Mục đích nghiên cứu: Nhằm đánh giá hiệu quả và an toàn của sử dụng mặt nạ thanh quản proseal với gây
mê nồng độ đích propofol cho những bệnh nhân được phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm đoạn ngực T2, T 3
và T4.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả và cắt ngang. Từ tháng 5/2011 đến 12/2011, tại Bệnh viện Đại học Y
dược, 41 bệnh nhân được gây mê nồng độ đích với Propofol và sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal cho phẫu
thuật đốt hạch giao cảm đoạn ngực T2, T3, T4. Thu thập các số liệu về mạch, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm
trương và SpO2, áp lực dò khí và nồng độ Propofol tại các thời điểm trong và sau gây mê.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu được đảm bảo thông khí trong quá trình phẫu thuật,
không có trường hợp nào chúng tôi phải đặt ống nội khí quản hay ống nội phế quản hai nòng và cũng không phải
đặt ống thông dạ dày vì chướng hơi do quá trình thông khí với mặt nạ thanh quản. Sử dụng TCI Propofol đảm
bảo độ mê ổn định trong quá trình phẫu thuật.
Kết luận: Gây mê nồng độ đích propofol và sử dụng mặt nạ thanh quản cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh
giao cảm ngực nội soi được thực hiện an toàn và hiệu quả
6 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá hiệu quả và an toàn của sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal với gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích Propofol cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm ngực nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 84
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ AN TOÀN CỦA SỬ DỤNG MẶT NẠ THANH
QUẢN PROSEAL VỚI GÂY MÊ TĨNH MẠCH KIỂM SOÁT
NỒNG ĐỘ ĐÍCH PROPOFOL CHO PHẪU THUẬT
CẮT HẠCH THẦN KINH GIAO CẢM NGỰC NỘI SOI
Phạm Văn Hùng*, Nguyễn Anh Tuấn*, Phan Tôn Ngọc Vũ*
TÓM TẮT
Mục đích nghiên cứu: Nhằm đánh giá hiệu quả và an toàn của sử dụng mặt nạ thanh quản proseal với gây
mê nồng độ đích propofol cho những bệnh nhân được phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm đoạn ngực T2, T 3
và T4.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả và cắt ngang. Từ tháng 5/2011 đến 12/2011, tại Bệnh viện Đại học Y
dược, 41 bệnh nhân được gây mê nồng độ đích với Propofol và sử dụng mặt nạ thanh quản Proseal cho phẫu
thuật đốt hạch giao cảm đoạn ngực T2, T3, T4. Thu thập các số liệu về mạch, huyết áp tâm thu, huyết áp tâm
trương và SpO2, áp lực dò khí và nồng độ Propofol tại các thời điểm trong và sau gây mê.
Kết quả: Tất cả bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu được đảm bảo thông khí trong quá trình phẫu thuật,
không có trường hợp nào chúng tôi phải đặt ống nội khí quản hay ống nội phế quản hai nòng và cũng không phải
đặt ống thông dạ dày vì chướng hơi do quá trình thông khí với mặt nạ thanh quản. Sử dụng TCI Propofol đảm
bảo độ mê ổn định trong quá trình phẫu thuật.
Kết luận: Gây mê nồng độ đích propofol và sử dụng mặt nạ thanh quản cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh
giao cảm ngực nội soi được thực hiện an toàn và hiệu quả
Từ khóa: Cắt hạch thần kinh giao cảm, nội soi, mặt nạ thanh quản proseal, gây mê nồng độ đích
ABSTRACT
EVALUATION OF SAFETY AND EFFICACY OF PROSEAL LARYNGEAL MASK
AND TCI PROPOFOL IN ANESTHESIA FOR ENDOSCOPIC THORACIC SYMPATECTOMIE
Pham Van Hung, Nguyen Anh Tuan, Phan Ton Ngoc Vu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 84 - 89
Objectives: To evaluate the safety and efficacy of proseal laryngeal mask and TCI Propofol in anesthesia for
T2, T3, T4 endoscopic thoracic sympatectomie.
Methods: Descriptive and cross-sectional study. From 5/2011 – 12/2011, forty patients scheduled for T2,
T3, T4 endoscopic thoracic sympatectomie received TCI Propofol anesthesia with mask laryngeal proseal in UMC.
Pulse rate (PR), systolic blood pressure (SBP), diastolic blood pressure (DBP) and SpO2, ‘leak test’ and
concentrations of Propofol were recorded during and after anesthesia
Results: All patients were successfully ventilated through the assigned laryngeal mask during operation. We
didn't have to change from a laryngeal mask to an endotracheal tube or a double lumen endotracheal tube. No
patient needed an insertion of stomach tube to prevent abdominal distention due to the movement of the air from
artificial ventilatiion with laryngeal mask. The depth of anaesthesia is stable and controllable during TCI Propofol.
Conclusions: use of proseal laryngeal mask and TCI Propofol in anesthesia for endoscopic thoracic
Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS Phan Tôn Ngọc Vũ, ĐT: 0908883458, Email: vuphan 682003@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 85
sympatectomie is safe and efficacious.
Key words: sympathectomy, colioscopie, the proseal laryngeal mask, Target Controlled Infusion (TCI)
MỞ ĐẦU
Phương pháp phẫu thuật cắt hạch giao cảm
ngực nội soi thường được chỉ định cho những
bệnh nhân bị tăng tiết mồ hôi tay và nách, ngoài
ra còn chỉ định cho những bệnh nhân tăng tiết
mồ hôi vùng đầu mặt, bị hội chứng Raynaud,
hội chứng Buerger, hội chứng QT kéo dài, một
số trường hợp đau mạn tính, và chứng sợ đỏ
mặt. Đây là một phương pháp phẫu thuật ít xâm
lấn và cho đến nay đã hoàn toàn thay thế cho
phương pháp phẫu thuật mở ngực kinh điển.
Phương pháp này được thực hiện lần đầu tiên
vào năm 1942(7). Đến năm 1954, Kux đã báo cáo
hơn 1400 trường hợp(11). Tuy nhiên phương
pháp phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao cảm
ngực qua nội soi vẫn còn chưa phổ biến cho đến
tận thập niên 80 khi mà kỹ thuật nội soi được
phổ biến trong phẫu thuật ngoại khoa.
Để thực hiện được phẫu thuật cắt hạch giao
cảm ngực nội soi, phẫu thuật viên cần phải thấy
rõ chuỗi hạch giao cảm đoạn ngực trên ở tại vị
trí các cổ xương sườn. Hầu hết các trường hợp
cần phải gây mê toàn thân, tuy nhiên một số
trường hợp thực hiện phẫu thuật với gây tê
ngoài màng cứng hoặc gây tê thần kinh gian cột
sống.
Khuyến cáo đầu tiên về gây mê cho phẫu
thuật cắt hạch thần kinh giao cảm là nên sử
dụng phương pháp gây mê cân bằng toàn thân
với ống nội phế quản hai nòng. Kỹ thuật này
cho phép xẹp phổi từng bên và tạo phẫu thường
tốt cho phẫu thuật viên. Nếu sử dụng ống nội
phế quản hai nòng thì cần thiết phải kiểm tra vị
trí của ống sau khi đặt bằng ống nội soi mềm.
Sau đó thì phương pháp gây mê nội khí quản
kết hợp với gây xẹp phổi chủ động từng bên
bằng cách bơm khí carbonic vào khoang lồng
ngực đã dần thay thế cho phương pháp gây mê
với ống nội phế quản hai nòng. Một số trung
tâm sử dụng phương pháp gây mê với ống nội
khí quản kết hợp với bóng chẹn phế quản hoặc
phương pháp gây mê với mặt nạ thanh quản
proseal cho phẫu thuật cắt hạch giao cảm ngực
nội soi(9,12).
Mặt nạ thanh quản cổ điển đã được sử dụng
trong gây mê từ lâu, nhưng đặc điểm cấu tạo và
áp lực trong túi hơi chỉ khoảng 20cm nước, nên
chỉ thích hợp cho những bệnh nhân tự thở và
không ngăn ngừa được hít chất nôn ói. Chỉ một
thời gian sau thì mặt nạ thanh quản proseal đã
ra đời, với cấu tạo phù hợp và áp lực trong túi
hơi đã lên tới 60 cm nước, nên có thể thông khí
với áp lực dương và hạn chế tai biến hít phải
chất nôn ói. Với lý do này, việc sử dụng mặt nạ
thanh quản để kiểm soát đường thở và thông
khí cho phẫu thuật cắt hạch giao cảm ngực nội
soi hoàn toàn có thể thực hiện được.
Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích
đã được sử dụng trong những năm gần đây và
ngày càng tỏ rõ có nhiều ưu thế, đặc biết trong
phẫu thuật lồng ngực khi mà phải gây xẹp phổi
để tạo phẫu trường thuận lợi cho phẫu thuật
viên trong quá trình mổ(8).
Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi nhằm
đánh giá hiệu quả và an toàn của sử dụng mặt
nạ thanh quản proseal với gây mê tĩnh mạch
kiểm soát nồng độ đích Propofol cho những
bệnh nhân được phẫu thuật cắt hạch thần kinh
giao cảm đoạn ngực T2, T 3 và T4 tại Bệnh viện
Đại học Y Dược.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Những bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật
cắt hạch giao cảm ngực nội soi.
Thời gian: từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 12
năm 2011.
Địa điểm: tại Bệnh viện Đại học Y Dược
thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp
Mô tả, cắt ngang.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 86
Bệnh nhân được theo dõi bằng các phương
tiện theo dõi tại phòng mổ như: theo dõi điện
tim, huyết áp không xâm lấn, độ bão hòa oxy
Sp02, nồng độ khí CO2 cuối thì thở ra và theo
dõi độ mê bằng BIS.
Tất cả các bệnh nhân đều được gây mê toàn
thân và kiểm soát đường thở bằng mặt nạ thanh
quản Proseal, thuốc tiền mê: midazolam 1 mg,
giảm đau Fentanyl với liều 4mcg/kg cân nặng,
gây mê kiểm soát nồng độ đích Propofol với
nồng độ đích trong huyết thanh khi khởi mê là
6mcg/ml và duy trì mê với nồng độ đích
3mcg/ml và ngưng truyền khi kết thúc cuộc mổ,
giãn cơ với Esmeron với liều 0.3 mg/kg cân nặng
được tiêm tĩnh mạch 3 phút trước rạch da.
Xử lý và phân tích số liệu
Lưu trữ và xử lý số liệu bằng phần mềm
SPSS 16.0
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tế học
Bảng 1: đặc điểm mẫu nghiên cứu
Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Tuổi 16 45 23,6
Cân nặng (kg) 36 69 48,6
Bảng 2: sự phân bố về giới
Số bệnh nhân Tỷ lệ
Nam 18 43,9%
Nữ 23 56,1%
Bảng 3: Sự phân bố về nghề nghiệp
Số bệnh nhân Tỷ lệ
Học sinh, sinh viên 19 46,3%
Nhân viên van phòng 4 9,7%
Công nhân 8 19,5%
Các nghề khác 10 24,5%
Bảng 4: phân bố bệnh
Số bệnh nhân Tỷ lệ
Đổ mồ hôi hai bàn tay 24 58,5
Đổ mồ hôi hai bàn tay và hai
nách nách
14 34,2
Hội chứng Raynaud 2 4,8
Buerger 1 2,5
Bảng 5: vị trí cắt hạch thần kinh giao cảm ngực
Vị trí hạch thần kinh
giao cảm
Số lượng bệnh
nhân
Tỷ lệ
T3 18 43,9%
T3, T4 12 29,3%
T2, T3 6 14,6%
T2, T3, T4 5 12,2%
Bảng 6: Thời gian và nồng độ Propofol tại các thời
điểm gây mê
Thời điểm Trung bình
Mất ý thức Thời gian mất y thức
(giây)
72,8 ± 33, 4
Nồng độ Propofol
(mcg/ml)
1,4 ± 0.2
Đặt mặt nạ thanh
quản
Thời gian dãn cơ hàm
(giây)
77 ± 26
Nồng độ Propofol
(mcg/ml)
2,4 ± 0,6
Thời gian hồi
tỉnh (phút)
11,6 ± 4,3
Nồng độ Propofol
(mcg/ml)
1,2 ± 0,7
Bảng 7: Thời gian gây mê và tổng liều các thuốc mê
Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình
Thời gian gây mê
(phút)
22 65 38,7
Tổng liều Propofol
(mg)
170 654 284
Tổng liều Esmeron
(mg)
11 35 14,8
Tổng liều Fentanyl
(mcg)
150 350 217
Bảng 8: Thay đổi huyết động: mạch, huyết áp
Thời điểm Mạch (lần/phút) Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm trương Huyết áp trung bình
T0 (bắt đầu khởi mê) 71,5 ± 13,2 121,2 ± 11.4 65,7 ± 9,11 84.2 ± 9.8
T1 (trước đặt mặt nạ TQ) 66,3 ± 9,4
T2 (sau đặt mặt nạ TQ) 67,7 ± 12,5 117 ± 19,3 55,3 ± 8,5 75.8 ±12.1
T3 (rạch da) 71,6 ± 21,7 106 ± 9.7 56,6 ± 7,4 73.0 ± 8.1
T4 (5 phút sau rạch da) 71,4 ± 8,3 109 ± 12,6 57,6 ± 8,2 74.7 ± 9.6
T5 (sau 10 phút) 73,7 ± 9,2 107 ± 11,5 58,5 ± 7,4 74.6 ± 8.7
T6 (sau 15 phút) 66,4 ± 8,5 116 ± 12,4 65,3 ± 9,8 82.2 ± 10.6
T7 (sau 20 phút) 72,8 ± 12,2 123 ± 21,2 65,1 ± 10,2 84.4 ± 13.8
T8 (sau 25 phút) 72,3 ± 9,6 113 ± 12,7 63,7 ± 8,7 80.1 ± 10.0
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 87
Thời điểm Mạch (lần/phút) Huyết áp tâm thu Huyết áp tâm trương Huyết áp trung bình
T9 (sau 30 phút) 71,5 ± 9,7 112 ± 8,3 65,5 ± 8,5 81.0 ± 8.4
T10 (sau 35 phút) 68,4 ± 7,2 107 ± 7,4 63,4 ± 8,4 77.9 ± 8.0
BÀN LUẬN
Mặt nạ thanh quản đảm bảo kiểm soát
đường thở trong phẫu thuật nội soi cắt hạch
thần kinh giao cảm ngực
Sử dụng mặt nạ thanh quản để kiểm soát
đường thở ít xâm lấn và ít gây chấn thương, ít
gây biến động huyết động hơn so với nội khí
quản. kiểm soát đường thở dễ dàng hơn, kín
khít hơn và bảo vệ đường thở tốt hơn so với mặt
nạ ngoài. Mặt nạ thanh quản cổ điển đã chứng
tỏ là một dụng cụ an toàn để kiểm soát đường
thở, tuy nhiên vần còn nguy cơ viêm phổi do hít
phải, dặt biệt là trên những bệnh nhân phải
phẫu thuật kéo dài hoặc thông khí với áp lực
dương cao. Với sự ra đời của mặt nạ thanh quản
Proseal, những nhược điểm trên đã được hạn
chế tối đa, tức là có thể sử dụng trong những
phẫu thuật kéo dài và thông khí với áp lực
dương cao.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ sử dụng
mặt nạ thanh quản cỡ số 3 và cỡ số 4. Thể tích
bơm hơi tối đa đối với cỡ số 3 là 20 ml khí và cỡ
số 4 là 30 ml khí. Chúng tôi thường bơm khoảng
50% thể tích tối đa, sau đó chúng tôi kiểm tra
xem bóng hơi có ôm kín thanh môn bằng các
nghiệm pháp áp lực dò khí. Chúng tôi đánh giá
mức độ dò khí thông qua đánh giá tiếng ồn ở
vùng miệng bệnh nhân khi thông khí với áp lực
dương, nghe bằng ống nghe để phát hiện tiếng
ồn của không khí đi vào dạ dày khi thông khí
nhân tạo. Chúng tôi còn sử dụng nghiệm pháp
áp lực dò khí, nghiệm pháp này được thực hiện
đơn giản, để lưu lượng khí mới 3 lít/phút, đóng
van thở ra của máy thở và theo dõi áp lực
đường thở, khi áp lực đường thở đạt đến một
giá trị ổn định tức là mức độ khí bị rò bằng với
lưu lượng khí mới đưa vào. Nghiệm pháp này
giúp tiên lượng trước khả năng có bị dò khí khi
thông khí với áp lực dương. Nếu nghiệm pháp
áp lực dò khí vượt quá 40 cm H2O thì được xem
là thất bại. Áp lực dò khí trong nghiên cứu của
chúng tôi là 24,4 cm H2O. Kết quả này cùng
tương tự như các kết quả nghiên cứu của các tác
giả Nguyễn Văn Chừng, cũng như kết quả
nghiên cứu của tác giả Keller và Brimacombe(10).
Tỷ lệ đặt thành công mặt nạ thanh quản
trong nghiên cứu của chúng tôi là 100%. Thời
gian đặt mặt nạ thanh quản 25,7 giây. Kết quả
này cũng phù hợp với nghiên cứu của
Nguyễn Văn Chừng. Đây là phương pháp đặt
đơn giản, thời gian đặt tương đối nhanh và ít
kích thích.
Sau khi đặt xong mặt nạ thanh quản, tất cả
bệnh nhân được thông khí bằng máy thở với các
chỉ số cài đặt VT 8ml/Kg cân nặng cơ thể, I/E =
½, f = 12 lần/phút, PEEP = 0 cmH2O. Chúng tôi
tiến hành nghiệm pháp áp lực dò khí, đồng thời
đánh giá xem bệnh nhân có bị chướng hơi dạ
dày khi thông khí với áp lực dương. Áp lực
đường thở tối đa trong nghiên cứu của chúng
tôi khi thở máy cao nhất là 23 cmH2O. Chúng
tôi cũng ghi nhận không có trường hợp bệnh
nhân không thông khí đủ trong quá trình phẫu
thuật, cũng như không có trường hợp nào
chúng tôi phải đặt ống thông dạ dày vì chướng
hơi do quá trình thông khí với mặt nạ thanh
quản.
Bệnh nhân được mổ cắt hạch thần kinh giao
cảm ngực qua ngã nội soi lồng ngực với tư thế
Semi-Fowler. Hạch thần kinh giao cảm ngực vị
trí T2, T3, T4 nằm ở vị trí cao của lồng ngực. Khi
bệnh nhân ngừng thở và có sự thông thương
giữa khoang màng phổi và khí trời sau khi đặt
trocar đầu tiên thì phổi sẽ co lại tạo điều kiện
tiếp cận vị trí hạch giao cảm cần đốt một cách
thuận lợi. Trong quá trình phẫu thuật, SpO2 của
bệnh nhân có thể bị giảm do bệnh nhân phải
ngưng thở quá lâu. Chúng tôi thường thông khí
cho bệnh nhân với bóp bóng bằng tay khi SpO2
dưới 90%. Khi đã cắt được hạch giao cảm, các lỗ
trocar sẽ được đóng lại sau khi đã đuổi khí
trong khoang màng phổi nhờ một ống thông.
Việc này đòi hỏi phải cho bệnh nhân nở phổi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 88
nhờ bóp bóng bằng tay. Khi thông khí bằng bóp
bóng cho bệnh nhân chúng tôi dựa vào lâm
sàng đánh giá mức độ di động của ngực và áp
lực đường thở của bệnh nhân. Chúng tôi thường
giữ áp lực này dưới 30 cmH2O nhằm tránh thay
đổi vị trí của bóng hơi mặt nạ thanh quản và
đảm bảo được thông khí trong suốt cuộc mổ.
Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích
Propofol hiệu quả và an toàn trong phẫu thuật
nội soi cắt hạch giao cảm ngực
Phương pháp gây mê bằng đường tĩnh
mạch thường được lựa chọn cho các phẫu thuật
lồng ngực khi mà cần thiết phải thông khí một
phổi hoặc phải ngừng thở trong quá trình phẫu
thuật. Ngoài việc tránh được sự thoát khí mê
bốc hơi từ hệ thống hô hấp cho bệnh nhân vào
trong môi trường phòng mổ, phương pháp gây
mê bằng đường tĩnh mạch còn ít ảnh hưởng đến
phản xạ co mạch máu phổi do thiếu oxy. Đã có
nhiều nghiên cứu cho thấy, có sự tăng số lượng
shunt ở những vùng phế nang không được
thông khí trong quá trình gây mê với khí mê bốc
hơi so với khi gây mê bằng đường tĩnh mạch.
Gây mê tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích
Propofol càng ngày càng chứng tỏ được ưu thế
của mình nhờ tính an toàn, dễ điều chỉnh, nồng
độ thuốc ổn định và không tích lũy và có thể dự
đoán được thời gian tỉnh khi ngưng truyền
thuốc(8).
Nồng độ Propofol ở não khi mất phản xạ mi
mắt và dãn cơ hàm là 1,4 ± 0,2 mcg/ml và 2,4 ±
0,6 mcg/ml. Thời gian mất phản xạ mi mắt và
thời gian dãn cơ hàm là 72 ± 33,4 giây và 77 ± 26
giây. Kết quả này cũng tương tự với kết quả
nghiên cứu của Mary. Việc sử dụng phối hợp
với thuốc giảm đau tạo điều kiện thuận lợi cho
đặt mặt nạ thanh quản.
Chúng tôi duy trì mê với nồng độ đích
3mcg/ml.Trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi
có 12 bệnh nhân được theo dõi BIS trong mổ
một cách ngẫu nhiên, kết quả cho thấy với việc
duy trì với nồng độ đích như vậy thì BIS luôn
nằm trong vùng điều trị, giá trị BIS ở giai đoạn
duy trì mê trong nghiên cứu thấp nhất là 33 và
cao nhất là 64. Theo khuyến cáo của hiệp hội
gây mê hồi sức Pháp thì cần thiết sử dụng
phương tiện theo dõi độ mê cho bệnh nhân
trong những trường hợp lâm sàng mà sự tương
quan giữa nồng độ và tác dụng lâm sàng của các
thuốc gây mê bị thay đổi. Còn trong các trường
hợp lâm sàng khác thì chưa có bằng chứng rõ
ràng về lợi ích của phương tiện theo dõi độ mê
BIS. Chúng tôi sử dụng thuốc dãn cơ Esmeron
trước khi rạch da với liều 0,3mg/kg cân nặng.
Việc sử dụng thuốc giãn cơ nhằm đảm bảo bệnh
nhân bất động và không có nhịp tự thở trong
suốt quá trình cắt hạch giao cảm ngực. Trong
nghiên cứu của chúng tôi có 4 bệnh nhân bị
dính màng phổi, gây khó khăn trong quá trình
phẫu thuật và thời gian phẫu thuật kéo dài, nên
cần thiết phải dùng liều giãn cơ nhắc lại cho
bệnh nhân. Nghiên cứu của Nguyễn Quang
Đình, trong số 59 bệnh nhân được phẫu thuật
cắt hạch giao cảm ngực nội soi với gây mê nội
khí quản, có 3 trường hợp bị dính màng phổi và
cả 3 trường hợp này đều được gỡ dính mà
không cần phải chuyển sang gây mê với ống nội
phế quản hai nòng. Còn trong một nghiên cứu
với số lượng bệnh nhân lớn hơn của Lê Phi
Long, nghiên cứu trên 172 trường hợp được cắt
hạch giao cảm ngực nội soi với gây mê ống nội
phế quản hai nòng thì có 3 trường hợp không
thể gỡ dính và phải ngừng phẫu thuật. Như vậy
gây mê với mặt nạ thanh quản cho phẫu thuật
cắt hạch giao cảm ngực nội soi còn phụ thuộc
vào kỹ thuật cũng như thói quen của phẫu thuật
viên. Đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ
giữa bác sỹ gây mê và phẫu thuật viên trong
quá trình phẫu thuật. Trong những trường hợp
phẫu thuật khó khăn đòi hỏi phải có một phẫu
trường tối ưu thì việc lựa chọn ống nội phế
quản hai nòng được ưu tiên.
Thời gian hồi tỉnh của bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi là 11,6 ± 4,3 phút. Kết
quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu của
các tác giả khác(2,4) không có sự khác biệt đáng kể
giữa thời gian hồi tỉnh của bệnh nhân và thời
gian dự đoán tỉnh của máy TCI. Đa số bệnh
nhân của chúng tôi đều hồi tỉnh một cách êm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Gây Mê Hồi Sức 89
dịu và không than phiền mệt hay nặng đầu.
Nồng độ Propofol ở não lúc hồi tỉnh trong
nghiên cứu của chúng tôi là 1,2 ± 0,7. Kết quả
này cũng phù hợp với các tác giả khác(1,2,5).
Thường thì nồng độ Propofol trong não lúc hồi
tỉnh có giá trị gần với giá trị khi mất ý thức.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh
nhân đều mất ý thức nhanh và êm dịu khi khởi
mê.
Về mặt huyết động, chúng tôi thấy huyết áp
có giảm sau khi khởi mê, nhưng việc giảm huyết
áp này không đáng kể và cũng không cần phải
can thiệp gì. Có lẽ vì trong nhóm nghiên cứu đa
số là những người khỏe mạnh, có ASA I, II và
không có yếu tố gây thiếu khối lượng tuần hoàn
trước mổ(6).
KẾT LUẬN
Phương pháp gây mê tĩnh mạch kiểm soát
nồng độ đích propofol dụng mặt nạ thanh quản
proseal là một phương pháp gây mê có thể lựa
chọn cho cho phẫu thuật cắt hạch thần kinh giao
cảm ngực nội soi. Vì gây mê tĩnh mạch kiểm
soát nồng độ đích vừa an toàn, tiện lợi và hiệu
quả. Sử dụng mặt nạ thanh quản ít xâm lấn và ít
gây chấn thương, ít gây biến động huyết động
mà vẫn đảm bảo kiểm soát đường thở trong
phẫu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Astra-Zeneca (1999). Target controlled infusion in anaesthetic
practice, pp 1-20.
2. Châu Thị Mỹ An, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn văn Chừng. Gây
mê tĩnh mạch toàn diện bằng Propofol kiểm soát nồng độ đích
trong phẫu thuật bụng. ISSN 1859-1779. P 179-185.
3. Cook T.M, Nolan J.P(2002). The Pro-Seal laryngeal mask airway.
The Association of Anaesthetists of Great Britain and Ireland ;
57:288–289.
4. Dương Anh Khoa, Nguyễn Quốc Kính (2008). Đánh giá vai trò
của mặt nạ thanh quản Proseal trong gây mê nội soi ổ bụng. Báo
cáo khoa học, Đại hội gây mê hồi sức Việt Nam 2008, tr 110-113.
5. Hoàng Văn Bách (2008). Khởi mê tĩnh mạch bằng kỹ thuật TCI-
Propofol kết hợp theo dõi độ mê bằng Entropy; Đại hội gây mê
hồi sức Việt Nam, Daklak, tr 235-7.
6. Hug CC, McLeskey CH, Nahrrwold ML, et a(1993)l.
Hemodynamic effects of propo