Đặt vấn đề: Bạch cầu cao là một biến chứng nguy hiểm của bệnh lý huyết học ác tính. Kiểm soát tình trạng
này đòi hỏi một phương pháp nhanh chóng và hiệu quả bên cạnh hóa trị liệu. Nghiên cứu này nhằm đánh giá
hiệu quả của kỹ thuật chiết tách bạch cầu bằng máy tự động trong những trường hợp bạch cầu cao
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả loạt ca các trường hợp bạch cầu cao được chiết tách
tế bào tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM 1/6/2011 đến 1/6/2012.
Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành kỹ thuật này trên 30 bệnh nhân với 48 chu kỳ chiết tách. Tuổi trung bình
trong nghiên cứu là 27,95. Có 2 trường hợp trẻ em được tiến hành kỹ thuật này. Số lượng bạch cầu trung bình
lúc chẩn đoán là 379,46 x 109/L. Chủ yếu là các bệnh nhân được chẩn đoán bạch cầu mạn dòng tủy (chiếm 50%).
Có 43,3% bệnh nhân có biểu hiện lấp mạch, chủ yếu là tổn thương phổi. Số lượng bạch cầu sau chiết tách giảm
rõ rệt. Nhóm bạch cầu cấp có mức độ giảm bạch cầu nhiều hơn so với nhóm bạch cầu mạn dòng tủy. Biến chứng
thường gặp nhất là hạ Canxi máu có triệu chứng.
Kết luận: Phương pháp chiết tách có thể áp dụng rộng rãi trong những trường hợp bạch cầu cao với hiệu
quả tốt và ít biến chứng,
6 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 15/06/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả điều trị tăng bạch cầu bằng phương pháp mới chiết tách tế bào với máy tự động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 259
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TĂNG BẠCH CẦU
BẰNG PHƯƠNG PHÁP MỚI CHIẾT TÁCH TẾ BÀO VỚI MÁY TỰ ĐỘNG
Hoàng Nguyên Khanh*, Huỳnh Đức Vĩnh Phú*, Huỳnh Nghĩa**, Phan Thị Xinh**,
Phù Chí Dũng*, Nguyễn Tấn Bỉnh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bạch cầu cao là một biến chứng nguy hiểm của bệnh lý huyết học ác tính. Kiểm soát tình trạng
này đòi hỏi một phương pháp nhanh chóng và hiệu quả bên cạnh hóa trị liệu. Nghiên cứu này nhằm đánh giá
hiệu quả của kỹ thuật chiết tách bạch cầu bằng máy tự động trong những trường hợp bạch cầu cao
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả loạt ca các trường hợp bạch cầu cao được chiết tách
tế bào tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM 1/6/2011 đến 1/6/2012.
Kết quả: Chúng tôi đã tiến hành kỹ thuật này trên 30 bệnh nhân với 48 chu kỳ chiết tách. Tuổi trung bình
trong nghiên cứu là 27,95. Có 2 trường hợp trẻ em được tiến hành kỹ thuật này. Số lượng bạch cầu trung bình
lúc chẩn đoán là 379,46 x 109/L. Chủ yếu là các bệnh nhân được chẩn đoán bạch cầu mạn dòng tủy (chiếm 50%).
Có 43,3% bệnh nhân có biểu hiện lấp mạch, chủ yếu là tổn thương phổi. Số lượng bạch cầu sau chiết tách giảm
rõ rệt. Nhóm bạch cầu cấp có mức độ giảm bạch cầu nhiều hơn so với nhóm bạch cầu mạn dòng tủy. Biến chứng
thường gặp nhất là hạ Canxi máu có triệu chứng.
Kết luận: Phương pháp chiết tách có thể áp dụng rộng rãi trong những trường hợp bạch cầu cao với hiệu
quả tốt và ít biến chứng,
Từ khóa: chiết tách bạch cầu,bạch cầu cao,lấp mạch,hội chứng ly giải.
ABSTRACT
ASSESSMENT OF THERAPEUTIC LEUKAPHERESIS IN HYPERLEUKOCYTIC PATIENTS
Hoang Nguyen Khanh, Huynh Duc Vinh Phu, Huynh Nghia, Phan Thi Xinh,
Phu Chi Dung, Nguyen Tan Binh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 5 ‐ 2013: 259 ‐ 264
Introduction: Hyperleukocytosis is a severe complication of malignant hematologic diseases which requires
immediate and effective treatment in addition to chemotherapy. In this study, we aimed to access results of
therapeutic leukapheresis in hyperleukocytic patients.
Methods:Prospective case series study from June 1st, 2011 to June 1st, 2012 in Blood Transfusion and
Hematology Hospital, Ho Chi Minh City.
Results: Thirty patients with 48 leukapheresis cycles were analyzed. Patient’s mean age was 27.95 years.
There were 2 children patients receiving this treatment. At diagnosis, the mean absolute WBC count was 379.46
x 109/L. Most of them (50%) were diagnosed as chronic myeloid leukemia. Leukostasis, mostly involving
respiratory system, occurred in 43.3%. The WBC count significantly reduced after leukapheresis. The acute
leukemia group had better decrease of WBC count than the group of chronic myeloid leukemia. The most
complication of leukapheresis was hypocalcemia which was managed with intravenous calcium supplements.
Conclusion: Therapeutic leukapheresis was applied broadly in hyperleukocytosis patients with good
efficiency and safety.
* Bệnh viện Truyền Máu Huyết Học TP.HCM. ** Bộ môn Huyết học, Đại học Y Dược TPHCM.
Tác giả liên lạc: BS. Hoàng Nguyên Khanh ĐT: 0908 325 306 Email: bskhanhtmhh@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 260
Keyword: leukapheresis, Hyperleukocytosis, Leukostasis, tumor lysis syndrome.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bạch cầu cao trong các bệnh lý huyết học ác
tính thường được xác định khi số lượng bạch
cầu trên 100 x 109/L. Tình trạng này thường liên
quan đến tỷ lệ tử vong và biến chứng rất cao(1).
Nguyên nhân chính là do nguy cơ tắc nghẽn
mạch máu, hội chứng ly giải và đông máu nội
mạch lan tỏa. Từ đó làm tổn hại nhiều cơ quan
trong cơ thể như hệ thần kinh trung ương, thận,
hô hấp, tim mạch Tần suất bạch cầu cao dao
động trong khoảng 5% đến 13% ở bệnh nhân
bạch cầu cấp dòng tủy người lớn, 10% đến 30%
ở bệnh nhân bạch cầu cấp dòng lympho, 12%
bệnh nhân người lớn và 60% ở bệnh nhân trẻ em
mắc bệnh bạch cầu mãn dòng tủy(3,6).
Bạch cầu cao là một cấp cứu huyết học, tuy
nhiên việc kiểm soát bạch cầu cao không phải
dễ dàng. Phương pháp đầu tiên được sử dụng
là hóa trị liệu giảm bạch cầu tích cực. Thế
nhưng có thể kéo theo những rối loạn chuyển
hóa nặng nề sau đó. Quan trọng nhất là hội
chứng ly giải và rối loạn điện giải. Phương
pháp chiết tách tế bào đã giải quyết phần nào
khó khăn này, giúp đạt được mục tiêu giảm
bạch cầu nhanh nhất và tính an toàn cao.
Chính vì thế, đây là phương pháp được đưa
thành điều trị chuẩn trong những trường hợp
bạch cầu cao ở nhiều nước trên thế giới.
Tại Việt Nam, một số báo cáo ứng dụng kỹ
thuật này trong điều trị những trường hợp
bạch cầu cao trong bệnh lý huyết học ác tính(8).
Từ năm 2008, bệnh viện Truyền Máu Huyết
Học TP.HCM đã bắt đầu áp dụng phương
pháp chiết tách tế bào với máy tự động và đến
năm 2011 được đưa vào chỉ định chuẩn trong
những bệnh nhân biểu hiện bạch cầu cao lúc
chẩn đoán. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu
này nhằm đánh giá hiệu quả bước đầu của
phương pháp này nhằm tạo cơ sở để triển khai
rộng rãi trong tương lai.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu, mô tả loạt ca.
Địa điểm nghiên cứu
Khoa hồi sức cấp cứu – bệnh viện
Truyền Máu Huyết Học TP.HCM.
Thời gian nghiên cứu
Từ 1/6/2011 đến 1/6/2012.
Dân số nghiên cứu
Các bệnh nhân được chẩn đoán bạch cầu cao
được nhập khoa cấp cứu bệnh viện Truyền Máu
Huyết Học TP.HCM
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Bệnh nhân được chẩn đoán tăng bạch cầu
với:
‐ Bạch cầu cao có triệu chứng của tắc mạch
(như rối loạn tri giác, tắc mạch não, xuất huyết
võng mạc, thuyên tắc phổi, phù gai thị, tắc mạch
dương vật, nhìn mờ do thuyên tắc mạch máu ở
võng mạc).
‐ Bạch cầu cao với nguy cơ tắc mạch cao
(bạch cầu > 100 x109/l đối với bạch cầu cấp dòng
tủy, > 200 x109/l đối với bạch cầu mạn dòng tủy
và bạch cầu cấp dòng lympho).
‐ Bạch cầu cao nhưng có chống chỉ định sử
dụng hóa trị liệu (như bệnh nhân có thai và
muốn duy trì thai kỳ đến lúc sinh).
‐ Bạch cầu không giảm sau 24 – 48 giờ với
phác đồ làm giảm bạch cầu với hydroxyurea
hoặc corticoid.
‐ Bệnh nhân và gia đình đồng ý thực hiện kỹ
thuật.
Tiêu chuẩn loại trừ
Khi có một trong những tiêu chuẩn sau
‐ Suy tuần hoàn
‐ Suy hô hấp nặng
‐ Rối loạn đông máu tiến triển
‐ Rối loạn điện giải – chuyển hóa nặng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 261
‐ Không hợp tác
‐ Bạch cầu cấp tiền tủy bào.
Kỹ thuật chiết tách tế bào bằng máy tự
động
Phương pháp này được khởi động ngay sau
khi có chẩn đoán bạch cầu cao và có sự đồng ý
của bệnh nhân cùng gia đình. Dụng cụ chính
được sử dụng là hệ thống máy COBE Spectra
với chất chống đông là ACD (thành phần bao
gồm 2.2g sodium citrate hydrous, 730mg citric
acid anhydrous, và 2.45g dextrose hydrous
trong mỗi 100ml). Chúng tôi xử lý khoảng 2 – 3
lần tổng thể tích máu của bệnh nhân. Tổng thời
gian của quá trình chiết tách kéo dài từ 2 – 3 giờ.
Những trường hợp thiếu máu nặng trước khi
chiết tách, sẽ được truyền dẫn trước 1 đơn vị
hồng cầu lắng trong quá trình tiến hành kỹ
thuật.
Song song với chiết tách bạch cầu, bệnh
nhân vẫn được sử dụng hóa trị liệu kèm theo
(hydroxyurea hoặc corticoid). Công thức máu,
sinh hóa máu và đông máu sẽ được kiểm tra
trước và sau khi thu thập. Trong quá trình chiết
tách, bệnh nhân sẽ được theo dõi sát dấu hiệu
sinh tồn cũng như các biểu hiện của dị ứng với
chất chống đông hoặc hạ canxi máu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của mẫu nghiên cứu:
Từ 1/6/2011 đến 1/6/2012, chúng tôi đã tiến
hành chiết tách bạch cầu bằng máy tự động trên
30 bệnh nhân với 48 chu kỳ chiết tách. Đặc điểm
chung của các bệnh nhân được mô tả trong bảng
1. Khoảng phân bố tuổi của chúng tôi khá rộng,
nhỏ nhất là 7 tuổi và cao nhất là 82 tuổi. Nam
nhiều hơn so với nữ (tỷ lệ 4,3 nam : 1 nữ). Có 2
trường hợp cân nặng dưới 30kg. Chẩn đoán phổ
biến nhất trong nghiên cứu là bạch cầu mạn
dòng tủy – giai đoạn mạn (chiếm 50%), tiếp đến
là bạch cầu cấp dòng tủy và bạch cầu cấp dòng
lympho. Biểu hiện lâm sàng nổi trội nhất thiếu
máu (chiếm 90%), khá phù hợp với mức
Hemoglobin trung bình là 8,04 g/dL. Số lượng
bạch cầu trung bình là 379,46 x 109/L, với 1
trường hợp tăng bạch cầu đến 810 x 109/L.
Bảng 1: Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Số bệnh nhân (n = 30)
Tuổi trung bình 27,95 ± 16,00 (7 – 82 tuổi)
Tỷ lệ nam:nữ 4,3 : 1
Phân bố cân nặng
lúc chẩn đoán
Dưới 30kg: 2 bệnh nhân (6,7%)
Trên 30kg: 28 bệnh nhân (93%)
Phân loại chẩn
đoán
Bạch cầu cấp dòng tủy : 7 bệnh nhân
(23,3%)
Bạch cầu cấp dòng lympho: 6 bệnh
nhân (20%)
Bạch cầu mạn dòng tủy-giai đoạn mạn:
15 bệnh nhân (50%)
Bạch cầu mạn dòng tủy chuyển cấp: 2
bệnh nhân (6,7%)
Biểu hiện lâm sàng
lúc chẩn đoán
Thiếu máu: 27 bệnh nhân (90%)
Xuất huyết: 5 bệnh nhân (16,7%)
Gan to: 15 bệnh nhân (50%)
Lách to: 26 bệnh nhân (86,7%)
Hạch to: 6 bệnh nhân (20%)
Chỉ số huyết học
lúc chẩn đoán (giá
trị trung bình)
Hemoglobin: 8,04 ± 2,24 g/dL (3,8 – 13)
Số lượng bạch cầu: 379,46 ± 141,56 x
109/L (160 – 810)
Số lượng tiểu cầu: 430 ± 663,12 x 109/L
(34 – 2689)
Tỷ lệ tế bào non: 36,8 ± 36,03 % (2 –
93)
Đặc điểm của những trường hợp có biểu
hiện lấp mạch trong nghiên cứu
Với 30 bệnh nhân, chúng tôi ghi nhận đến
13/30 bệnh nhân có triệu chứng của lấp mạch
(chiếm 43,3%) với những cơ quan được phân bố
trong biểu đồ 1. Phổi là nơi dễ bị tổn thương lấp
mạch nhất (chiếm 30,8%). Có 1 trường hợp có
biểu hiện cả lấp mạch não và lách.
phổi
30.8%
não
15.4%
lách
15.4%
dương vật
15.4%
võng mạc
15.4%
não và lách
7.7%
Biểu đồ 1: Phân bố các cơ quan bị tổn thương do
lấp mạch
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 262
Chúng tôi xét sự tương quan giữa các chỉ số
huyết học với khả năng xuất hiện lấp mạch. Với
các phép kiểm thống kê thích hợp, chúng tôi
không ghi nhận được sự tương quan này
(p>0,05) (Bảng 2). Đồng thời, tỷ lệ lấp mạch cũng
không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các
nhóm chẩn đoán (tỷ lệ lấp mạch là 4/7 ở nhóm
bạch cầu cấp dòng tủy, 2/6 ở nhóm bạch cầu cấp
dòng lympho, 5/15 ở nhóm bạch cầu mạn dòng
tủy‐giai đoạn mạn, 2/2 ở nhóm bạch cầu mạn
dòng tủy chuyển cấp; p=0,26 >0,05)
Bảng 2: Các chỉ số huyết học trung bình giữa nhóm
có và không có biểu hiện lấp mạch
Chỉ số huyết
học
Nhóm không lấp
mạch (n = 17)
Nhóm có lấp
mạch (n = 13) p
Nồng độ
Hemoglobin
trung bình (g/dL)
7,79 ± 2,31 8,36 ± 2,19 0,49
Số lượng bạch
cầu (x 109/L) 376.16 ± 148,64 383,77±137,62 0,88
Số lượng tiểu
cầu (x 109/L) 588,89 ± 835,56 222,15 ± 221,84 0,10
Tỷ lệ tế bào non
(%) 32,06 ± 38,06 43,00 ± 36,47 0,42
Kết quả chiết tách bạch cầu:
Tổng số chu kỳ chiết tách chúng tôi thực
hiện là 48 chu kỳ. 10/30 bệnh nhân cần đến 2 chu
kỳ và 4/30 bệnh nhân cần đến 3 chu kỳ để giảm
bạch cầu. Có sự thay đổi rõ rệt các chỉ số huyết
học trước và sau khi chiết tách (Bảng 3).
Bảng 3: Sự thay đổi các chỉ số huyết học trước và sau
chiết tách.
Chỉ số huyết học Trước chiết tách Sau chiết tách p
Nồng độ
Hemoglobin trung
bình (g/dL)
7,71±2,02 7.04±1,77 0,00
Số lượng bạch
cầu (x 109/L) 348,30±128,83 230,52±102,68 0,00
Số lượng tiểu cầu
(x 109/L) 355,48±541,75 223,35±275,51 0,00
Chúng tôi phân thành 2 nhóm: (1) nhóm
bạch cầu cấp (bao gồm bạch cầu cấp dòng tủy,
bạch cầu cấp dòng lympho và bạch cầu mạn
dòng tủy chuyển cấp), (2) nhóm bạch cầu mạn
dòng tủy. Khi so sánh giữa 2 nhóm, chúng tôi
nhận thấy số lượng bạch cầu giảm trước và sau
chiết tách tương đương nhau giữa 2 nhóm
(126,97 48,91 ở nhóm bạch cầu cấp so với
110,63 101,42 ở nhóm bạch cầu mạn dòng tủy,
p=0,501), nhưng mức độ (%) giảm bạch cầu thì
khác biệt có ý nghĩa thống kê (39,90 18,15% so
với 30,02 12,25%, p=0,029 <0,05).
Sau chiết tách, biểu hiện lấp mạch cũng cải
thiện dần (7/13 bệnh nhân cải thiện sau chu kỳ 1,
5/8 bệnh nhân cải thiện sau chu kỳ 2 và 3/3 bệnh
nhân cải thiện sau chu kỳ 3). Không có bệnh
nhân nào có biểu hiện lấp mạch tử vong sau khi
chiết tách bạch cầu.
Biến chứng trong quá trình chiết tách bạch
cầu
Rối loạn điện giải
Rối loạn điện giải quan trọng nhất là hạ
Canxi máu có triệu chứng (hiện diện trong 24/48
chu kỳ chiết tách). Chúng tôi ghi nhận có sự
tương quan giữa mức Canxi sau chiết tách với
sự biểu hiện triệu chứng hạ Canxi máu (chiếm
65,5% chu kỳ có mức Canxi ≤ 1 mmol/l so với
26,3% chu kỳ có mức Canxi > 1 mmol/L, p=0,008
< 0,05).
Rối loạn đông máu
Có sự thay đổi về mức Fibrinogen giữa trước
và sau khi chiết tách (3,34 1,07 g/L lúc trước
chiết tách so với 2,88 0,84 g/L lúc sau chiết
tách, p=0,002). Tuy nhiên không có trường hợp
nào biểu hiện rối loạn đông máu trên lâm sàng.
BÀN LUẬN
Bạch cầu cao là một biến chứng của bệnh lý
huyết học ác tính được ghi nhận với tỷ lệ không
cao trong các nghiên cứu trên thế giới. Nghiên
cứu tại Brazil ghi nhận khoảng 187 bệnh nhân
trong vòng 10 năm(3), hay nghiên cứu tại Canada
chỉ có 56 bệnh nhân bạch cầu cấp dòng tủy với
số lượng bạch cầu > 100x109/L từ 1992 đến
2002(5), hoặc chỉ có 14 bệnh nhân bạch cầu cao
trong nghiên cứu tại Singapore cần chiết tách từ
năm 1998 đến 2003(9). Nghiên cứu của chúng tôi
chỉ khu trú trên nhóm bệnh nhân bạch cầu cao
được chiết tách bạch cầu. Trong khi đó, số lượng
bệnh nhân chung có bạch cầu cao còn khá nhiều.
Đặc biệt nhóm bạch cầu mạn dòng tủy, vốn là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 263
bệnh lý diễn tiến âm thầm với triệu chứng
không rõ ràng, có tỷ lệ bệnh nhân chẩn đoán
bạch cầu cao vượt hơn hẳn, điển hình là trong
nghiên cứu của chúng tôi có bệnh nhân bạch cầu
tăng ở mức đe dọa tính mạng (810 x 109/L). Điều
này thể hiện một sự chậm trễ trong việc tiếp cận
y tế của những bệnh nhân bị bệnh máu ác tính,
làm tăng thêm nguy cơ tử vong cũng như gánh
nặng trong điều trị cho bệnh nhân.
Hậu quả của tình trạng bạch cầu cao là nguy
cơ lấp mạch. Tỷ lệ có biểu hiện lấp mạch trong
nghiên cứu của chúng tôi khá cao (chiếm 43,3%).
Tỷ lệ này gần tương đương với một số nghiên
cứu trên thế giới(2,9). Hiện tượng lấp mạch
thường xảy ra ở những bệnh lý huyết học ác
tính với những tế bào non to, biến dạng. Đây là
đặc điểm thường thấy trong những tế bào non
của bệnh bạch cầu cấp dòng tủy. Chúng tôi
không ghi nhận sự tương quan nào giữa số
lượng bạch cầu và tỷ lệ tế bào non cũng như
dạng bệnh với hiện tượng lấp mạch. Có lẽ do
mẫu nghiên cứu của chúng tôi chưa đủ lớn cũng
như sự can thiệp sớm ngay từ đầu có thể làm
cho mối tương quan này chưa thể hiện rõ ràng.
Trong nghiên cứu này, phương pháp chiết
tách bạch cầu có thể tạo nên những sự cải thiện
rõ rệt. Cụ thể, số lượng bạch cầu giảm có ý nghĩa
thống kê cũng như cải thiện dần biểu hiện lấp
mạch. Số lượng bạch cầu trung bình giảm được
sau mỗi chu kỳ chiết tách là 117,78 x109/L, tương
ứng với mức độ giảm là 33,8%. Nghiên cứu của
chúng tôi gần tương đương với nghiên cứu tại
Singapore (2 chỉ số này lần lượt là 126 x109/L và
31,9%)(9). Tuy nhiên, khả năng giảm bạch cầu
của phương pháp cũng không phải cố định.
Chúng tôi ghi nhận ở nhóm bạch cầu mạn dòng
tủy có mức độ giảm bạch cầu thấp hơn so với
nhóm bạch cầu cấp dòng tủy. Điều này khá phù
hợp với nhiều nghiên cứu trên thế giới(9,3). Hiện
tượng này thường được ghi nhận là do so với
bạch cầu cấp, bạch cầu mạn dòng tủy có các tế
bào non rất ít, trong khi đó bạch cầu tăng lại
nằm rải đều từ giai đoạn non đến trưởng thành.
Điều này gây khó khăn trong việc tách lớp tế
bào sau ly tâm cũng như việc hút những bạch
cầu cũng không thể tiến hành một cách triệt để.
Chúng tôi đã tiến hành 2 trường hợp trẻ em
với bạch cầu cao, với cân nặng lúc chẩn đoán
dưới 30 kg. Mặc dù về kỹ thuật, chiết tách bạch
cầu ở trẻ em tương tự như ở người lớn, nhưng
theo y văn, rất ít trường hợp trẻ em được tiến
hành kỹ thuật này. Trên thế giới, chỉ dừng lại ở
những báo cáo các trường hợp riêng lẽ mà
không đưa vào chỉ định chính ở trẻ em(11,10).
Nguyên nhân chính là khó khăn trong việc tiếp
cận các đường tĩnh mạch, khả năng ngộ độc chất
chống đông và sự mất cân bằng về thể tích dịch
trong và ngoài cơ thể khi tiến hành kỹ thuật.
Tuy nhiên với việc bồi hoàn đủ thể tích dịch cho
cơ thể cũng như đảm bảo liều lượng chất chống
đông, các bệnh nhân nhi trong nghiên cứu của
chúng tôi vẫn có kết quả khá tốt và không xuất
hiện biến chứng nào.
Một biến chứng đáng lo trong quá trình
chiết tách, đó là khả năng đe dọa thiếu máu
nặng nhất là những bệnh nhân đã có xuất hiện
tình trạng đó lúc chẩn đoán. Đối với những
bệnh nhân bạch cầu cao, việc truyền thêm hồng
cầu hay tiểu cầu có thể làm tăng độ nhớt máu,
thúc đẩy hiện tượng kết dính bạch cầu, từ đó
đẩy nhanh đến tình trạng lấp mạch(4). Để khắc
phục tình trạng đó, chúng tôi đã tiến hành
truyền 1 đơn vị hồng cầu lắng bồi hoàn song
song với quá trình chiết tách. Điều này giúp hạn
chế lượng hồng cầu mất đi, nhưng vẫn đảm bảo
không làm tăng độ nhớt máu. Tác giả Kurnaz đã
so sánh giữa nhóm có truyền dẫn hồng cầu
trước chiết tách với nhóm không có thực hiện kỹ
thuật đó(7). Tác giả nhận thấy nhóm có bồi hoàn
hồng cầu sẽ giảm được bạch cầu nhiều hơn và
có tử suất thấp hơn. Chúng tôi cần những
nghiên cứu rộng hơn trên nhiều đối tượng bệnh
nhân để có thể khẳng định chính xác hiệu quả
này ở người Việt Nam.
Biến chứng phổ biến hàng đầu sau chiết tách
bạch cầu là hạ Canxi máu có triệu chứng. Hạ
Canxi chính là tác dụng phụ nặng nề nhất của
chất chống đông Citrate. Biểu hiện thường là tê
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 5 * 2013
Chuyên Đề Truyền Máu – Huyết Học 264
tay chân, nặng hơn là co rút các cơ. Chúng tôi
ghi nhận nồng độ Canxi sau chiết tách < 1
mmol/l có tương quan đến tỷ lệ xuất hiện triệu
chứng. Như vậy, việc bù Canxi trong suốt quá
trình chiết tách là rất cần thiết nhằm hạn chế
mức Canxi giảm thấp dưới 1 mmol/L. Một số
nghiên cứu còn khuyến cáo nên kéo dài thêm
thời gian chiết tách, cũng như giảm số lượng
chất chống đông(4). Tuy nhiên, chúng tôi nhận
thấy bù Canxi đường tĩnh mạch phòng ngừa đã
đủ để kiểm soát hiện tượng này ở các bệnh nhân
trong nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Chiết tách bạch cầu không phải là một kỹ
thuật quá mới nhưng tầm quan trọng của nó
đang được nghiên cứu rộng rãi trong ứng dụng
điều trị, nhất là những trường hợp tăng bạch cầu
cấp cứu. Với những kết quả này, chúng tôi nhận
thấy việc triển khai kỹ thuật này là một điều rất
cần thiết tại bệnh viện Truyền Máu Huyết Học
TP.HCM nói riêng và các trung tâm huyết học
trên toàn quốc nói chung. Trong tương lai,
chúng tôi vẫn cần những nghiên cứu rộng hơn
và kéo dài hơn không chỉ để khẳng định hiệu
quả trước mắt và còn xác định những hiệu quả
lâu dài của kỹ thuật này.
TÀI LI