Mục tiêu nghiên cứu nhằm so sánh mức độ thành công trên lâm sàng và tia X của Sodium hypochlorite 5% (NaOCl 5%), Sulfate sắt (FS) và Formocresol (FC) trong điều trị tủy buồng răng cối sữa sau 18 tháng. Phương pháp nghiên cứu: 102 răng cối sữa của 76 bệnh nhi được phân nhóm ngẫu nhiên điều trị tủy buồng với NaOCl 5%, Sulfate sắt và Formocresol . Theo dõi 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng sau điều trị. Kết quả: Sau 18 tháng, 14 trong 19 răng NaOCl 5%, 21 trong 22 răng FS và 18 trong 20 răng FC thành công. Tỉ lệ thành công của NaOCl là 68% của FS là 95% và FC là 85%. Tỉ lệ thành công của NaOCl thấp hơn FS có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa NaOCl và formocresol (p>0,05).
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả của sodium hypochlorite trong điều trị tủy buồng răng cối sữa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 211
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA SODIUM HYPOCHLORITE
TRONG ĐIỀU TRỊ TỦY BUỒNG RĂNG CỐI SỮA
Phan Thị Thanh Yên*, Nguyễn Thị Thúy Lan*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu nhằm so sánh mức độ thành công trên lâm sàng và tia X của Sodium hypochlorite 5%
(NaOCl 5%), Sulfate sắt (FS) và Formocresol (FC) trong điều trị tủy buồng răng cối sữa sau 18 tháng.
Phương pháp nghiên cứu: 102 răng cối sữa của 76 bệnh nhi được phân nhóm ngẫu nhiên điều trị tủy
buồng với NaOCl 5%, Sulfate sắt và Formocresol . Theo dõi 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng sau điều trị.
Kết quả: Sau 18 tháng, 14 trong 19 răng NaOCl 5%, 21 trong 22 răng FS và 18 trong 20 răng FC thành
công. Tỉ lệ thành công của NaOCl là 68% của FS là 95% và FC là 85%. Tỉ lệ thành công của NaOCl thấp hơn
FS có ý nghĩa thống kê với p<0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa NaOCl và formocresol
(p>0,05).
Từ khóa: tủy buồng, răng cối sữa, sodium hypochlorite.
ABSTRACT
EVALUATION OF THE EFFECT OF SODIUM HYPOCHLORITE IN DECIDUOUS TEETH
PULPOTOMY
Phan Thi Thanh Yen, Nguyen Thi Thuy Lan
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 211 - 216
Objective: The aim of this study was to compare the effect of Sodium Hypochlorite (NaOCl 5%) to that of
Sulfate Fe (FS), Formocresol (FC) as pulp dressing agent in pulpotomized primary molars.
Methods: Pulpotomy was performed on 102 primary molars in 76 patients. NaOCl 5%, Ferric sulfate, and
Formocresol was placed on the pulpal stumps and the teeth were followed for 6 month, 12 month and 18 month
periods.
Results: After 18 months follow-up, 14 of 19 cases treated with NaOCl 5%, 21 of 22 cases treated with FS,
and 18 of 20 cases treated with FC were considered successful. There was no significant difference between the
successful rate of NaOCl 5% treatment (68%) and FC treatment (85%) (p>0.05). But the successful rate of
NaOCl 5% treatment was significantly lower than that of FS treatment (p<0.05).
Keywords: teeth pulpotomy, deciduous teeth, sodium hypochlorite.
MỞ ĐẦU
Mục đích chính của nha khoa trẻ em là giữ
cho bộ răng sữa ở tình trạng khỏe mạnh cho đến
khi răng vĩnh viễn mọc thay thế. Tủy răng sữa
khác với tủy răng vĩnh viễn về sự phát triển,
hình thể học và mô học vì vậy khi răng sữa bị
sâu sẽ nhanh chóng ảnh hưởng đến tủy răng.
Đối với trẻ nhỏ, việc nhổ răng cối sữa sẽ đưa
đến những hậu quả không tốt như mất khoảng,
răng vĩnh viễn mọc lệch, khó khăn trong ăn
nhai. Do đó, điều trị chọn lựa được ưa thích
nhất hiện nay là lấy tủy buồng. Formocresol là
vật liệu điều trị tủy buồng được sử dụng dụng
rãi nhất vì cho tỉ lệ thành công cao.
Tuy nhiên, hơn 20 năm qua việc sử dụng
formocresol bị nghi ngờ về tính hiệu quả và an
toàn do: (1) sự hấp thụ của cơ thể, (2) phản ứng
* Khoa RHM, Đại học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Thúy Lan ĐT: 0916740209 Email: thuylandent@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 212
viêm của tủy, (3) độc tính tế bào, (4) khả năng
gây ung thư. Kết quả mô học không phù hợp
với mức độ thành công trên lâm sàng. Thay vì
mô tủy còn sống, người ta thấy mô tủy bị hoại
tử và viêm mãn. Một bất lợi khác của
formocresol là sự phân tán khắp toàn thân từ vị
trí cắt tủy buồng. Pruhs và cộng sự(13) nhận thấy
mối liên quan giữa việc điều trị formocresol ở
răng sữa với khiếm khuyết men ở răng vĩnh
viễn thay thế. Tuy vậy, kết quả này không được
phát hiện trong nghiên cứu của Rolling và
Poulsen(14). Ngoài ra, tính chất gây dị ứng và đột
biến gen của formaldehyde đã được chứng
minh trên mẫu súc vật nhưng chưa được chứng
minh ở người. Vì vậy, nhiều vật liệu được
nghiên cứu để thay thế formocresol như calcium
hydroxide, glutaraldehyde, sulfate sắt, mineral
trioxide aggregate (MTA), đốt điện, laser CO2
với mức độ thành công và chi phí khác nhau.
Oxide kẽm–eugenol và calcium hydroxide
đều cho tỉ lệ thành công kém trên phim tia X do
nội tiêu chân răng (Berger và Magnusson)(2).
Theo Schroder(17) thiếu sự cầm máu thích hợp
trước khi đặt thuốc đã ảnh hưởng không tốt trên
kết quả điều trị.
Sulfate sắt (Fe2[SO4]3) được dùng làm co
nướu trước khi lấy dấu và trong phẫu thuật nội
nha để kiểm soát sự chảy máu (Christensen GJ
and Christensen R)(4). Khi tiếp xúc với máu phức
hợp protein-ion sắt hình thành và màng của
phức hợp bít những mạch máu bị cắt, tạo sự
cầm máu (Fischer)(7). Landau và Johnsen(11) thực
hiện nghiên cứu đầu tiên về đáp ứng của tủy
với sulfate sắt trên răng khô. Và sau đó nhiều
nghiên cứu lâm sàng trên người đã dùng sulfate
sắt và có tỉ lệ thành công trên lâm sàng tương
đương formocresol (Fei, Fuks, Smith)(6,8,18).
Mặc dầu có tỉ lệ thành cao trên lâm sàng
với cả hai vật liệu formocresol và sulfate sắt,
những nghiên cứu mô học cho thấy cả hai đều
tạo ra đáp ứng viêm trầm trọng (Fuks, 1997 và
Salako, 2003)(9,16). Vargas và Packham nhận
thấy răng được điều trị với formocresol và
FeSO4 có tỉ lệ mất sớm cao do tiêu chân hoặc
áp xe gây sưng đau.
Sodium hypochloride (NaOCl) đã được
nghiên cứu như một chất cầm máu và sát khuẩn
trong điều trị tủy buồng. Hafez và cs (2000,
2002) đã chứng minh rằng không có một phản
ứng viêm nào xảy ra sau khi cầm máu với
NaOCl 3% trong điều trị tủy buồng ở răng của
khỉ trưởng thành và nhận thấy NaOCl cùng lúc
lấy đi cục máu đông, vụn ngà do sửa soạn
xoang, màng sinh học hữu cơ và khử khuẩn
xoang trám.
Một nghiên cứu thăm dò do Vargas và cs
thực hiện (2006) đánh giá bước đầu hiệu quả của
sodium hypochlorite so với sulfate sắt trong
điều trị tủy buồng ở răng cối sữa cho thấy
NaOCl 5% có thể được sử dụng trong điều trị
tủy buồng răng sữa với tỉ lệ thành công cao hơn
sulfate sắt sau 12 tháng theo dõi.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là so
sánh sự thành công trên lâm sàng và X quang
của sodium hypochlorite 5%, sulfate sắt và
formocresol trong điều trị tủy buồng răng cối
sữa sau 18 tháng.
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng được chọn từ bệnh nhân đến điều
trị tại khu điều trị Răng Trẻ Em Khoa Răng Hàm
Mặt, Đại học Y Dược TP.HCM. Cha mẹ được
thông báo và đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Cỡ mẫu
102 răng cối sữa của bệnh nhi từ 3 đến 6
tuổi, có chỉ định điều trị tủy buồng. Các răng
này sẽ được chia ngẫu nhiên vào 1 trong 3
nhóm:
Nhóm SH: Sodium hypochlorite 5%.
Nhóm FC: Formocresol.
Nhóm FS: Sulfate sắt.
Tiêu chuẩn loại trừ
Răng có triệu chứng đau tự phát.
Vùng nướu răng bị sưng.
Răng nhạy cảm khi gõ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 213
Chảy máu nhiều, không cầm máu được.
Phim quanh chóp có: nội tiêu, thấu quang
vùng chẻ, dãn dây chằng nha chu hay có sự tiêu
chân răng quá 1/3.
Phương pháp nghiên cứu
Kỹ thuật thực hiện
Sau khi đánh giá các răng cối sữa đúng chỉ
định điều trị tủy buồng, thủ thuật lấy tủy buồng
gồm gây tê, nạo sạch mô sâu, loại bỏ trần buồng
tủy bằng mũi khoan siêu tốc vô trùng số 330.
Lấy mô tủy buồng bằng mũi khoan tròn siêu tốc
hoặc cây nạo sắc vô trùng. Sau khi đánh giá sự
chảy máu, cầm máu bằng một viên gòn khô vô
trùng. Sau đó:
• Đối với nhóm SH: sử dụng viên gòn nhỏ
thấm NaOCl 5% đặt vào buồng tủy trong vòng
30 giây (viên gòn không được vắt khô trước khi
đặt lên các đầu ống tủy).
• Đối với nhóm FS: sử dụng xylanh chứa
sulfate sắt có đầu cọ nhỏ đặt nhẹ vào buồng tủy
trong vòng 15 giây. Đánh giá sự chảy máu và
đặt lại nếu vẫn không cầm máu. Sau lần đặt thứ
hai nếu vẫn còn chảy máu, phải lấy tủy chân và
răng bị loại khỏi nghiên cứu.
• Đối với nhóm FC: đặt viên gòn tẩm
formocresol lên đầu ống tủy 5 phút. Nếu vẫn
chảy máu, kiểm tra đầu ống tủy và rửa sạch
buồng tủy trước khi đặt lần thứ hai. Nếu vẫn
còn chảy máu, phải lấy tủy chân và răng bị loại
khỏi nghiên cứu.
Trám buồng tủy với oxide kẽm-eugenol, sau
đó bọc mão kim loại làm sẵn (SSC).
Đánh giá
Đánh giá lâm sàng và trên phim tia X được
thực hiện sau 6, 12 và 18 tháng. Việc đánh giá
được thực hiện độc lập bởi một bác sĩ không biết
răng thuộc nhóm nào.
Tiêu chuẩn đánh giá thành công về mặt lâm
sàng:
- Không có triệu chứng đau tự phát.
- Phục hồi còn nguyên vẹn.
- Không lung lay.
- Không sưng.
- Không có lỗ dò.
- Không có viêm nướu – đau, viêm đỏ hay
chảy máu – xung quanh răng/mão.
Tiêu chuẩn đánh giá thành công trên phim
tia X:
- Không có nội, ngoại tiêu chân răng bệnh lý.
- Không có thấu quang quanh chóp hoặc
vùng chẽ.
Thành công toàn bộ của việc điều trị được
đánh giá theo cả hai kết quả lâm sàng và tia X.
Nếu xác định một yếu tố thất bại thì việc điều trị
được đánh giá là thất bại.
Phân tích thống kê
Sử dụng test chính xác Fisher so sánh tỉ lệ
thành công trên lâm sàng và tia X của ba
phương pháp điều trị ở mỗi lần tái khám. Test
McNemar so sánh tỉ lệ thành công của mỗi vật
liệu theo thời gian.
KẾT QUẢ
Bảng 1. Đánh giá lâm sàng việc điều trị tủy buồng
với sodium hypochlorite, sulfate sắt và formocresol
theo thời gian.
6 tháng 12 tháng 18 tháng
Thành
công
Thất
bại
Thành
công
Thất
bại
Thành
công
Thất bại
SH 35
(100%)
0 25
(96%)
1
(4%)
18 (94%) 1 (6%)
FC 34
(100%)
0 23
(95%)
1
(5%)
19 (95%) 1 (5%)
FS 33
(100%)
0 25
(100%)
0 22
(100%)
0
Giá trị
p
SH/FS= 0,322
SH/FC= 0,954
FS/FC= 0,302
SH/FS= 0,276
SH/FC= 0,970
FS/FC= 0,288
Sau 6 tháng đánh giá được 102 răng, sau 12
tháng đánh giá được 75 răng, sau 18 tháng đánh
giá được 61 răng của 3 nhóm do bệnh nhân
không quay lại tái khám.
Về lâm sàng, sau 6 tháng tỉ lệ thành công
trên lâm sàng của cả 3 nhóm đều đạt 100%. Sau
12 tháng và 18 tháng, tỉ lệ thành công của nhóm
NaOCl 5% tuần tự là 96% và 94%, tỉ lệ thành
công của formocresol là 95% ở cả 12 và 18 tháng.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 214
Riêng sulfate sắt sau 18 tháng không có ca nào
thất bại (Bảng 1). Không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỉ lệ thành công giữa 3 nhóm
điều trị ở từng thời điểm tái khám cũng như
không có sự khác biệt về tỉ lệ thành công theo
thời gian điều trị của cả ba nhóm (p >0,05)
Bảng 2. Đánh giá trên phim tia X việc điều trị tủy
buồng với sodium hypochlorite, sulfate sắt và
formocresol theo thời gian.
6 tháng 12 tháng 18 tháng
Thành
công
Thất
bại
Thành
công
Thất
bại
Thành
công
Thất bại
SH 33 (94%) 2 (6%) 21 (81%) 5 (19%) 14 (74%) 5 (26%)
FC 34
(100%)
0 23 (96%) 1 (4%) 18 (90%) 2 (10%)
FS 33
(100%)
0 24 (96%) 1 (4%) 21 (95%) 1 (5%)
Giá
trị p
SH/FS= 0,163
SH/FC= 0,157
SH/FS= 0,101
SH/FC= 0,101
FS/FC= 1
SH/FS= 0,049 *
SH/FC= 0,184
FS/FC= 0,493
Trên phim tia X: sau 6 tháng có 2 răng của
nhóm NaOCl 5% (6%) có hình ảnh nội tiêu và
thấu quang vùng chẽ. Sau 18 tháng có 8 răng
thuộc 3 nhóm (5 răng nhóm NaOCl (26%) có
hình ảnh nội tiêu, thấu quang vùng chóp,
thấu quang vùng chẽ và tiêu chân; 2 răng
nhóm Formocresol (10%) có hình ảnh nội tiêu,
1 răng nhóm Sulfate sắt (5%) nội tiêu. Sau 6
tháng và 12 tháng, không có sự khác biệt giữa
các nhóm điều trị (p>0,05). Nhưng sau 18
tháng, tỉ lệ thành công của nhóm NaOCl 5%
thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với sulfate
sắt với p<0,05 (Bảng 2). Nhóm FC có 1 ca thất
bại mới, trong khi nhóm NaOCl 5% và FS
không có ca thất bại mới sau 18 tháng.
Tỉ lệ thành công toàn bộ của NaOCl ở 6
tháng, 12 tháng và 18 tháng tuần tự là 94%, 77%
và 68%; của sulfate sắt là 100%, 96% và 95%; của
formocresol là 100%, 92% và 85% không có sự
khác biệt theo thời gian (p>0,05) (Bảng 3).
Bảng 3. Tỉ lệ thành công (kết hợp lâm sàng và tia X) theo thời gian.
6 tháng 12 tháng 18 tháng
N Thành công Thất bại N Thành công Thất bại N Thành công Thất bại
SH 35 33 (94%) 2 (6%) 26 20 (77%) 6 (23%) 19 13 (68%) 6 (32%)
FC 34 34 (100%) 0 24 22 (92%) 2 (8%) 20 17 (85%) 3 (15%)
FS 33 33 (100%) 0 25 24 (96%) 1 (4%) 22 21 (95%) 1 (5%)
Giá trị p SH/FS= 0,163
SH/FC= 0,157
SH/FS= 0,091
SH/FC= 0,101
FS/FC= 0,976
SH/FS= 0,049*
SH/FC= 0,184
FS/FC= 0,493
BÀN LUẬN
Từ năm 1904 formocresol đã được sử
dụng trong điều trị tủy buồng răng cối sữa và
cho kết quả thành công cao trên lâm sàng.
Nhiều nghiên cứu cho thấy việc điều trị tủy
buồng với formocresol có tỉ lệ thành công từ
70 đến 90% (Willard RM). Mặc dầu có nhiều
nghiên cứu báo cáo về sự thành công của việc
lấy tủy buồng trên lâm sàng, cũng có nhiều
tài liệu nghi ngờ việc sử dụng formocresol.
Rolling và Thylstrup(14) cho thấy tỉ lệ thành
công trên lâm sàng giảm theo thời gian. Ngoài
ra, đáp ứng mô học của tủy chân răng sữa
không thuận lợi. Nhiều nhà nghiên cứu nhận
thấy sau khi đặt formocresol, có vùng cố định
ở 1/3 trên của tủy chân, viêm kinh niên ở 1/3
giữa và mô sống ở 1/3 chóp. Một số tác giả
khác cho rằng mô tủy còn lại hoại tử một
phần hoặc toàn bộ. Trong những năm qua,
một số báo cáo nghi ngờ tính hiệu quả và an
toàn của formocresol và bây giờ hầu hết tác
giả đều đồng ý rằng formocresol có thể có
tiềm năng gây phản ứng miễn dịch hoặc đột
biến gen. Vì những lý do này, người ta đang
cố gắng tìm một chất thay thế.
Hiện nay sulfate sắt đang được sử dụng
như một chất thay thế cho formocresol trong
điều trị tủy buồng ở răng sữa. Thành công về
lâm sàng và trên phim tia X của sulfate sắt là
trên 90% sau hai năm (Fuks & cs., Smith & cs.,
Casas & cs.)(8,18,3).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 215
Một loại thuốc hiệu quả trong việc điều trị
tủy buồng phải thành công cả về lâm sàng, tia X
và tương hợp sinh học giữa tủy và mô chung
quanh. Tuy nhiên, Fuks nhận thấy 40% tủy
được điều trị với formocresol hoặc sulfate sắt
điều bị viêm trầm trọng (Fuks)(8). Tương tự,
Salako và cs phát hiện có sự phá hủy toàn bộ
tủy với sulfate sắt và hoại tử tủy với formocresol
khi thực hiện điều trị tủy buồng trên răng
chuột(16).
Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá
hiệu quả của NaOCl 5%. Kết quả cho thấy
NaOCl dùng băng thuốc trong điều trị tủy
buồng răng sữa có tỉ lệ thành công về lâm sàng
là 94% và trên phim tia X 74% sau 18 tháng theo
dõi. Thành công về mặt lâm sàng tương đương
với sulfate sắt và formocresol. Tỉ lệ thành công
sau 12 tháng trên phim tia X của sulfate sắt và
formocresol đều là 96%, tỉ lệ này hơi cao hơn kết
quả trong nghiên cứu của Phan Thị Thanh Yên
(2003)(12) với tỉ lệ thành công của sulfate sắt là
81% và formocresol là 88,2%. Sự khác biệt có thể
do cỡ mẫu trong nghiên cứu này lớn hơn so với
nghiên cứu năm 2003. Tuy nhiên cả hai nghiên
cứu đều cho thấy không có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa sulfate sắt và formocresol.
Bảng 3 cho thấy tỉ lệ thành công cả lâm sàng
và tia X tương đương giữa NaOCl 5% (68%) và
formocresol (85%) sau 18 tháng theo dõi. Tuy
nhiên so với sulfate sắt thì tỉ lệ thành công của
NaOCl thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).
Tỉ lệ thành công của NaOCl và sulfate sắt lần
lượt là 68% và 95%. Điều này ngược với kết quả
trong nghiên cứu của Vargas và cs thực hiện
năm 2006 cho thấy tỉ lệ thành công cả lâm sàng
và tia X của NaOCl là 90% và sulfate sắt là 74%
theo dõi sau 1 năm. Sự khác biệt này có thể do
phương pháp nghiên cứu khác nhau và thời
gian theo dõi của nghiên cứu này lâu hơn. Mặc
dù cả hai nhóm NaOCl và sulfate sắt đều không
có ca thất bại mới ở lần tái khám 18 tháng so với
lúc 12 tháng, nhưng tỉ lệ thành công của NaOCl
thấp hơn sulfate sắt có ý nghĩa thống kê. Điều
này có lẽ do cỡ mẫu của nhóm NaOCl bị thất
thoát nhiều hơn so với nhóm FS (Bảng 3).
Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy tỉ lệ
thành công của cả ba vật liệu giảm dần theo thời
gian (Bảng 3). Điều này phù hợp với nhận xét
của Rolling và Thylstrup(14).
Trong nghiên cứu này, tất cả thất bại trên
phim tia X ở cả ba nhóm là nội tiêu, thấu quang
quanh chóp, thấu quang vùng chẽ và tiêu chân.
Điều này khác với nhận xét của Vargas và cs(10)
rằng đa số các thất bại trên phim tia X là do nội
tiêu. Trong những răng thất bại trên phim tia X
chỉ có 2 răng có triệu chứng lâm sàng là áp xe và
lung lay trong suốt 18 tháng theo dõi. Tuy
nhiên, nếu tiếp tục theo dõi lâu hơn, có thể phát
hiện nhiều những dấu hiệu thất bại về mặt lâm
sàng.
Darkin đã sử dụng NaOCl từ 1915 như một
chất sát khuẩn để làm sạch vết thương trong
chiến tranh thế giới thứ I. Sau đó đã được sử
dụng như là một chất bơm rửa khi điều trị nội
nha từ những năm 1920 và chất này cũng là một
chất kháng khuẩn tốt mà không kích thích tủy
đáng kể. Rosenfeld và cs (1978) cho rằng khi đặt
NaOCl 5% lên bề mặt tủy sống thì chỉ tác động
ở lớp bề mặt và ảnh hưởng tối thiểu lên mô tủy
sâu bên dưới. Ông thấy rằng sau khi đặt gián
đoạn NaOCl 5% trên mô tủy sống răng cối nhỏ
trong 15 phút, chỉ 3 hoặc 4 lớp tế bào đầu tiên bị
tiêu đi bởi chất bơm rửa trong khi lớp mô bên
dưới không bị ảnh hưởng.
Cox(5) và Hafez nhận thấy NaOCl với những
nồng độ khác nhau có tác dụng cầm máu và sát
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 216
khuẩn xoang khi đặt trên mô tủy lộ và cho rằng
cầm máu với NaOCl là phần quan trọng nhất
trong sự lành thương và thành lập cầu ngà trong
che tủy trực tiếp với hệ thống dán kháng khuẩn.
Hafez và cs nhận thấy 86% răng loài linh trưởng
được bơm rửa với NaOCl 3% trong 40 đến 50
giây có sự lành thương tủy bình thường. Trong
một nghiên cứu tương tự, nhóm này cũng thấy
rằng đặt NaOCl trong 40 đến 50 giây có hiệu
quả cầm máu.
Accorinte và cs(1) đã đánh giá tính chất cầm
máu của Sulfate sắt, NaOCl, Calcium hydroxide
(Ca(OH)2), và nước muối trong điều trị tủy
buồng răng cối nhỏ của người trước khi phục
hồi bằng composite. Kết quả cho thấy 60% răng
lấy tủy buồng với sulfate sắt nhạy cảm với lạnh,
và kết quả mô học cho thấy có phản ứng viêm
mạnh. Trong khi đó những răng được điều trị
với NaOCl hay Ca(OH)2 không có bất cứ phản
ứng đau hay nhạy cảm nào. Khảo sát mô học
cũng cho thấy phản ứng viêm mãn tính như
nhau ở cả hai chất này.
Trong nghiên cứu này, NaOCl 5% được đặt
trong buồng tủy chỉ 30 đến 40 giây nên không
ảnh hưởng có hại trên mô tủy còn lại.
Mặc dầu tỉ lệ thành công trên phim tia X
thấp so với sulfate sắt, nhưng với tỉ lệ thành
công cao về mặt lâm sàng tương đương
formocresol và sulfate sắt, NaOCl có thể được
xem xét như một vật liệu thay thế formocresol
trong điều trị tủy buồng răng sữa.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu đánh giá hiệu quả của
sodium hypochlorite trong điều trị tủy buồng
răng cối sữa sau 18 tháng cho thấy:
Tỉ lệ thành công của NaOCl 5% tương
đương với formocresol nhưng thấp hơn có ý
nghĩa thống kê so với sulfate sắt.
Tiêu chân răng là thất bại trên phim tia X
thường thấy nhất sau 12 tháng và 18 tháng của
cả ba vật liệu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Accorinte MLR, Loguercio AD, Reis A, Muench A, Araujo VC
(2005). Responses of human pulp capped with a bonding agent
after bleeding control with hemostatic agents. Oper Dent, 2: 147-
155.
2. Berger JE (1965). Pulp tissue reaction to formocresol and zinc
oxide-eugenol. J Dent Child, 32: 13-28.
3. Casas MJ, Kenny DJ, Johnston DH, Judd PL (2004). Longterm
outcomes of primary molar ferric sulfate pulpotomy and root
canal treatment. Pediatr Dent, 26: 44-48.
4. Christensen GJ and Christensen R (1979). Astringedent by
Ultradent. Clin Res Assoc Newletter, 3: 2.
5. Cotes O, Boj JR, Canalda C, Carreras M (1997). Pulpal tissue
reaction to formocresol vs ferric sulfate in pulpotomized rat
teeth. J Clin Pediatr Dent, 3: 247-254.
6. Fei AL, Udin RD, Johnson R (1991). Clinical study of fe