(8) trung bình
4,26 mạch/đùi, Kimata(4) báo cáo 2,31 mạch/đùi,
Tanvaa(13) báo cáo có trung bình 2,2 mạch/ đùi.,
S.W.Choi(1) tìm thấy trung bình có 4,2 mạch/đùi.
Chúng tôi nhận thấy nguyên nhân khiến số
mạch xuyên của nghiên cứu chúng tôi cao hơn
các nghiên cứu khác là bởi vì chúng tôi khảo sát
tất cả các phân nhánh của động mạch mũ đùi
ngoài, trong khi các nghiên cứu khác chỉ khảo
sát nhánh xuống hoặc chỉ nhánh xuống và
nhánh ngang của động mạch mũ đùi ngoài do
đây là nhánh chính cung cấp máu cho vạt đùi
trước ngoài. Trong khi đó, kết quả của chúng tôi
nhận thấy rằng nhánh lên cho một số lượng
mạch xuyên loại M rất đáng kể, trung bình là 2,6
mạch cho mỗi đùi. Còn nếu chỉ khảo sát riêng
nhánh xuống thì số mạch xuyên ra da trung
bình chỉ là 3,1 mạch/đùi, gần tương tự so với các
kết quả khác. Điều này cho thấy rằng nếu khi
phẫu tích vạt đùi trước ngoài mà không tìm
thấy mạch xuyên của nhánh xuống thì có thể
dời vị trí bóc vạt lên cao hơn về phía gai chậu thì
có thể gặp mạch xuyên của nhánh lên dễ dàng.
Hoặc cũng có thể khi cần che phủ một tổn
thương quá lớn thì có thể kết hợp cả vạt đùi
trước ngoài và vạt cơ căng mạc đùi do nhánh
lên và nhánh xuống cấp máu, khi đó ta sẽ có
một vạt rời có một diện tích đáng kể phục vụ
cho yêu cầu của lâm sàng.
Nhánh xuống cho 183 mạch xuyên chiếm
53,8% và nhánh lên cho 155 mạch chiếm 45,6%
tổng số mạch xuyên loại M. Năm 1984. Song
và các cộng sự(12) đã lần đầu miêu tả vạt đùi
trước ngoài như một vạt có mạch xuyên là
loại xuyên vách gian cơ(6). Tuy nhiên nghiên
cứu của chúng tôi lại cho thấy tỉ lệ mạch
xuyên cơ ra da chiếm tỉ lệ ưu thế (75,6% tổng
số mạch xuyên ra da).
Bảng 1: So sánh các loại mạch xuyên giữa các nghiên
cứu
Tác giả (năm) Mẫu nghiên
cứu
Mạch xuyên
cơ da (%)
Song
(12)
1984 9 vạt 0
Koshima(5) 1989 13 vạt 38,5
Zhou(3) 1991 32 vạt 63,0
Tác giả (năm) Mẫu nghiên
cứu
Mạch xuyên
cơ da (%)
Wolff 1992 100 xác 90,0
Kimata(4) 1997 38 vạt 73,7
Shieh(10) 1998 37 vạt 83,8
Xu(3) 1998 42 xác 60,0
Luo(6) 1999 152 vạt 82,2
Luo(6) 1999 10 xác 75,0
Demirkan(2) 2000 59 vạt 88,0
Wei(15) 2002 672 vạt 87,0
Makitie(7) 2003 39 vạt 77,0
P,Yu(16) 2004 72 vạt 79,0
SW Choi
(1)
2007 19 xác 82,5
Tansatit
(13)
2008 30 xác 76,9
Nghiên cứu này 2010 20 xác 82,5
Nhận xét: Tuy các cỡ mẫu có khác nhau nhưng
các kết quả đưa ra đều cho thấy sự vượt trội của loại
mạch xuyên cơ ra da, trừ hai kết quả đầu tiên của
Song và Koshima.
Một số kích thước mạch xuyên cơ từ động
mạch mũ đùi ngoài
Đường kính trung bình của các mạch trong
nghiên cứu này là 1,0 ± 0,5 mm. Loại mạch có
đường kính lớn hơn 0,5 mm chiếm đa số,
khoảng 78,5%. So với 160 mạch xuyên của 38
vùng đùi trong khảo sát của SW.Choi(1) trên
người Hàn Quốc ,đường kính trung bình của
mạch xuyên là 0,9 mm, tỉ lệ mạch xuyên lớn hơn
0,5 mm đường kính chiếm 68,1%, thì kết quả của
nghiên cứu trên người Việt Nam có hơi lớn hơn
kết quả của tác giả này. Kết quả của chúng tôi
cũng lớn hơn kết quả của tác giả P.Yu(16) nghiên
cứu trên người phương Tây với 72 vạt đùi trước
ngoài, với hệ thống mạch xuyên ABC của ông
thì có 64,3% trường hợp có đường kính mạch
lớn hơn 0,5 mm, và chú ý rằng những mạch
xuyên ở xa (mạch xuyên C) thì đa số là đường
kính nhỏ hơn 0,5 mm (72% tổng số mạch xuyên
C).
Chiều dài mạch xuyên trung bình là 27,6 ±
14,8, trong đó mạch xuyên có chiều dài ngắn
nhất là 5mm và dài nhất là 105mm, các mạch
loại này rất thuận lợi cho những khuyết hổng
cần có một cuống mạch dài và một vùng cấp
máu rộng lớn để che phủ. Tác giả S.W.Choi(1) thì
đo đạc từ vị trí xuất phát của nhánh xuống đến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội nghị Khoa Học Kỹ Thuật Trường Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch 2012 177
tận vị trí mạch xuyên ra da, chiều dài trung bình
của đoạn này là 83,3 mm, dài hơn so với nghiên
cứu của chúng tôi.
Phân bố vị trí mạch xuyên cơ trên bề mặt
da
Khi đối chiếu vị trí mạch xuyên loại M trên
bề mặt da, chúng tôi ghi nhận 77,4% mạch
xuyên loại M chạy hướng ra trước hoặc hướng
xuống dưới về phía xương bánh chè, 75% chạy
chếch với bề mặt da một góc dưới 720 (xét theo
trục dọc đùi) và 54,7% mạch xuyên loại M tập
trung ở phía ngoài đường chuẩn đùi (xét theo
trục ngang).
Trong nghiên cứu của Tansatit(13) thì tác giả
nhận thấy rằng các mạch xuyên tập trung ở 1/3
giữa đùi. Chúng tôi cũng thử chia đường chuẩn
trong nghiên cứu ra thành 3 khoảng đều nhau
và nhận thấy rằng các mạch xuyên loại M tập
trung rất cao ở khoảng1/3 và 2/3 đầu của đường
chuẩn (81,5%). Kết quả của chúng tôi tuy có hơi
khác với tác giả Tansatit, vì tỉ lệ mạch xuyên M
cao hơn ở khoảng 1/3 đầu hơn là 1/3 giữa đường
chuẩn đùi nhưng cũng có thể gọi là tương đồng
với tác giả vì mạch xuyên vẫn tập trung nhiều ở
khoảng 1/3 giữa đùi. Tuy nhiên, chiều dài của
một khoảng 1/3 đùi này là khá lớn và khó xác
định trên thực tế lâm sàng, nên chúng tôi đề
nghị một cách chia đường chuẩn đùi thành 8
khoảng bằng nhau, và ghi nhận các mạch xuyên
loại M tập trung chủ yếu ở khoảng (2/8 – 3/8) và
(5/8 – 6/8) với tỉ lệ lần lượt là 42% và 34,1%. Đây
là những kết quả có tính ứng dụng quan trọng
trong việc tìm kiếm các mạch xuyên loại M
trong thao tác với vạt đùi trước ngoài.
KẾT LUẬN & ĐỀ XUẤT
Mạch xuyên loại M chiếm tỉ lệ cao (84,0%
tổng số mạch xuyên ra da), đường kính nguyên
uỷ > 0,5mm (78,5%), chiều dài trung bình 27,6 ±
14,8 mm. Có hướng đi ra trước hoặc hướng
xuống dưới về phía xương bánh chè, chếch với
bề mặt da một góc < 720, tập trung cao ở khoảng
(2/8 – 3/8) và (5/8 – 6/8) theo trục dọc đùi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Choi DSW, Park JY, Hur MS, Park HD, Kang HJ, Hu KS, Kim
HJ, (2007) Anatomic Studies: An Anatomic Assessment on
Perforators of the Lateral Circumflex Femoral Artery for
Anterolateral Thigh Flap:866-71.
2. Demirkan FH, Wei FC, Chen HH, Jung SG, Hau SP and Liao CT
(2000) The versatile anterolateral thigh flap: a musculocutaneous flap
in disguise in head and neck reconstruction. British Journal of Plastic
Surgery;53:30-6.
3. Gang ZQ-XZ, Chen GY. (2004) The earlier clinic experience of the
reverse-flow anterolateral thigh island flap. British Journal of Plastic
Surgery;58:160–4.
4. Kimata Y, K Uchiyama, Ebihara S, Sakuraba M, Iida H,
Nakatsuka T, and Harii K. (1997) Anterolateral Thigh Flap
Donor-Site Complications and Morbidity. Plastic and
Reconstructive Surgery.;106:584-90.
5. Koshima I, Tsutsui T, Takahashi Y, (2002) New Anterolateral
Thigh Perforator Flap With a Short Pedicle for Reconstruction of
Defects in the Upper Extremities. Ann Plast Surg;51:30-6.
6. Luo S, Raffoul W, Piaget F., and Egloff DV., (1999) Anterolateral
Thigh Fasciocutaneous Flap in the Difficult Perineogenital
Reconstruction. Plastic and Reconstructive Surgery; 105:171-3.
7. Makitie AA, Neligan CP, Lipa J. (2002) Head and Neck
reconstruction with anterolateral thigh flap. Otolaryngology -
Head and Neck Surgery;129(5):547-55.
8. Malhotra K; Chakradeo V, (2008) Vascular Anatomy of
Anterolateral Thigh Flap. Laryngoscope;118:589-92.
9. Nguyễn Quang Quyền (2004). Bài giảng Giải phẫu học. Đại học
Y dược - Tp.HCM.
10. Pan SC, Yu JC, Shieh SJ, Lee JW, Huang BM, and HY Chiu,
(2003) Distally Based Anterolateral Thigh Flap: An Anatomic
and Clinical Study. Plastic and Reconstructive Surgery;114(7):1768-
75.
11. Phạm Đăng Diệu (2001). Giải phẫu chi trên - chi dưới. NXB Y
học.
12. Song YG. (1984) The free thigh flap: a new free flap: Concept
based on the septocutaneous artery. Br J Plast Surg; 37:149.
13. Tanvaa TM, Samang WM, Pasinee SM. (2008) The Anatomy of
the Lateral Circumflex Femoral Artery in Anterolateral Thigh
Flap. J Med Assoc Thai;91(9):1404-8.
14. Valdatta L, Buoro M, Thione A, Faga A, Putz R, (2001) Lateral
Circumflex Femoral Arterial System and Perforators of the
Anterolateral Thigh Flap: An Anatomic Study. Annals of Plastic
Surgery;49(2):145-50.
15. Wei FC, Jain V, Celik N, Chen HC, Chuang DCC, and Lin CH
(2001) Have We Found an Ideal Soft-Tissue Flap? An Experience
with 672 Anterolateral Thigh Flaps. Plastic and Reconstructive
Surgery; 109(7): 2227-31.
16. Yu P, Robb GL, (2004) Pharyngoesophageal Reconstruction with
the Anterolateral Thigh Flap: A Clinical and Functional
Outcomes Study. Plastic and Reconstructive Surgery;116(7):1845-
55.