Mục tiêu: Nang đơn độc của ống gan rất hiếm gặp. Chúng tôi thông báo một trường hợp đầu tiên nang đơn độc của ống gan phải được điều trị bằng phẫu thuật nội soi. Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một ca bệnh. Kết quả: Bệnh nhi là một bé gái 5 tuổi nhập viện với triệu chứng đau bụng và nôn. Chẩn đoán hình ảnh trước mổ nghi ngờ nang ống mật chủ tuýp 2. Bệnh nhi được phẫu thuật nội soi sử dụng 4 trocar. Trong mổ phát hiện ống mật chủ bình thường và có nang đơn độc của ống gan phải nằm chủ yếu sâu trong nhu mô gan, có sỏi trong nang. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt chỏm nang, lấy sỏi và sau đó nối nang với quai hỗng tràng Roux‐ en‐Y. Bệnh nhân phục hồi tốt và ra viện ngày thứ 5 sau mổ. Theo dõi sau ra viện 8 tháng bệnh nhân không có triệu chứng, siêu âm không còn nang, không có sỏi. Kết luận: Kinh nghiệm qua trường hợp này của chúng tôi cho thấy phẫu thuật nội soi có thể là phương pháp khả thi và hiệu quả trong điều trị nang đơn độc của ống gan.
3 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phẫu thuật nội soi điều trị nang đơn độc của ống gan phải, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 86
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ NANG ĐƠN ĐỘC
CỦA ỐNG GAN PHẢI
Trần Ngọc Sơn*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nang đơn độc của ống gan rất hiếm gặp. Chúng tôi thông báo một trường hợp đầu tiên nang đơn
độc của ống gan phải được điều trị bằng phẫu thuật nội soi.
Phương pháp nghiên cứu: Báo cáo một ca bệnh.
Kết quả: Bệnh nhi là một bé gái 5 tuổi nhập viện với triệu chứng đau bụng và nôn. Chẩn đoán hình ảnh
trước mổ nghi ngờ nang ống mật chủ tuýp 2. Bệnh nhi được phẫu thuật nội soi sử dụng 4 trocar. Trong mổ phát
hiện ống mật chủ bình thường và có nang đơn độc của ống gan phải nằm chủ yếu sâu trong nhu mô gan, có sỏi
trong nang. Bệnh nhân được phẫu thuật cắt chỏm nang, lấy sỏi và sau đó nối nang với quai hỗng tràng Roux‐
en‐Y. Bệnh nhân phục hồi tốt và ra viện ngày thứ 5 sau mổ. Theo dõi sau ra viện 8 tháng bệnh nhân không có
triệu chứng, siêu âm không còn nang, không có sỏi.
Kết luận: Kinh nghiệm qua trường hợp này của chúng tôi cho thấy phẫu thuật nội soi có thể là phương
pháp khả thi và hiệu quả trong điều trị nang đơn độc của ống gan.
Từ khóa: Nang đơn độc ống gan, phẫu thuật nội soi.
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC MANAGEMENT OF SOLITARY CYST OF RIGHT HEPATIC DUCT
Tran Ngoc Son* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 85 ‐ 87
Objective: Solitary cyst of the hepatic duct is very rare. We report the first case of solitary cyst of the right
hepatic duct treated by laparoscopic surgery.
Methods: This is a case report.
Results: The patient was a 5 year old girl, hospitalized for abdominal pain and vomiting. Preoperative
imaging studies suggested choledochal cyst type II. The patient underwent laparoscopic surgery using 4 trocars.
During the operation, a normal common bile duct and a solitary cyst of the right hepatic duct with mainly
intrahepatic location were found, with a bile stone inside the cyst. The cyst was unroofed, the stone was removed
and anastomosis of the cyst with a retrocolic Roux‐en‐Y jejunal loop was performed. The recovery period was
uneventful and the patient was discharged at 5th day postoperatively. Follow up 8 months after discharge, the girl
was asymptomatic, ultrasound showed normal biliary tree without any stone.
Conclusion: This case experience suggests that laparoscopic surgery can be a feasible and efficacious
modality in management of solitary cyst of hepatic duct.
Key words: Laparoscopic surgery, solitary cyst, hepatic duct.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nang ống mật chủ là bệnh lý thường gặp ở
trẻ em nhưng nang đơn độc của ống gan
(NĐĐOG) rất hiếm gặp(4). Trong y văn thế giới
chỉ có rất ít báo cáo về NĐĐOG(4,3,6,1,2,5). Ở Việt
Nam cũng chưa có nghiên cứu nào về bệnh lý
này. Cho đến nay đã có nhiều báo cáo về sử
dụng thành công phẫu thuật nội soi (PTNS)
* Bệnh viện Nhi Trung Ương
Tác giả liên lạc: TS. BS Trần Ngọc Sơn, ĐT: 0462738854, Email: drtranson@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Nhi 87
trong điều trị nang ống mật chủ nhưng chưa có
công bố nào về ứng dụng của PTNS trong điều
trị nang đơn độc của ống gan. Chúng tôi thông
báo một trường hợp đầu tiên nang đơn độc của
ống gan phải được điều trị thành công bằng
PTNS.
Mục tiêu nghiên cứu
Nang đơn độc của ống gan rất hiếm gặp.
Chúng tôi thông báo một trường hợp đầu tiên
nang đơn độc của ống gan phải được điều trị
bằng phẫu thuật nội soi.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Báo cáo một ca bệnh.
BÁO CÁO CA BỆNH
Bệnh nhân là một bé gái 5 tuổi, được nhập
viện với triệu chứng đau bụng, nôn từng đợt từ
1 tháng. Tiền sử sản khoa và gia đình không có
gì đặc biệt. Siêu âm ổ bụng phát hiện nang dịch
rốn gan kích thước 18 ‐ 24 mm, thông với đường
mật trong gan, có sỏi 9 mm; túi mật, ống mật
chủ bình thường; các nội quan ổ bụng khác
không có gì đặc biệt. Chụp cộng hưởng từ cho
thấy có cấu trúc nang hạ phân thùy IV‐V của
gan, đồng tín hiệu với nhu mô gan trên T1W,
T2W, không thấy thông với đường mật; kết luận
là nang gan. Xét nghiệm bilirubin, men gan bình
thường. Kết quả chụp đường mật qua da nghĩ
tới nang ống mật chủ type II. Bệnh nhân được
mổ nội soi sử dụng 4 trocar: 1 trocar 10 mm qua
rốn cho camera, 1 trocar 5 mm hạ sườn phải và 2
trocar 5 mm hạ sườn trái. Chụp đường mật
trong mổ (phải lặp lại 2 lần) thấy nang có thông
với ống gan chung, không thấy rõ ống gan phải
và đường mật trong gan phải; ống mật chủ kích
thước bình thường, không thấy có bất thường
ống mật tụy chung. Phẫu tích ống cổ túi mật,
tách riêng túi mật khỏi nang, cặp cắt ống cổ túi
mật. Bộc lộ ống gan chung: Thấy ống gan trái
bình thường, thấy có nang ở vị trí ống gan phải,
thành nang mỏng mặt trước, phần còn lại nằm
sâu trong gan, nghi thông với đường mật. Mở
thành trước nang cho ống soi vào quan sát thấy
trong nang có dịch mật, nhiều lỗ thông nhỏ chảy
mật từ các đường mật trong gan và lỗ thông với
ống gan chung (hợp lưu với ống gan trái), trong
lòng nang có sỏi đường kính 1 cm. Tiến hành cắt
rộng chỏm nang mặt trước 2 cm, lấy sỏi, tạo quai
hỗng tràng Roux ‐en‐Y (qua rốn) đi qua mạc treo
đại tràng ngang nối với nang bằng khâu vắt 1
lớp với chỉ PDS 5.0. Bệnh nhân phục hồi tốt và
ra viện ngày thứ 5 sau mổ. Theo dõi sau ra viện
8 tháng bệnh nhân không có triệu chứng, siêu
âm không còn nang, đường mật trong và ngoài
gan không dãn, xét nghiệm chức năng gan bình
thường.
BÀN LUẬN
Nang đơn độc của ống gan phải hoặc trái có
thể gặp ở trong(4,3,6) hay ngoài nhu mô gan dưới
dạng túi thừa(1,2). Ca bệnh trong báo cáo này là
nang đơn độc của ống gan phải chủ yếu nằm
trong nhu mô gan, do đó có thể xếp vào nang
đường mật tuýp V theo Todani(5). Một số tác giả
khác dùng khái niệm giãn đường mật trong gan
dạng nang đơn độc cho dạng bệnh lý này(4,3).
Trong khi cơ chế bệnh sinh của đa số các trường
hợp nang ống mật chủ được giải thích do bất
thường hợp lưu ống mật –tụy và trào ngược
dịch tuy vào ống mật chủ, nguyên nhân và cơ
chế hình thành NĐĐOG còn chưa rõ(4,3,6,1,2). Ca
bệnh này cũng phù hợp với kết quả của một số
nghiên cứu về NĐĐOG đã được công bố, với nữ
giới bị nhiều hơn và các nang này thường ở vị trí
ống gan phải hoặc trái sát rốn gan(4,3). Trên các
bệnh nhân bị NĐĐOG không thấy có bất
thường hợp lưu ống mật tụy, không có bệnh lý
nang thận kèm theo. Trong NĐĐOG thường
quan sát thấy ứ đọng dịch mật và tăng tiết chất
nhày(4,3). Trong trường hợp của chúng tôi, sỏi
mật đã hình thành trong nang có thể cũng do cơ
chế này.
Biểu hiện lâm sàng của NĐĐOG thường
không đặc hiệu. Triệu chứng của bệnh nhân
trong báo cáo này là đau bụng và nôn, tương tự
như thông báo của các tác giả khác(4,3,6,1,2). Các xét
nghiệm công thức máu và sinh hóa cũng thường
không đặc hiệu(4,3,6,1,2). Đôi khi bệnh nhân
NĐĐOG có thể có vàng da, đau bụng tăng do
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Chuyên Đề Ngoại Nhi 88
nhiễm khuẩn đường mật và khi đó kèm theo bất
thường các xét nghiệm như tăng bạch cầu, tăng
C‐reactive protein(2), tăng bilirubin, transminase
gan, phosphatase kiềm(6).
Chẩn đoán NĐĐOG dựa vào chẩn đoán
hình ảnh. Siêu âm, CT, MRI, chụp đường mật
qua da hoặc qua nội soi mật tụy ngược dòng là
các phương tiện chẩn đoán hình ảnh hay được
sử dụng(4,3,6,1,2). Tuy nhiên do vị trí của NĐĐOG
thường nằm rất sát rốn gan, túi mật có thể che
lấp một phần nên chẩn đoán trước mổ thường
không chính xác, hay nhầm với nang gan đơn
thuần hoặc túi thừa ống mật chủ như trường
hợp trong báo cáo này và các thông báo khác(3,2).
Kinh nghiệm của chúng tôi cũng như các tác giả
khác cho thấy chẩn đoán xác định vị trí chính
xác của NĐĐOG thường phải dựa vào quan sát
và chụp đường mật trong mổ(3,6,2). Ngay cả chụp
đường mật trong mổ cũng có thể không thấy rõ
hết sự liên thông của NĐĐOG với hệ thống
đường mật, có thể do tăng tiết chất nhày trong
nang gây bít tắc các lỗ thông đường mật nhỏ,
giống như trường hợp trong báo cáo này. Theo
kinh nghiệm của chúng tôi, phẫu thuật nội soi
có ưu thế với khả năng hỗ trợ giúp chẩn đoán
NĐĐOG trong mổ bằng cách đưa ống soi vào
trong lòng nang để quan sát, qua đó có thể thấy
được các lỗ thông đường mật với nang.
Do NĐĐOG rất hiếm gặp và các nghiên cứu
về bệnh lý này thường chỉ dựa trên một vài
trường hợp nên chưa có phương pháp điều trị
nào được coi là quy chuẩn cho NĐĐOG. Điều trị
theo dõi nội khoa thường không thành công và
có nguy cơ biến chứng nhiễm khuẩn đường
mật(6). Cho đến nay điều trị NĐĐOG là bằng
phẫu thuật mở bụng(4,3,6,1,2). Cắt toàn bộ nang có
thể thực hiện không mấy khó khăn khi NĐĐOG
là túi thừa của ống gan(6,1,2). Tuy nhiên với
NĐĐOG không phải dạng túi thừa, vị trí sâu
trong nhu mô gan, để cắt triệt để nang sẽ phải
cắt gan(3). Theo chúng tôi mở chỏm nang và nối
nang với ruột có thể là phương pháp phù hợp, ít
sang chấn và bảo tồn được gan. Báo cáo này là
trường hợp đầu tiên NĐĐOG được điều trị
bằng phẫu thuật nội soi mở chỏm nang và nối
nang với hỗng tràng Roux‐en‐Y thành công.
Theo dõi bước đầu trên bệnh nhân cho thấy kết
quả tốt. Tuy nhiên có thể cần phải theo dõi lâu
dài hơn để có thể có đánh giá chính xác hơn về
hiệu quả của phương pháp này. Mặc dù vậy,
kinh nghiệm qua một trường hợp này cho thấy
phẫu thuật nội soi có thể là phương pháp khả thi
và hiệu quả trong chẩn đoán và điều trị
NĐĐOG.
KẾT LUẬN
Kinh nghiệm qua trường hợp này của chúng
tôi cho thấy PTNS có thể là phương pháp khả thi
và hiệu quả trong điều trị nang đơn độc của ống
gan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Fernandes ES, Bernardo RL, Fernandes MM (2010).
Extrahepatic right hepatic duct diverticulum: a rare entity.
Hepatobiliary Pancreat Dis Int, 9(2):pp 213‐215.
2. Kaneyama K, Yamataka A, UraoM (2005). An extremely rare
case of symptomatic right hepatic duct diverticulum located
outside the liver. Pediatr Surg Int,21(12):pp 1023‐1026.
3. Ohmoto K, Shimizu M, Iguchi Y (1997). Solitary cystic
dilatation of the intrahepatic bile duct. J Clin Pathol, 50(7):pp
617‐618.
4. Terada T, Nakanuma Y (1987). Solitary cystic dilation of the
intrahepatic bile duct: morphology of two autopsy cases and
a review of the literature. Am J Gastroenterol, 82: pp 1301‐
1305.
5. Todani T, Watanabe Y, Narusue M, Tabuchi K, Okajima K
(1977). Congenital bile duct cysts. Classification, operative
procedures, and review of thirty‐seven cases including cancer
arising from choledochal cyst,134:pp 263‐269.
6. White JG, Becker JM (1996). Left hepatic choledochal cyst.
Surgery, 120(3):pp 567‐569.
Ngày nhận bài 01/07/2013.
Ngày phản biện nhận xét bài báo 20/07/2013.
Ngày bài báo được đăng: 15–09‐2013