Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi Thanh Hoá

Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ. Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ có con bị sốt điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 110 bà mẹ có con bị sốt mới nhập khoa hô hấp điều trị từ ngày 10/06/2013 đến ngày 20/07/2013 bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. Kết quả: Trong số 110 bà mẹ có 33,6% bà mẹ có kiến thức đúng, 23,6% bà mẹ có hành vi đúng, 68,1% bà mẹ lo lắng, lúng túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần I, các bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao (77,3%), hành vi đúng 80,9%, số bà mẹ lo lắng, lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ lần II tỉ lệ bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên rất cao 94,5%, hành vi đúng 93,6%, số bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%. Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ sốt trong bệnh viện cũng như trong cộng đồng là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Hiệu quả của chương trình đó là nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ.

pdf7 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả chương trình giáo dục sức khoẻ cho bà mẹ có con bị sốt tại khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi Thanh Hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 53 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC SỨC KHOẺ   CHO BÀ MẸ CÓ CON BỊ SỐT TẠI KHOA HÔ HẤP   BỆNH VIỆN NHI THANH HOÁ  Trương Thị Thuỳ Dung*  TÓM TẮT  Mục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ. Đánh giá hiệu quả chương  trình giáo dục sức khoẻ nhằm nâng cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ có  con bị sốt điều trị tại khoa Hô Hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá.  Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phỏng vấn 110 bà mẹ có con bị sốt mới nhập khoa  hô hấp điều trị từ ngày 10/06/2013 đến ngày 20/07/2013 bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn.  Kết quả: Trong số 110 bà mẹ có 33,6% bà mẹ có kiến thức đúng, 23,6% bà mẹ có hành vi đúng, 68,1% bà  mẹ lo lắng, lúng túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần I, các bà mẹ có kiến thức đúng tăng lên với tỉ lệ cao  (77,3%), hành vi đúng 80,9%, số bà mẹ lo lắng, lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ lần II tỉ lệ bà  mẹ có kiến thức đúng tăng lên rất cao 94,5%, hành vi đúng 93,6%, số bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%.  Kết luận: Chương trình giáo dục sức khoẻ nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng chăm sóc trẻ sốt trong bệnh  viện cũng như trong cộng đồng là một việc làm rất cần thiết và hữu ích. Hiệu quả của chương trình đó là nâng  cao kiến thức, thái độ, thay đổi một cách tích cực hành vi của các bà mẹ.  Từ khóa: Giáo dục sức khoẻ, sốt.  ABSTRACT  EVALUATING THE EFFECTIVENESS OF EDUCATION PROGRAME   FOR MOTHERS WHO HAVE FEVER’S CHILDREN   IN RESPIRATORY DEPARTMENT, THANH HOA PEADIATRIC HOSPITAL   Truong Thi Thuy Dung* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 53 ‐ 59  Objectives: To survey knowledge, behavior and attitude of mothers who take care children, to evaluate the  effectiveness of education program, to develop the knowledge, behavior of mothers.   Methods: Cross  –  descriptive  study;  interview with  questionnaire  for  110 mothers who  have  childrens  admitted in respiratory department from 10/6/2013 – 20/7/2013.  Results: This study revealed that before education program, 33.6% mothers have right knowledge, 23.6%  mothers have right behavior, and 68.1% mothers often feel anxiety, confuse and worry when the children have  fever. After the first program, mothers who have right knowledge have growth up to 73.3%, right behavior up to  80.9%, only 2.7% mothers claimed  that  they  still  feel anxiety. After  the  second program, mothers have  right  knowledge and right behavior have growth up to 94.5% and 93.5% respectively. Only 0.9% mother felt worry  and anxiety.  Conclusion: Education program to providing knowledge, behavior, skill to mother in order to taking care  patients  in  the hospitals and  in  the community are necessary and benefit. The effectiveness of  this program  is  improving the knowledge, behavior for mother to take care their children.   Key words: Knowledge, behavior, attitude, fever.  * Bệnh viện Nhi Thanh Hóa.  Tác giả liên lạc: CNĐD Trương Thị Thùy Dung, ĐT: 0974280246, Email: xuan0271984@yahoo.com   Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  54 ĐẶT VẤN ĐỀ  Sốt  là  triệu chứng  thường gặp nhất của  trẻ  em, hầu hết sốt là hậu quả của nhiễm khuẩn (vi  khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm). Trẻ sốt > 39°C  tỉ  lệ co giật  là 42,2%,  trong đó có 10% số ca co  giật kết thúc để lại di chứng.   Do  lạm  dụng  thuốc  hạ  sốt  nên  tình  trạng  ngộ độc paracetamol có xu hướng gia tăng. Tỉ lệ  tử vong do ngộ độc Paracetamol đứng hàng thứ  2 trong các trường hợp ngộ độc thuốc.  Là người trực tiếp chăm sóc trẻ, vì vậy việc  nâng cao nhận thức, thái độ hành vi của các bà  mẹ  trong  việc  chăm  sóc  trẻ  sốt  có  ý  nghĩa  vô  cùng to lớn. Nó làm giảm biến chứng, rút ngắn  thời gian điều trị, giảm chi phí điều trị, giảm mệt  mỏi,  căng  thẳng  cho người bệnh và  thân nhân  người  bệnh,  làm  giảm  tỉ  lệ  tử  vong  do  dùng  thuốc chưa đúng. Mặt khác lợi ích của giáo dục  sức khỏe (GDSK) đối với nhân viên y  tế  là  làm  giảm cường độ làm việc, tăng thêm sự hài lòng  của người bệnh. Đồng  thời góp phần nâng cao  nhận thức của cộng đồng nói chung về chăm sóc  sức khoẻ  trẻ em. Như vậy vai  trò của giáo dục  sức khoẻ cho các bà mẹ là rất to lớn. Tuy nhiên  chưa  có một nghiên  cứu nào về vấn  đề này  ở  Thanh Hoá.  Do đó chúng  tôi  tiến hành nghiên cứu này  trên các bà mẹ có con < 5 tuổi bị sốt điều trị tại  khoa hô hấp bệnh viện Nhi Thanh Hoá.  Mục tiêu nghiên cứu   Mô  tả một  số  yếu  tố  liên  quan  đến  nhận  thức,  thái  độ, hành vi  của  các bà mẹ  có  con bị  sốt.   Đánh giá những thay đổi về kiến thức,  thái  độ, thực hành của các bà mẹ có con bị sốt sau khi  được GDSK về chăm sóc trẻ sốt.  TỔNG QUAN  Sốt  khi  thân  nhiệt  đo  ở  hậu môn  ≥  37,8°C  tương đương nhiệt độ ở miệng là ≥ 37,5°C, cặp ở  nách là ≥ 37,2°C.  Dụng cụ đo thân nhiệt trong nghiên cứu này  là nhiệt kế thuỷ ngân. Vị trí đo thân nhiệt là ở hố  nách.  Hành vi đúng của các bà mẹ về chăm sóc trẻ  sốt  bao  gồm: Chườm  ấm  cho  trẻ, mặc  thoáng  quần áo, cho  trẻ uống  thêm nước và  điện giải.  Sử dụng  thuốc hạ sốt đúng cách. Xử  trí co giật  do sốt cao.  Kỹ thuật chườm ấm: cho trẻ nằm ngửa trên  giường,  pha  và  kiểm  tra  nước  ấm  (t0  khoảng  37°C). Nhúng 5 khăn vào thau nước ấm, vắt hơi  ráo.  Đặt  2 khăn  ở hõm nách,  2 khăn  ở bẹn và  một khăn lau khắp người. Thay khăn mỗi 2 – 3  phút.  Thực  hành  sử  dụng  thuốc  hạ  sốt:  cho  trẻ  uống thuốc hạ sốt khi nhiệt độ ≥ 38,5°C, liều 10 –  15 mg/kg cân nặng, khoảng cách thời gian giữa  các lần dùng thuốc là 4 – 6 giờ.   Xử trí co giật do sốt cao: Khi trẻ co giật, đặt  trẻ ở tư thế nằm ngửa đầu nghiêng một bên, nới  rông quần áo, không giữ  tay hay chân  trẻ. Đặt  một vật mềm chèn giữa hai hàm răng (với trẻ có  răng). Hút đờm rãi nếu tăng tiết. theo dõi tím tái.  Đưa trẻ đến cơ sở y tế.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  110 bà mẹ  có  con < 5  tuổi bị  sốt mới nhập  viện  điều  trị  tại  khoa  hô  hấp  Bệnh  viện  Nhi  Thanh  Hoá  thời  gian  từ  10/06/2013  đến  20/07/2013.  Phương pháp nghiên cứu  Phương pháp mô tả cắt ngang.  Lập bảng phỏng vấn các bà mẹ bằng bộ câu  hỏi thiết kế sẵn.  GDSK về chăm sóc  trẻ sốt cho các bà mẹ 2  lần/tuần.   Phỏng vấn lần 1: lần 2: lần 3 tương ứng với  trước GDSK: Sau GDSK  lần 1: sau GDSK  lần 2.  Có bổ sung câu hỏi về  lợi  ích của chương trình  GDSK  đối với bà mẹ, kiến nghị  của bà mẹ về  chương trình GDSK trong GDSK lần 2.  Xử lý số liệu   Sử  dụng  phương  pháp  thống  kê  thông  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 55 thường.   Xử lý số liệu bằng các phần mềm Excell.  KẾT QUẢ  Các yếu tố liên quan đến nhận thức, hành  vi, thái độ của các bà mẹ  Bảng 1. Phân bố theo độ tuổi.  Tuổi N % 18 – 35 tuổi Kiến thức đúng 25 30,9 n = 81 Hành vi đúng 16 19,8 > 35 tuổi Kiến thức đúng 12 41,4 n = 29 Hành vi đúng 10 34,5 * Nhận xét: Nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh  đẻ 18 – 35 tuổi chiếm tỉ lệ cao 73,6%. Xong tỉ lệ  bà mẹ trong độ tuổi này có hành vi đúng chiếm  tỉ lệ thấp 19,8%, kiến thức đúng chỉ chiếm 30,9%.  Như vậy bà mẹ tuổi càng cao kỹ năng chăm sóc  con đúng càng cao.  Bảng 2. Trình độ văn hoá.  Trình độ văn hoá N % Từ cấp II trở xuống n = 64 Kiến thức đúng 20 31,3 Hành vi đúng 13 20,3 Cấp III trở lên n = 46 Kiến thức đúng 17 37,0 Hành vi đúng 13 26,1  * Nhận  xét: Qua  kết  quả  nghiên  cứu  cho  thấy sự khác biệt có ý nghĩa giữa  trình độ học  vấn với kiến thức đúng và hành vi đúng của bà  mẹ.  Bảng 3. Đặc điểm về nghề nghiệp.  Nghề nghiệp N % Tự do và nông nghiệp N = 49 Kiến thức đúng 9 37,5 Hành vi đúng 6 24,7 Công nhân N = 22 Kiến thức đúng 10 45,5 Hành vi đúng 7 31,8 Công chức, viên chức N = 39 Kiến thức đúng 18 46,1 Hành vi đúng 13 33,3  * Nhận xét: Nhóm bà mẹ  làm nông nghiệp  và nghề tự do chiếm số lượng lớn nhưng lại có  hành vi đúng và kiến thức đúng thấp hơn nhóm  bà mẹ là công chức, viên chức.  52.7 23.6 57.2 31.8 6.3 12.7 0 10 20 30 40 50 60 Ti vi Internet Không có TT Nguồn TT Biểu đồ 1. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà  các bà mẹ đã tiếp cận.  * Nhận xét: Kết quả biểu đồ 1 cho thấy bà mẹ  tiếp cận nguồn thông tin từ tivi,  internet  là chủ  yếu.  3.6 0.9 4.5 91 00 20 40 60 80 100 Tivi Bâo Internet NVYT Khác Nguồn TT Biểu đồ 2. Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà  các bà mẹ mong muốn được tiếp cận nhất.    * Nhận  xét:  91% bà mẹ mong muốn  được  tiếp cận nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt từ  chương trình GDSK do nhân viên y tế trực tiếp  thực hiện.  Đánh giá kiến thức chăm sóc trẻ sốt của các  bà mẹ trước và sau khi GDSK.  Bảng 4. Kiến thức về định nghĩa sốt.  Định nghĩa sốt Trước GDSK Sau GDSK lần 1 Sau GDSK lần 2 n % n % n % Sờ bằng tay thấy nóng 14 12,7 5 4,6 0 0 Đo nhiệt độ ở nách ≥ 37,2°C 37 33,6 98 89,1 104 94,5 Đo nhiệt độ ở nách ≥ 38,5°C 48 43,7 7 6,3 6 5,5 Không biết – ý kiến khác 11 10,1 0 0 0 0 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  56  * Nhận  xét: Trước GDSK  đa  số  các bà mẹ  hiểu sai về định nghĩa sốt  (66,4%), có 12,7% bà  mẹ chỉ sờ bằng tay thấy ấm đã nhận định con bị  sốt. Sau GDSK không có bà mẹ nào không kẹp  nhiệt độ mà nhận định con bị sốt, 94,5% bà mẹ  hiểu đúng định nghĩa sốt.   Trước GDSK chỉ có 20% bà mẹ nghĩ rằng sốt  có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm. phần lớn  bà mẹ cho  rằng  sốt do  trẻ mọc  răng hoặc  thay  đổi thời tiết. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu đúng  nguyên nhân gây sốt.  Bảng 5.Nguyên nhân gây sốt.  Nguyên nhân gây sốt Trước GDSK Sau GDSK lần 1 Sau GDSK lần 2 n % n % n % Thay đổi thời tiết 62 56,4 0 0 0 0 Bệnh truyền nhiễm 22 20 110 100 110 100 Mọc răng 15 13,6 2 1,8 0 0 Không biết 24 21,8 0 0 0 0 Biểu đồ 3. Thời điểm đưa con đến cơ sở y tế khám  * Nhận xét: Trước GDSK hầu hết bà mẹ cho  rằng đưa con đến cơ sở y tế càng sớm càng tốt.  Sau GDSK 94,5% bà mẹ xác định đúng và đủ các  thời điểm đưa trẻ đến CSYT.  4.7 40.4 0 7.1 47.8 1.8 4.6 0 92.7 0.9 0 1.8 0 98.2 0 0 20 40 60 80 100 Trước gdsk Sau gdsk 1 Sau gdsk 2 sốt cao ≥ 39°C co giật Tinh thần lơ mơ-li bì cả 3 dấu hiệu trên Không biết Biểu đồ 4. Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ bị sốt.   * Nhận xét: Qua kết quả nghiên cứu ta thấy  trước GDSK có 52,2% bà mẹ nhận biết đúng dấu  hiệu nguy hiểm khi trẻ có sốt, trong số đó chỉ có  7,1% bà mẹ nhận biết đúng và đủ các dấu hiệu  10 0 01.8 0 0 15.5 12.7 0 6.3 77.3 94.5 60.6 10 5.55.8 0 0 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Trước gdsk Sau gdsk 1 Sau gdsk 2 Sốt ≥ 38,5°C Sốt nhe-vừa 3 ngày k đỡ Co giật Cả 3 ý trên Đến csyt càng sớm càng tốt K đến csyt Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 57 nguy hiểm, sau GDSK lần 2 tỉ lệ này đã tăng lên  gần như tuyệt đối (98,2%).  Đánh giá  thực hành  chăm  sóc  trẻ  sốt  của  các bà mẹ trước và sau khi GDSK.  Trước GDSK  6,3% bà mẹ  cho  rằng không  cần xử trí gì khi trẻ bị sốt, 1,8% bà mẹ chườm  đá  lạnh,  2,7%  bà mẹ mặc  thêm  quần  áo  cho  con,  có  tới  82,7% bà mẹ  tự mua  thuốc hạ  sốt  mà  không  hỏi  y  kiến  bác  sĩ.  Sau GDSK  gần  như 100% bà mẹ xử trí trẻ sốt đúng cách.  Bảng 6. Hành vi xử trí trẻ sốt.  Xử trí khi trẻ bị sốt Trước GDSK Sau GDSK lần 1 Sau GDSK lần 2 n % n % n % Chườm ấm 68 61,8 110 100 110 100 Chườm đá, lạnh 2 1,8 0 0 0 0 Mặc thêm quần áo 3 2,7 0 0 0 0 Nới rộng-mặc thoáng quần áo 53 48,1 91 82,7 110 100 Bù nước điện giải 47 42,7 98 89,1 110 100 Tự mua thuốc hạ sốt 91 82,7 14 12,7 7 6,3 Đưa đến csyt càng sớm càng tốt 32 29 7 6,3 1 0,9 Không xử trí gì 7 6,3 0 0 0 0 Bảng 7. Thực hành các kỹ thụât chăm sóc trẻ sốt của các bà mẹ trên mô hình.   Thực hành đúng Trước GDSK Sau GDSK L1 Sau GDSK L2 n % n % n % Chườm ấm 38 33,8 91 82,7 103 93,6 Mặc thoáng quần áo 68 61,8 110 100 110 100 Đo nhiệt độ 81 73,6 108 98,2 110 100 Bù nước - điện giải 32 29 95 86,4 110 100 Xử trí co giật 26 23,6 93 84,5 105 95,5 Sử dụng thuốc Thời điểm dùng thuốc 28 25,4 91 82,7 104 94,5 TG giữa các lần dùng thuốc 30 27,2 101 91,8 107 97,3 Đúng hàm lượng 51 46,3 100 80,9 106 96,4 Đúng đường dùng 42 38,2 96 87,3 109 99,1  * Nhận xét: Trước GDSK bà mẹ thực hành  kỹ thuật chăm sóc trẻ sốt đúng hầu hết chiếm  tỉ lệ thấp và rất thấp, sau GDSK hành vi chăm  sóc  trẻ  sốt  đúng  tăng  lên  và  tăng  cao  sau  GDSK lần 2.  Đánh giá  thái độ của các bà mẹ có con bị  sốt trước và sau khi GDSK.  68.1 2.7 0.9 0 10 20 30 40 50 60 70 Trước GDSK Sau GDSK L1 Sau GDSK L2 Lo lắng, lúng Biểu đồ 5:.Thái độ của các bà mẹ có con bị sốt.  * Nhận xét: Tỉ lệ các bà mẹ lo lắng, lúng túng  khi con bị sốt giảm rõ rệt sau khi được GDSK.  Đánh  giá  lợi  ích  chương  trình GDSK  và  kiến nghị của bà mẹ.   Tất  cả  bà mẹ  đều  nói  rằng  chương  trình  GDSK do nhân viên y tế thực hiện rất hữu  ích,  vừa  dễ  hiểu,  ngắn  gọn  và  là  nguồn  thông  tin  đáng tin cậy. 100% bà mẹ mong muốn có tài liệu  phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần trong  một đợt điều trị.  Bảng 8. Bảng đánh giá chung về kiến thức, thái độ,  hành vi của các bà mẹ.  Mức độ Trước GDSK Sau GDSK lần 1 Sau GDSK lần 2 n % n % n % Kiến thức đúng 37 33,6 85 77,3 104 94,5 Hành vi đúng 26 23,6 100 80,9 103 93,6 Thái độ lo lắng, lúng túng 75 68,1 3 2,7 1 0,9  * Nhận xét: Sau GDSK lần 1 và lần 2 nhóm  bà mẹ có kiến  thức đúng chung, hành vi đúng  chung  tăng dần và  tăng  lên  rất  cao. Kiến  thức  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa  58 đúng  chung  là  94,5%,  hành  vi  đúng  chung  93,6%. Sau lần GDSK thứ 2 tỉ lệ bà mẹ có thái độ  lo lắng, lúng túng khi con bị sốt giảm còn 0,9%.  BÀN LUẬN  Qua  kết  quả  điều  tra  cho  thấy  các  bà mẹ  trong  độ  tuổi  sinh  đẻ  chiếm  tỉ  lệ  73,6%  là  cao  hơn nhóm bà mẹ khác nhưng tỉ lệ bà mẹ có kiến  thức đúng và hành vi đúng trong độ tuổi này lại  chiếm tỉ lệ thấp hơn (19,8%).   Đa số các bà mẹ có trình độ văn hoá từ cấp  II trở xuống (58,1%), phần đông các bà mẹ  làm  nghề  nông  do  đó  cũng  ảnh  hưởng  đến  nhận  thức  của  bà mẹ. Cho  nên  cần  có một  chương  trình GDSK phù hợp nhằm nâng cao kiến thức,  hành vi chăm sóc trẻ sốt phổ biến ở vùng nông  thôn và cho nhóm bà mẹ trong độ tuổi sinh đẻ là  việc làm rất cần thiết.    Nguồn thông tin về chăm sóc trẻ sốt mà bà  mẹ  đã  tiếp  cận  được  chủ yếu qua  tivi  (52,7%),  internet (57,2%). Thông tin tiếp cận từ nhân viên  y tế chiếm tỉ  lệ thấp 31,8%. Xong có tới 91% bà  mẹ trả lời rằng nguồn thông tin về chăm sóc trẻ  sốt mà  họ mong muốn  được  tiếp  cận  nhất  là  nguồn thông tin từ nhân viên y tế vì đó là nguồn  thông  tin đáng  tin cậy nhất, vừa ngắn gọn vừa  dễ hiểu.   Đánh giá hiệu quả của GDSK  Về kiến thức   Kiến thức về định nghĩa sốt: Trước GDSK  chỉ  có  33,6% bà mẹ hiểu  đúng về  định nghiã  sốt. Có tới 12,7% bà mẹ không kẹp nhiệt độ và  chỉ sờ bằng tay thấy nóng đã nhận định con bị  sốt. sau GDSK lần 1 có 89,1% bà mẹ hiểu đúng  định nghĩa sốt, tỉ lệ này tăng cao sau GDSK lần  2 (94,5%).   Nguyên nhân gây  sốt: Một  tỉ  lệ  lớn các bà  mẹ trả lời sốt là do trẻ mọc răng, do thay đổi thời  tiết, 21,8% bà mẹ không biết nguyên nhân. Chỉ  có 20% bà mẹ nghĩ tới nguyên nhân bệnh truyền  nhiễm. Sau GDSK 100% bà mẹ hiểu rõ hầu hết  sốt đều có nguyên nhân từ bệnh truyền nhiễm.    Việc đưa con đến cơ sở y tế: Hầu hết các bà  mẹ nói  rằng  đưa  trẻ  đến  cơ  sở  y  tế  càng  sớm  càng tốt, chỉ có 6,3% bà mẹ xác định đúng và đủ  các thời điểm đưa trẻ đến cơ sở y tế. Sau GDSK  lần  1  số  bà mẹ  xác  định  đúng  và  đủ  các  thời  điểm đưa con đến cơ  sở y  tế  tăng  (77,3%),  sau  GDSK lần 2 tỉ lệ này tăng cao 94,5%.   Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi  trẻ  sốt:  Chỉ  có 7,1 % bà mẹ nhận biết  đúng và  đủ  các  dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ sốt, tỉ lệ này tăng lên  một cách rõ rệt 92,7% sau GDSK  lần 1, đặc biệt  tăng cao sau GDSK lần 2.    Sau khi được GDSK, tỉ lệ bà mẹ có kiến thức  đúng và đầy đủ tăng lên một cách có ý nghĩa.  Về thực hành chăm sóc trẻ sốt   Tỉ  lệ  bà mẹ  chưa  biết  cách  chăm  con  như  chườm  đá,  lạnh  (1,8%),  mặc  thêm  quần  áo  (2,7%), tự mua thuốc hạ sốt khi chưa hỏi ý kiến  bác sĩ  (82,7%) giảm đi một cách có ý nghĩa sau  khi được GDSK.    Sau GDSK tỉ lệ bà mẹ thực hành chườm ấm  đúng  cách  tăng  (từ  33,8%  lên  82,7%  và  sau  GDSK  lần  2  tăng  lên  93,6%.  Sau  2  lần GDSK  100% bà mẹ đo nhiệt độ đúng cách, 100% bà mẹ  biết cách pha dung dịch điện giải và thực hành  bù  nước  điện  giải  đúng.  Thực  hành  sử  dụng  thuốc và xử  trí co giật đúng cũng  tăng cao sau  GDSK.  Về thái độ   Tỉ  lệ  bà mẹ  có  thái  độ  lo  lắng,  lúng  túng  giảm từ 68,1% xuống còn 2,7% sau GDSK lần 1  và sau GDSK lần 2 là 0,9%. Tất cả các bà mẹ đều  ghi nhận chương trình GDSK do nhân viên y tế  thực hiện rất hữu ích, vừa dễ hiểu, ngắn gọn và  là  nguồn  thông  tin  đáng  tin  cậy,  đã  cung  cấp  những thông tin cần thiết cho bà mẹ trong việc  nâng  cao  hiểu  biết  cũng  như  thực  hành  chăm  sóc trẻ sốt từ đó giúp họ bớt lo lắng, bình tĩnh xử  trí trẻ sốt tốt hơn. 100% bà mẹ mong muốn có tài  liệu phát tay và được tư vấn GDSK ít nhất 1lần  trong một đợt điều trị.  Giáo dục sức khỏe  là một công tác khó  làm  và khó đánh giá kết quả, nhưng nếu  làm tốt sẽ  mang  lại hiệu quả cao nhất với chi phí  ít nhất.  Cũng từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy giáo  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013  Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Nhi Khoa 59 dục sức khỏe là một quá trình nên cần tiến hành  thường xuyên, liên tục, lâu dài bằng nhiều biện  pháp  khác  nhau  chứ  không  phải  là một  công  việc có thể làm một lần là xong. Vì vậy, để thực  hiện công tác giáo dục sức khỏe chúng ta phải có  sự  đầu  tư  thích  đáng, hết  sức  kiên  trì  thì mới  đem lại hiệu quả cao.  KẾT LUẬN   Qua  đề  tài nghiên  cứu  cho  thấy: Trong  số  110 bà mẹ tham gia nghiên cứu chỉ có 33,6% bà  mẹ  có  kiến  thức  chung  đúng,  23,6%  bà mẹ  có  hành vi đúng chung, 68,1% bà mẹ  lo  lắng,lúng  túng khi con sốt. Sau giáo dục sức khoẻ lần 1 các  bà mẹ có kiến  thức đúng  tăng  lên với  tỉ  lệ cao  (77,3%), hành vi đúng là 80,9%, số bà mẹ lo lắng,  lúng túng giảm còn 2,7%. Sau giáo dục sức khoẻ  lần 2 tỉ  lệ bà mẹ có kiến thức chung đúng  tăng  lên rất cao 94,5%, hành vi đúng chung 93,6%, số  bà mẹ lo lắng chỉ còn 0,9%.    Sau  GDSK  có  sự  tăng  lên một  cách  có  ý  nghĩa về  tỉ  lệ  các bà mẹ  có kiến  thức  đúng và  thực hành đúng, giảm đi tỉ lệ bà mẹ lo lắng mất  bình tĩnh khi trẻ sốt đặc biệt là sau GDSK lần 2.  Có sự khác biệt có ý nghĩa giữa GDSK lần 1 và  GDSK lần 2.    Kết quả cũng cho  thấy có mỗi  liên hệ có ý  nghĩa thống kê giữa nghề nghiệp, tuổi, trình độ  học vấn, với kiến thức đúng và hành vi đúng.  KIẾN NGHỊ   Giáo dục sức khỏe chính  là quá  trình dạy  học có mối quan hệ qua  lại 2 chiều do đó sau  mỗi lần GDSK cần đánh giá lại lượng thông tin  bà mẹ thu thập được để kịp thời điều chỉnh bổ  sung những thông tin thiếu sót qua GDSK lần  sau. Như vậy GDSK không phải  chỉ  làm một  lần là xong.   Nên  xây  dựng một  chương  trình  GDSK  phù hợp và thực hiện phổ biến hơn ở các vùng  nông  thôn và nhóm bà mẹ ở độ  tuổi sinh  đẻ.  Cần có  tài  liệu phát  tay để bà mẹ  theo dõi và  đọc lại nhiều lần.    Bệnh viện, y tế cơ sở cần xem chương trình  GDSK là một nội dung của kế hoạch hoạt động  cũng như  chỉ  tiêu phấn  đấu,  để  đưa hiệu  quả  GDSK tới cộng đồng.    Chương trình GDSK phải được tổ chứ
Tài liệu liên quan