Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích trong phẫu thuật thay van hai lá

Mở đầu: Gây mê phẫu thuật tim hở là một kỹ thuật tương đối mới tại Việt Nam, đặc biệt là những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, khả năng dự trữ của tim kém hơn so với người bình thường nên cần có sự tỉ mỉ để đảm bảo huyết động ổn định. Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích được đánh giá là một phương pháp an toàn, hiệu quả trong phẫu thuật tim. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol và sufentanyl trong phẫu thuật thay van hai lá. Xác định nồng độ Propofol trung bình ở các giai đoạn gây mê. So sánh chất lượng của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích với phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện thông thường. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu thực nghiệm lâm sàng có đối chứng. 74 bệnh nhân ASA 1-3 trãi qua phẫu thuật thay van hai lá được chia là hai nhóm, mỗi nhóm có 37 bệnh nhân. Nhóm 1 được gây mê bằng propofol theo phương pháp kiểm soát nồng độ đích, nhóm 2 gây mê bằng propofol theo phương pháp dùng bơm tiêm điện thông thường. Kết quả:. Nhóm 1 huyết động ổn định tốt ở các giai đoạn kích thích của cuộc mổ như khởi mê, đặt nội khí quản, rạch da. Nồng độ propofol ở các thời điểm khởi mê, đặt nội khí quản, rạch da, lúc hồi tỉnh của nhóm 1 lần lượt là: 1,01 ± 0,39 mcg/ml, 1,78 ± 0,47 mcg/ml, 1,62 ± 0,52 mcg/ml, 0,64 ± 0,19 mcg/ml. Nhóm 1 tính chất khởi mê êm dịu 100% so với nhóm 2 chỉ khoảng 97%, đặc điểm đặt nội khí quản tốt nhóm 1 là 97% so với nhóm 2 chỉ 92%. Chất lượng tỉnh mê và hồi phục sau mổ tốt, ít tác dụng phụ. Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích ổn định huyết động, dễ dàng và nhanh chóng kiểm soát độ mê đáp ứng yêu cầu phẫu thuật, không có tình trạng thứuc tỉnh và nhớ lại trong mổ nên tốt và an toàn.

pdf10 trang | Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích trong phẫu thuật thay van hai lá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 318 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHƯƠNG PHÁP GÂY MÊ TĨNH MẠCH KIỂM SOÁT NỒNG ĐỘ ĐÍCH TRONG PHẪU THUẬT THAY VAN HAI LÁ Lưu Kính Khương*, Nguyễn Thị Quý** TÓM TẮT Mở đầu: Gây mê phẫu thuật tim hở là một kỹ thuật tương đối mới tại Việt Nam, đặc biệt là những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, khả năng dự trữ của tim kém hơn so với người bình thường nên cần có sự tỉ mỉ để đảm bảo huyết động ổn định. Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích được đánh giá là một phương pháp an toàn, hiệu quả trong phẫu thuật tim. Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol và sufentanyl trong phẫu thuật thay van hai lá. Xác định nồng độ Propofol trung bình ở các giai đoạn gây mê. So sánh chất lượng của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích với phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện thông thường. Đối tượng-phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu thực nghiệm lâm sàng có đối chứng. 74 bệnh nhân ASA 1-3 trãi qua phẫu thuật thay van hai lá được chia là hai nhóm, mỗi nhóm có 37 bệnh nhân. Nhóm 1 được gây mê bằng propofol theo phương pháp kiểm soát nồng độ đích, nhóm 2 gây mê bằng propofol theo phương pháp dùng bơm tiêm điện thông thường. Kết quả:. Nhóm 1 huyết động ổn định tốt ở các giai đoạn kích thích của cuộc mổ như khởi mê, đặt nội khí quản, rạch da... Nồng độ propofol ở các thời điểm khởi mê, đặt nội khí quản, rạch da, lúc hồi tỉnh của nhóm 1 lần lượt là: 1,01 ± 0,39 mcg/ml, 1,78 ± 0,47 mcg/ml, 1,62 ± 0,52 mcg/ml, 0,64 ± 0,19 mcg/ml. Nhóm 1 tính chất khởi mê êm dịu 100% so với nhóm 2 chỉ khoảng 97%, đặc điểm đặt nội khí quản tốt nhóm 1 là 97% so với nhóm 2 chỉ 92%. Chất lượng tỉnh mê và hồi phục sau mổ tốt, ít tác dụng phụ. Kết luận: Phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích ổn định huyết động, dễ dàng và nhanh chóng kiểm soát độ mê đáp ứng yêu cầu phẫu thuật, không có tình trạng thứuc tỉnh và nhớ lại trong mổ nên tốt và an toàn. Từ khóa: Propofol, gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích, phẫu thuật thay van hai lá. ABSTRACT TO EVALUATE THE EFFICACY OF TARGET-CONTROLLED INFUSION METHOD IN MITRAL VALVE REPLACEMENT SURGERY Luu Kinh Khuong, Nguyen Thi Quy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 318 - 327 Background-objectives: Anesthetic in open heart surgery is a relatively new technology in Vietnam, especially in patients with cardiovascular disease, heart storage capacity of less than the healthy person, it requires meticulous to ensure hemodynamic stability. Target-controled infusion is considered a safe and effective method. Objective: To evaluate the efficacy of target-controlled infusion by propofol with sufentanil in mitral valve replacement surgery. Determine the average concentrations of propofol in the anesthetic periods. Comparison of  Bệnh viện Nhân Dân 115 ** Viện Tim TP.HCM Tác giả liên lạc: BSCK2 Lưu Kính Khương ĐT: 0913769849 Email:luukinhkhuong115@yahoo.com.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 319 quality of target-controlled infusion with manual- controlled infusion. Subjects and method: Prospective study of experimental clinical control. 74 ASA 1-3 patients undergoing mitral valve replacement surgery were divided into two groups, each with 37 patients. Group 1 were anesthetized with propofol by target-controlled infusion, group 2 with manual-controlled infusion. Results:Group 1 had a better hemodynamic stability in the stimulation phases of the operation such as induction, intubation, skin incision .. Propofol concentration at the time of induction, intubation, skin incision, at the wake of the group 1 respectively: 1.01 ± 0.39 mcg / ml, 1.78 ± 0.47 mcg / ml, 1.62 ± 0.52 mcg / ml, 0.64 ± 0.19 mcg / ml. Group 1 induction soothing properties of 100% compared with only about 97% in group 2, the characteristics of good intubation group 1 was 97% compared to group 2 only 92%. In groupe 1: Quality of anesthesia and good postoperative recovery, fewer side effects. Conclusion: Target-controlled infusion had a hemodynamic stability, easy and fast control the depth of anaesthesia to meet the requirements of surgery, there is no condition to wake up and remember so well and safe operation. Keywords: Propofol, target-controlled infusion, mitral valve replacement surgery. ĐẶT VẤN ĐỀ Propofol là thuốc gây mê đường tĩnh mạch với nhiều ưu điểm vượt trội so với những thuốc gây mê đường tĩnh mạch xuất hiện trước đó nhờ tính chất khởi mê nhanh, tỉnh nhanh(16), chất lượng tỉnh mê tốt, không bị buồn nôn và ói sau gây mê(12), propofol còn ức chế phản xạ thanh quản giúp đặt nội khí quản nhanh chóng(14), dễ dàng và an toàn. Việc sử dụng propofol bằng phương pháp gây mê tĩnh mạch không kiểm soát nồng độ đích để duy trì mê đôi khi không kiểm soát được độ mê làm bệnh nhân có nguy cơ thức tỉnh và nhớ lại trong lúc mổ(9,17). Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích trái lại được đánh giá là một phương pháp an toàn, hiệu quả. Đặc biệt gây mê phẫu thuật tim hở là một kỹ thuật tương đối mới tại Việt Nam, gây mê như thế nào để đảm bảo huyết động ổn định là yếu tố quan trọng góp phần cho sự thành công của cuộc mổ, đặc biệt là trên những bệnh nhân có bệnh lý tim mạch, khả năng dự trữ của tim kém hơn so với người bình thường. Mục tiêu nghiên cứu Đánh giá hiệu quả của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích bằng Propofol và sufentanyl trong phẫu thuật thay van hai lá. Xác định nồng độ Propofol trung bình ở các giai đoạn gây mê. So sánh chất lượng của phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích với phương pháp gây mê tĩnh mạch bằng bơm tiêm điện thông thường. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Dân số nghiên cứu Tất cả những bệnh nhân nhập vào bệnh viện Nhân Dân 115 được chẩn đoán hẹp và/hoặc hở van hai lá dựa trên kết quả khám lâm sàng và siêu âm tim. Cách chia nhóm: Phân chia nhóm ngẫu nhiên theo thứ tự vào phòng mổ. Tiêu chuẩn chọn bệnh Bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật thay van hai lá nhân tạo và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tri giác và tâm thần bình thường. Không có chống chỉ định dùng propofol và sufentanil. Tiêu chuẩn loại trừ Dị ứng với thuốc, phân suất tống máu < 40%, béo phì, suy gan, suy thận nặng, hẹp van động mạch chủ, bệnh nhân có chỉ định đặt bóng đối xung động mạch chủ trước mổ, nghiện rượu, hay chất gây nghiện khác. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 320 Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu tiền cứu thực nghiệm lâm sàng có đối chứng. Thời gian nghiên cứu Từ tháng 8/2010 – 7/2011. Địa điểm nghiên cứu Khoa Gây Mê Hồi Sức bệnh viện Nhân dân 115 thành phố Hồ Chí Minh. Phương pháp tiến hành Phương tiện nghiên cứu Bơm tiêm điện Diprifusor TERUMO TE-372 (Astrazeneca). Cách tiến hành Tiền mê Tư vấn. Đêm trước khi mổ: seduxen 5mg uống. Tại phòng mổ: Midazolam 0.05 mg/kg tiêm TM chậm. Khởi mê Nhóm 1: + Sufentanil: TCI Base Primea 0,3 ng/mL, trước 5ph. + Lidocaine 1% 0,5 mg/kg tiêm TM chậm. + Propofol: Diprifusor TERUMO TE-372 cài đặt nồng độ 0,5 µg/mL và tăng dần + từng bước 0,5 µg/mL cho đến khi mất tri giác. + Vecuronium 0,1 mg/kg tiêm TM chậm. - Trước khi đặt nội khí quản tăng liều thêm từ 1,5 - 2 lần nồng độ mất tri giác. Nhóm 2: + Sufentanil: TCI Base Primea 0,3 ng/mL. + Propofol: 1-2mg/kg/30 giây bơm tiêm điện thông thường. + Vecuronium: 0,1mg mg/kg tiêm TM chậm. Cả hai nhóm: Chúng tôi đánh giá độ sâu của gây mê trên lâm sàng bằng cách dựa vào các dấu hiệu lâm sàng sau: - Cử động. - Huyết động. - Phản ứng của hệ thần kinh thực vật qua thang điểm PRST của Evans. - Thang điểm OAA/S. Cho vecuronium 1% khi bệnh nhân đạt thang điểm OAA/S = 1, liều 0,1 mg/kg tiêm tĩnh mạch chậm. Bệnh nhân được thông khí qua mặt nạ mặt với oxy 100%. Nếu bệnh nhân khó thông khí bằng mặt nạ mặt chúng tôi sẽ rút bệnh nhân ra khỏi nghiên cứu. Sau khi tiêm vecuronium 3-4 phút, đánh giá thời điểm đặt ống NKQ theo các tiêu chuẩn của Viby – Mogenson. Duy trì mê Nhóm 1: - Duy trì mê với nồng độ đích của propofol tùy thuộc vào diễn tiến trên lâm sàng, đáp ứng huyết động của bệnh nhân bằng cách tăng mỗi 0,5-1 mcg/mL (tùy giai đoạn của cuộc phẫu thuật như trước khi đặt nội khí quản, lúc chuẩn bị rạch da và cưa xương ức tăng liều cao hơn theo nhu cầu) hay giảm 0,5-1 mcg/mL (lúc bắt đầu chạy THNCT). - Bệnh nhân được duy trì mê ở nồng độ tối thiểu là nồng độ khi thang điểm OAA/S = 1 cho đến tối đa là 5 mcg/mL. chúng tôi chọn nồng độ đích tối thiểu là nồng độ khi thang điểm OAA/S = 1 để đảm bảo đủ độ mê khi kết hợp với nồng độ của sufentanil là 0,15-0,30 ng/mL. Chúng tôi chọn nồng độ đích tối đa của propofol là 5 mcg/mL bởi vì nồng độ đích cao hơn có nguy cơ gây tụt huyết áp. Duy trì gây mê kiểm soát nồng độ đích đến khi cuộc mổ kết thúc. Nhóm 2: Sau khi dẫn mê, duy trì mê bằng truyền tĩnh mạch liên tục: Sufentanil 0,6 -1 µg/kg/giờ, Propofol 8 – 12 ml/kg/giờ. Cả 2 nhóm: Trong suốt thời gian khởi mê và duy trì mê bệnh nhân được xem là tụt huyết áp nếu HATT giảm < 70 mmHg (hay huyết áp trung bình ở những bệnh nhân trước đó không có cao huyết áp giảm 40% so với Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 321 trước đó, kéo dài >1 phút ở những bệnh nhân trước đó có cao huyết áp sẽ được xử trí như sau: + Truyền dung dịch keo (hydroxyethyl starch 130/0,4) duy trì CVP 8-12 mmHg. + Nếu không đáp ứng thì giảm nồng độ đích của propofol tới nồng độ đích mất ý thức được ghi nhận lúc dẫn mê. + Nếu huyết áp không cải thiện thì tiếp tục cho vận mạch ephedrine 4-10mg tiêm mạch chậm. Nếu huyết áp vẫn chưa cải thiện thì tùy chức năng tim có thể cho thêm dobutamin hoặc epinephrine, norepinephrine. Trước và sau khi chạy THNCT, gọi là tăng huyết áp khi HATT >160mmHg, hay HATB tăng>15% so với mức cơ bản trước đó, bệnh nhân sẽ được xử trí như sau: + Tăng dần liều propofol tới nồng độ đích tối đa 5 mcg/mL. Nếu huyết áp không cải thiện thì cho nicardipine 0,2-1mg tiêm mạch chậm. Khi nhịp tim tăng>100 lần/phút, xử trí bằng cách tăng nồng độ propofol và sufentanil hoặc propranolol 0,5-1mg tiêm mạch chậm. Khi nhịp tim giảm <40 lần/phút, xử trí: atropine 0,5mg-1mg tiêm mạch chậm. Tuần hoàn ngoài cơ thể Bệnh nhân được chạy THNCT với máy Maquet với bộ phận trao đổi oxy dạng màng (Capiox -Terumo, Japan), dung dịch mồi là mannitol 2,5ml/kg và gelatin (Gelofusine, B.Braun) 1-1,1L (hay hydroxyethyl starch, máu, huyết tương tươi đông lạnh tùy vào Hct và các xét nghiệm đông máu). Lưu lượng bơm khoảng 2-2,4 L/phút/m2 da trong suốt thời gian chạy THNCT. Bảo vệ tim bằng cách hạ thân nhiệt trung bình 30 – 320 C đo qua trực tràng và làm lạnh với đá bào trong khoang màng tim, dung dịch làm liệt tim tinh thể (crystalloid cardioplegia) ở nhiệt độ 4oC và lập lại mỗi 20-30 phút trong thời gian kẹp ĐMC. Cho héparine với liều lượng 300 UI/kg để duy trì ACT  400 giây. Sau khi ngưng THNCT héparine được trung hoà bởi protamine sulfate theo tỷ lệ 1:1. Trong quá trình chạy THNCT, duy trì huyết áp động mạch trung bình trong khoảng 50 – 80 mmHg. Nếu HATT tăng (khi>80 mmHg) hạ huyết áp bằng nicardipine; nếu HATT giảm (khi< 50 mmHg nâng HA bằng ephedrine; pha loãng máu duy trì Hct trong giới hạn 25 – 28%. Điều kiện để cai máy THNCT Nhiệt độ hậu môn > 35o C sau khi tháo kẹp động mạch chủ. Đuổi hết không khí ra khỏi tim. Nhịp xoang, đều, không có rối loạn nhịp. Không có các dấu hiệu ST chênh mới xuất hiện. Huyết áp tâm thu >90 mmHg. Vào giai đoạn cai máy THNCT, điều chỉnh những bất thường nếu có: Na+, K+, Ca++, pH, PaO2, bù dịch và máu theo hướng dẫn của CVP, huyết áp động mạch xâm lấn, và duy trì Hct ≥ 30% vào cuối cuộc mổ. Sau khi đã loại trừ nguyên nhân huyết áp thấp (< 90 mmHg) do thiếu thể tích tuần hoàn, các nguyên nhân ngoại khoa (chảy máu, van không hoạt động tốt), đồng thời dựa vào tình trạng tim mạch, phân suất tống máu trước mổ; các thông số như tình trạng co bóp cơ tim; ECG để quyết định cho các thuốc hồi sức tim mạch. Lúc chuẩn bị cho tim đập lại đặt bệnh nhân ở tư thế Trenderlenburg. Các thuốc vận mạch và liều lượng sử dụng điều trị suy tim cấp trong và sau mổ: dobutamine 5 – 20 g/kg/phút; epinephrine 0,05 - > 0,5 g/kg/phút; norepinephrine 0,01 - > 0,1 g/kg/phút. Các thuốc cấp cứu khác (nếu cần) tùy theo tình trạng bệnh nhân. Ghi nhận số lần bệnh nhân tỉnh trong mổ. Chất lượng duy trì mê: dựa trên số lần bệnh nhân tỉnh trong mổ, số lần điều chỉnh liều thuốc, mức độ ảnh hưởng mạch và huyết áp, số lượng thuốc phối hợp. Những bệnh nhân có sự thay đổi huyết động đều được ghi nhận vào bảng thu thập số liệu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 322 Kết thúc mổ - Ngưng truyền Propofol lúc kết thúc khâu da. - Thời gian phẫu thuật: tính từ lúc rạch da đến kết thúc khâu da. - Thời gian gây mê: tính từ lúc khởi đầu truyền Propofol đến ngưng truyền. - Thời gian tỉnh mê: tính từ lúc ngưng truyền Propofol đến khi bệnh nhân mở mắt, thực hiện được y lệnh. Theo dõi bệnh nhân sau mổ ở phòng hồi sức Khi cuộc mổ chấm dứt, tất cả bệnh nhân được chuyển đến phòng hồi sức. Tại đây bệnh nhân được tiếp tục thở máy Mức độ hồi tỉnh của bệnh nhân được đánh giá theo thang điểm OAA/S. Thời điểm rút nội khí quản: - Bệnh nhân thức tỉnh tốt, đạt thang điểm OAA/S bằng 5. Bệnh nhân thực hiện tốt test cai máy thở: thở CPAP/PSV đạt tần số >10 lần/phút, PSV≤ 8 mmHg, SpO2 > 95%; không có dấu hiệu suy hô hấp (thở nhanh, nông, co kéo, cánh mũi phập phồng); không còn vấn đề chảy máu ngoại khoa; thân nhiệt > 36,5oC; không sốt. Khí máu động mạch không bị toan máu, PaCO2 < 50 mmHg, PaO2 > 100 mmHg, SaO2 > 95%. - Nâng đầu >10 giây. TOF >0,9. - Huyết động ổn định, dẫn lưu không còn chảy máu. - Không có các rối loạn khác kèm theo. Chất lượng tỉnh mê: - Êm dịu hay bứt rứt vật vã, lẫn lộn. - SpO2 ổn định hay giảm. - Mức độ tăng giảm mạch, huyết áp. - Nôn buồn nôn. Tai biến trong thời gian gây mê. Sau mổ - Ghi nhận biến chứng sau gây mê. - Ghi nhận ghi nhớ trong mổ của bệnh nhân (nếu có). Thu thập số liệu Tính chất lúc khởi mê: - Êm dịu: bệnh nhân ngủ nhẹ nhàng không hoảng hốt, kích động. - Kích thích: bệnh nhân hốt hoảng, la hét, quấy đạp. Điều kiện đặt nội khí quản: tốt, vừa, kém theo. Mạch: mạch tăng khi >100 lần/phút, giảm khi <40 lần/phút. Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương, huyết áp trung bình được ghi nhận ở các thời điểm: lúc vào phòng mổ (T0), trước khi dẫn mê (T1), lúc thang điểm OAA/S =1 (T2), ngay trước khi đặt nội khí quản (T3), ngay sau khi đặt nội khí quản (T4), trước khi rạch da (T5), sau khi rạch da (T6), trước khi cưa xương ức (T7), ngay sau khi cưa xương ức (T8), trước và sau khi chạy THNCT (T9, T10,), sau ngưng THNCT (T11). Nồng độ tại nơi tác dụng của propofol lúc thang điểm OAA/S bằng 1 (Ce1), sau đặt nội khí quản (Ce2), sau rạch da (Ce3), sau cưa xương ức (Ce4), lúc tỉnh mê (Ce5), cử động trong mổ (Ce6). Tác dụng phụ của propofol. Số lần thức tỉnh trong mổ: bệnh nhân cử động làm ảnh hưởng tới thao tác của phẫu thuật viên. Tai biến trong gây mê: - Co thắt thanh quản. - Hít sặc Tổng liều thuốc suốt cuộc mổ (TL). Biến chứng sau gây mê: ghi nhận các biến chứng liên quan đến gây mê như nôn ói, nhức đầu, tồn đọng Sufentanil, tồn đọng dãn cơ. Ghi nhớ trong mổ: bệnh nhân có thể kể lại những lời nói, hành động của nhân viên phòng mổ, hay tiếng dụng cụ va chạm lúc mổ. Thời gian lúc bệnh nhân tỉnh. Chất lượng tỉnh mê: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Ngoại Khoa 323 - Êm dịu (không kích thích, thở êm theo máy) hay bứt rứt vật vã, lẫn lộn (không định hướng được không gian và thời gian). - SpO2 ổn định (>95%) hay giảm (<90%). - Nôn, buồn nôn. Thời gian rút nội khí quản. Tỷ lệ dùng thuốc co mạch. Tỷ lệ dùng thuốc dãn mạch. Tỷ lệ tăng huyết áp, tụt huyết áp: huyết áp tăng khi HATT >160mmHg, hay HATB > 15% so với mức cơ bản trước đó, huyết áp giảm khi HATT < 70 mmHg (hay huyết áp trung bình ở những bệnh nhân trước đó không có cao huyết áp giảm 40% so với trước đó, kéo dài >1 phút ở những bệnh nhân trước đó có cao huyết áp. Xử lý số liệu Nhập, xử lý và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5.0 với các test thống kê mô tả và phân tích với giá trị p<0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê. Kiểm định sự khác biệt bằng test thống kê χ2 để so sánh 2 tỉ lệ và ước lượng nguy cơ tương đối RR với khoảng tin cậy 95%, test t, phép kiểm phi tham số hay anova để so sánh 2 hay nhiều số trung bình. Dùng phương pháp phân tích hồi quy tuyến tính và hệ số tương quan Spearman để tìm mối liên quan giữa các biến. Kết quả được trình bày dưới dạng các tần số, tỉ lệ và số trung bình, độ lệch chuẩn trong các bảng, biểu. KẾT QUẢ Từ tháng 8/2010 đến tháng 7/2011, tại phòng mổ bệnh viện Nhân Dân 115, chúng tôi đã nghiên cứu tổng cộng 74 bệnh nhân phẫu thuật thay van hai lá được gây mê tĩnh mạch toàn phần bằng propofol kết hợp với sufentanil. Sau khi giải thích kỹ quá trình gây mê, phẫu thuật, các bệnh nhân đồng ý tham gia và thỏa các điều kiện nghiên cứu sẽ được đưa vào lô nghiên cứu. Các bệnh nhân được phân chia ngẫu nhiên theo thứ tự vào phòng mổ, có 37 bệnh nhân thuộc nhóm 1 (gây mê tĩnh mạch toàn phần kiểm soát nồng độ đích bằng propofol) và 37 bệnh nhân thuộc nhóm 2 (gây mê tĩnh mạch toàn phần không kiểm soát nồng độ đích bằng propofol), kết quả như sau: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu Phân bố bệnh nhân theo tuổi Các nhóm tuổi phân bố tương đối đồng đều, không có sự khác biệt giữa hai nhóm, đa số bệnh nhân <60 tuổi. Phân bố bệnh nhân theo giới Phân bố bệnh nhân theo giới ở hai nhóm không khác nhau. Phân bố bệnh nhân theo chỉ số BMI Phân bố BMI chủ yếu tập trung ở nhóm bệnh nhân có thể trạng bình thường và không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Phân bố bệnh nhân theo phân loại ASA Phân bố bệnh nhân theo ASA giữa hai nhóm khác biệt, hầu hết bệnh nhân có phân độ ASA II Phân bố bệnh nhân theo NYHA Bệnh nhân chủ yếu có phân loại NYHA II, không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Thời gian trung bình chạy tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT) và kẹp động mạch chủ (ĐMC) Thời gian chạy tuần hoàn ngoài cơ thể, thời gian kẹp động mạch chủ không khác biệt ở 2 nhóm Nhìn chung mẫu nghiên cứu tương đối đồng nhất về các đặc điểm chung trước mổ. Đặc điểm gây mê Tính chất dẫn mê Bảng 1. Tính chất dẫn mê: Tính chất dẫn mê NHÓM 1 NHÓM 2 Êm dịu 100% 97,3% Kích thích 0% 2,7% Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tính chất khởi mê. Đặc điểm đặt nội khí quản Bảng 2. Đặc điểm đặt NKQ: NHÓM 1 NHÓM 2 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Ngoại Khoa 324 Tốt 97% 92% Vừa 2,7% 2,7% Kém 0 5,3% Nhận xét: Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đặc điểm đặt NKQ. Nồng độ tại nơi tác dụng trung bình của propofol và sự thay đổi huyết động ở các giai đoạn gây mê tĩnh mạch KSNĐĐ Bảng 3. Nồng độ thuốc nhóm 1 ở các thời điểm khảo sát: Nồng độ thuốc ở các thời điểm khảo sát NỒNG ĐỘ TRUNG BÌNH NỒNG ĐỘ TỐI THIỂU NỒNG ĐỘ TỐI ĐA Ce1 (mcg/ml) 1,01 ± 0,39 0,5 2 Ce2 (mcg/ml) 1,78 ± 0,47 1 2,5 Ce3 (mcg/ml) 1,62 ± 0,52 1 3 Ce4 (mcg/ml) 2,75 ± 0,44* 2 3,8 Ce