Đặc điểm lâm sàng giấc ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng

Rối loạn sự thích ứng chiếm 0,9-1,4% dân số và là rối loạn thường gặp thứ 3 chiếm 11 - 18% trong các rối loạn tâm thần. Rối loạn giấc ngủ là một trong những triệu chứng quan trọng và thường gặp trong các rối loạn sự thích ứng. Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh ở 40 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng theo tiêu chuẩn chẩn đoán ICD - 10 (F43) điều trị nội trú tại Viện sức khỏe Tâm thần Bạch Mai, trong thời gian từ tháng 09/2017 đến tháng 06/2018 nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng. Bằng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn cho nghiên cứu, đồng thời sử dụng thang điểm đánh giá giấc ngủ PSQI, chúng tôi đánh giá các triệu chứng và mức độ nặng rối loạn giấc ngủ. Kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 25, sử dụng thuật toán mô tả (giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ). Kết quả có 82,5% bệnh nhân rối loạn sự thích ứng có rối loạn giấc ngủ, chủ yếu là mất ngủ 100%, mất ngủ kèm theo ác mộng 40%, mất ngủ kèm theo giật mình khi ngủ 75%, thời gian mất ngủ xuất hiện sau sang chấn trung bình 2 tuần, thời gian ngủ trung bình mỗi đêm là 3 tiếng. Tỷ lệ mất ngủ ở nữ là 85% và ở nam là 77%. Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm nữ giới cao hơn nam giới với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

pdf6 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặc điểm lâm sàng giấc ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96 TCNCYH 115 (6) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG GIẤC NGỦ Ở BỆNH NHÂN RỐI LOẠN SỰ THÍCH ỨNG Đinh Thị Huyền1, Nguyễn Văn Tuấn2, Nguyễn Thành Long3, Nguyễn Doãn Phương4 1,2,3Trường Đại học Y Hà Nội; 4Bệnh viện Bạch Mai Rối loạn sự thích ứng chiếm 0,9-1,4% dân số và là rối loạn thường gặp thứ 3 chiếm 11 - 18% trong các rối loạn tâm thần. Rối loạn giấc ngủ là một trong những triệu chứng quan trọng và thường gặp trong các rối loạn sự thích ứng. Nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh ở 40 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng theo tiêu chuẩn chẩn đoán ICD - 10 (F43) điều trị nội trú tại Viện sức khỏe Tâm thần Bạch Mai, trong thời gian từ tháng 09/2017 đến tháng 06/2018 nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn giấc ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng. Bằng bộ câu hỏi đã được thiết kế sẵn cho nghiên cứu, đồng thời sử dụng thang điểm đánh giá giấc ngủ PSQI, chúng tôi đánh giá các triệu chứng và mức độ nặng rối loạn giấc ngủ. Kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 25, sử dụng thuật toán mô tả (giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ). Kết quả có 82,5% bệnh nhân rối loạn sự thích ứng có rối loạn giấc ngủ, chủ yếu là mất ngủ 100%, mất ngủ kèm theo ác mộng 40%, mất ngủ kèm theo giật mình khi ngủ 75%, thời gian mất ngủ xuất hiện sau sang chấn trung bình 2 tuần, thời gian ngủ trung bình mỗi đêm là 3 tiếng. Tỷ lệ mất ngủ ở nữ là 85% và ở nam là 77%. Tỉ lệ rối loạn giấc ngủ ở nhóm nữ giới cao hơn nam giới với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Từ khoá: Rối loạn sự thích ứng,rối loạn giấc ngủ Địa chỉ liên hệ: Đinh Thị Huyền, Trường Đại học Y Hà Nội Email: dinhnguyenkhanhhuyen10ab@gmail.com Ngày nhận: 05/9/2018 Ngày được chấp thuận: 19/10/2018 I. ĐẶT VẤN ĐỀ Rối loạn sự thích ứng là hội chứng cảm xúc và hành vi xuất hiện khi cá thể đáp ứng lại với những sự kiện gây sang chấn trong cuộc sống. Rối loạn sự thích ứng chiếm 0,9 - 1,4% dân số và là rối loạn thường gặp thứ 3 chiếm 11 - 18% trong các rối loạn tâm thần [1 - 3]. Rối loạn giấc ngủ được xem là một triệu chứng cơ thể trong phản ứng căng thẳng, là biểu hiện gặp trong 43 - 48% các rối loạn sự thích ứng, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng 78% bệnh nhân mất ngủ báo cáo có liên quan đến căng thẳng [4; 5]. Mất ngủ là nhân tố quan trọng trong vòng xoắn bệnh lý của các rối loạn tâm sinh [6], là triệu chứng than phiền phổ biến gây ảnh hưởng về thể chất và tinh thần và làm nặng thêm tình trạng bệnh tâm thần. Rối loạn giấc ngủ là một trong những triệu chứng phổ biến và quan trọng trong các rối loạn sự thích ứng song ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu, nên chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Đặc điểm lâm sàng giấc ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng” nhằm làm rõ vấn đề này. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 1. Đối tượng 40 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng theo tiêu chuẩn của bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (ICD - 10) mục F43 bao gồm các chẩn đoán F43.20; F43.21; F43.22; F43.23; F43.24; F43.25; F43.28 và có biểu hiện rối loạn giấc ngủ được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân không đồng ý TCNCYH 115 (6) - 2018 97 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tham gia, không tuân thủ yêu cầu của nghiên cứu sẽ được loại bỏ, đồng thời nghiên cứu không đưa vào các bệnh nhân bị mắc các bệnh lý nội ngoại khoa cấp và mạn tính nặng, các bệnh nhân có hạn chế về mặt đọc hiểu ảnh hưởng tới quá trình giao tiếp. 2. Phương pháp Phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu mô tả chùm ca bệnh. Thời gian nghiên cứu từ tháng 9/2017 đến tháng 6/2018. Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Sức khỏe Tâm thần - Bệnh viện Bạch Mai. Các đối tượng được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng có biểu hiện rối loạn giấc ngủ bởi các bác sĩ bệnh phòng sẽ được nghiên cứu viên đánh giá lại chẩn đoán bệnh cũng theo tiêu chuẩn ICD - 10. Sau khi đánh giá lại, các bệnh nhân có chẩn đoán không phù hợp hoặc nghi ngờ chẩn đoán sẽ bị loại bỏ, các đối tượng còn lại sẽ được đưa vào nghiên cứu sau khi họ được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu, đồng thời có sự chấp thuận từ phía bệnh nhân và gia đình. Đánh giá bệnh nhân về các yếu tố nhân khẩu xã hội, đồng thời đánh giá đặc điểm giấc ngủ dựa theo bệnh án nghiên cứu và thang điểm PSQI. Xử lý số liệu: Các thông tin số liệu được nhập, quản lý và xử lý bằng phần mềm SPSS 25.0 bằng các thuật toán mô tả (tỷ lệ, trung bình, độ lệch chuẩn). 3. Đạo đức nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu phục vụ khoa học, nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị chăm sóc bệnh nhân; nghiên cứu là loại hình mô tả nên không ảnh hưởng hay can thiệp vào quá trình điều trị khách quan của bệnh nhân. Bệnh nhân được giải thích nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia nghiên cứu, được rút lui khỏi nghiên cứu mà không có sự cản trở hay các ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình điều trị, đồng thời được sự chấp thuận từ phía gia đình. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm chung của nhóm đối tượng Đặcđiểm n % Giới Nam 13 32,5 Nữ 27 67,5 Tuổi Tuổi trung bình 38,77 ± 14,37 Thể rối loạn sự thích ứng F43.20 7 17,5 F43.21 12 30,0 F43.22 21 52,5 Tỷ lệ nữ/nam mắc rối loạn sự thích ứng có biểu hiện rối loạn giấc ngủ khoảng 2/1. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 38,77 ± 14,37. Tỉ lệ bệnh nhân rối loạn sự thích ứng với phản ứng hỗn hợp lo âu và trầm cảm chiếm chủ yếu 52,5%. 98 TCNCYH 115 (6) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 2. Đặc điểm lâm sàng giấc ngủ Bảng 2. Đặc điểm lâm sàng giấc ngủ Đặc điểm n % Giấc ngủ Mất ngủ 33 82,5 Không rối loạn giấc ngủ 7 17,5 Rối loạn giấc ngủ khác 0 0 Mơ khi ngủ Ác mộng 16 40 Không ác mộng 9 22,5 Giật mình khi ngủ 30 75 Lo sợ mất ngủ 28 70 Buồn ngủ ban ngày 12 30 Thời gian trung bình vào giấc ngủ 79,9 phút Thời gian trung bình ngủ mỗi đêm 3,26 giờ Thời gian trung bình xuất hiện rối loạn giấc ngủ sau sang chấn 2,2 tuần Thời gian rối loạn giấc ngủ trung bình trước khi vào viện 7,4 tuần Điểm trung bình PSQI 12,97 Có 82,5% bệnh nhân rối loạn thích ứng có rối loạn giấc ngủ, trong đó 100% bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ đều là rối loạn mất ngủ. Có 40% bệnh nhân bị ác mộng khi ngủ và 75% bị giật mình khi ngủ, 30% bệnh nhân có buồn ngủ ban ngày. Thời gian vào giấc ngủ trung bình là 80 phút và thời gian ngủ mỗi đêm trung bình là 3,26 giờ. Thời gian xuất hiện rối loạn giấc ngủ trung bình sau sang chấn là 2,2 tuần, thời gian xuất hiện rối loạn giấc ngủ trung bình trước khi vào viện là 7,4 tuần. Điểm PSQI trung bình là 12,97 ± 5,59. 3. Đặc điểm rối loạn giấc ngủ theo giới và theo thể bệnh Bảng 3. Đặc điểm rối loạn giấc ngủ theo giới và theo thể bệnh Đặc điểm Giới Thể bệnh Nam Nữ F43.20 F43.21 F43.22 n % n % n % n % n % Mất ngủ 10 77 23 85 6 86 11 92 16 76 Ác mộng khi ngủ 3 23 13 48 2 29 7 58 7 33 Giật mình khi ngủ 9 69 21 78 6 86 8 67 16 76 Thời gian trung bình vào giấc ngủ (phút) 61,25 88,68 90,0 77,19 78,46 Thời gian trung bình ngủ mỗi đêm (giờ) 4,38 2,74 4,0 3,13 3,12 Điểm PSQI trung bình 10,60 14 11,33 12,45 13,94 TCNCYH 115 (6) - 2018 99 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Tỷ lệ mất ngủ ở nữ là 85% và ở nam là 77%. Thời gian vào giấc ngủ trung bình ở nam là 61,25 phút, ở nữ là 88,68 phút. Điểm PSQI trung bình của nữ giới thấp hơn nam giới có ý nghĩa thống kê (10,6 và 14). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ mất ngủ, thời gian vào giấc ngủ và thời gian trung bình giấc ngủ giữa các thể bệnh. IV. BÀN LUẬN Tổng số bệnh nhân nghiên cứu là 40 bệnh nhân. Tỷ lệ nữ gặp nhiều hơn nam (67,5% và 32,5%), tuổi trung bình của bệnh nhân là 38,77± 14.37, kết quả này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Yến năm 2013 [7]. Các nguyên nhân có thể được đưa ra như sự ảnh hưởng của nhân cách, chịu đựng nhiều stress, sự ảnh hưởng của chu kỳ kinh nguyệt khiến cho tỉ lệ nữ giới mắc cao hơn nam giới. Tỷ lệ các thể rối loạn sự thích ứng, nhiều nhất là thể F43.22 với 52,5%, thể F43.21 là 30%, F43.20 là 17,5%. Kết quả này của chúng tôi phù hợp với một số nghiên cứu trên thế giới về tỷ lệ rối loạn sự thích ứng thể F43.22 gặp nhiều nhất với 54,8% [8]. Tỷ lệ mất ngủ ở bệnh nhân rối loạn sự thích ứng của nghiên cứu là 82,5%. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Yến [7]. Điều này có thể giải thích là vì nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có khác về tỷ lệ giữa các nhóm tuổi và số lượng sang chấn trên mỗi cá thể. Trong số những bệnh nhân rối loạn giấc ngủ thì 100% bệnh nhân là mất ngủ, không có ngủ nhiều hoặc các rối loạn giấc ngủ khác. Có 40% bệnh nhân bị ác mộng khi ngủ, kết quả này tương tự nghiên cứu của E. Shevyhealey và cộng sự với 45% bệnh nhân bị ác mộng khi ngủ [9]. Thời gian vào giấc ngủ trung bình là 80 phút, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của E. Shevyhealey và cộng sự năm 1981 [9] với thời gian vào giấc ngủ trung bình ở những bệnh nhân mất ngủ thích ứng là 68 phút. Thời gian ngủ mỗi đêm trung bình là 3,26 giờ, điểm PSQI trung bình là 12,97 ± 5,59. Kết quả này so với nghiên cứu của Mariam Kashani và cộng sự[10] là thấp hơn về thời gian ngủ đồng nghĩa với cao hơn về điểm PSQI, điều này có thể giải thích là vì mẫu nghiên cứu của chúng tôi là các bệnh nhân mức độ của bệnh nặng cần phải điều trị nội trú. Về đặc điểm liên quan với giới tính, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ rối loạn giấc ngủ, thời gian vào giấc ngủ ở nam giới là thấp hơn nữ với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu trong nước và trên thế giới [11]. V. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu rối loạn giấc ngủ trên 40 bệnh nhân được chẩn đoán rối loạn sự thích ứng điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần Bạch Mai từ tháng 9/2017 đến tháng 6/2018, rối loạn giấc ngủ trong nhóm bệnh nhân rối loạn sự thích ứng chiếm tỷ lệ 82,5%, rối loạn giấc ngủ biểu hiện mất ngủ là chủ yếu kèm theo đa dạng các biểu hiện khác như ác mộng, giật mình khi ngủ, buồn ngủ ban ngày. Tỷ lệ rối loạn giấc ngủ, thời gian trung bình vào giấc ngủ ở nhóm nữ giới cao hơn so với nhóm nam giới có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Maercker A, Forstmeier S, Pielmaier L et al (2012). Adjustment disorders: prevalence 100 TCNCYH 115 (6) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC in a representative nationwide survey in Ger- many. Social Psychiatry and Psychiatric Epi- demiology, 47, 1745 - 1452 2. Casey PR, Dillon S, Tyrer PJ (1984). The diagnostic status of patients with con- spicuous psychiatric morbidity in primary care. Psychol Med, 14, 673 - 681. 3. Bruffaerts R, Sabbe M, Demyttenaere K (2004). Attenders of a university hospital psychiatric emergency service in Belgium- general characteristics and gender differ- ences. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol, 39, 146 - 153. 4. Charles J, Rudolf H (1981). Social Sup- port and Psychological Distress:A Longitudinal Analysis. Journal of Abnormal Psychology, 90 (4), 365 - 370. 5. Presicci A, Lecce P, Ventura P, Mar- gari F (2010). Depressive and adjustment dis- orders - some questions about the differential diagnosis: case studies. Neuropsychiatr Dis Treat, 7, 73 - 81. 6. Altman NG, Izci-Balserak B, Schopfer E et al (2012). Sleep duration versus sleep insufficiency as predictors of cardiometabolic health outcomes. Sleep Med, 13(10), 1261 - 1270. 7. Nguyễn Hoàng Yến, Nguyễn Văn Tuấn (2016). Đặc điểm lâm sàng rối loạn sự thích ứng với phản ứng lo âu trầm cảm. Y học lâm sàng, 95(8), 10 - 17. 8. Foster P, Oxman T (1994). A descrip- tive study of adjustment disorder diagnoses in general hospital patients. Irish Journal of Psy- chological Medicine, 11 (4), 153 - 157. 9. Shevy E, Anthony K, Lawrence J et al (1981). Onset of Insomnia: Role of Life-Stress Events. Psychosomatic Medicine, 43(5), 439 - 45. 10. Kashani M, Eliasson A, Vernalis M (2012). Perceived stress correlates with dis- turbed sleep: a link connecting stress and car- diovascular disease. Stress, 15(1), 45 - 51. 11. Angst J, Vollrath M, Koch R et al (1989). The Zurich Study. VII. Insomnia: symptoms, classification and prevalence. European archives of psychiatry and neuro- logical sciences, 238(5-6), 285 - 293. Summary CLINICAL CHARACTERISTICS OF SLEEP PATTERN OF PATIENTS WITH ADJUSTMENT DISORDERS Adjustment disorders are present in 0.9 - 1.4% of the population and are the third most common disorder, accounting for 11 - 18% of mental disorders. Sleep disorder is one of the most important and common symptom of adjustment disorders. A case series report study was conducted on 40 patients diagnosed with adjustment disorders according to ICD - 10 diagnostic criteria (F43) in the period from 09/2017 to 06/2018 at National Institute of Mental Health to describe the clinical characteristics of sleep disorder in patients with adjustment disorders. By using the designed questionaires and Pittburgh Sleep Quality Index (PSQI), we assessed the symptoms and the degree of severity of sleep disturbance. The data was stored and analyzed by the analytic software SPSS 25.0. The descriptive algorithms were used (Mean, standard deviation, and proportion). 82.5% of patients with adjustment disorders had sleep disturbances. Sleep disturbances mainly comprised of complete insomnia, with 40% having nightmares, and TCNCYH 115 (6) - 2018 101 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 75% insomnia with hypnic jerks and daytime sleepiness. The average duration of insomnia following psychological trauma is 2 weeks, with an average sleep time of 3 hours per night. The prevalence of insomnia is 85% in women and 77% in men. The major symptom of sleep disturbance in patients with adjustment disorders is insomnia. The prevalence of sleep disturbances is higher in women than men with statistically significant differences. Keywords: Adjustment disorder, sleep disorder