Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  166
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN  
KHÔNG MỔ VỠ GAN CHẤN THƯƠNG 
Ngô Quang Duy*, Nguyễn Văn Hải** 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Mô tả kết quả điều trị bảo tồn không mổ (ĐTBTKM) vỡ gan do chấn thương (VGCT) tại bệnh 
viện Nhân Dân Gia Định. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang không nhóm chứng. Tất cả 
các trường hợp VGCT được chọn để ĐTBTKM từ 01/2008 đến hết 12/2012 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định. 
Kết quả: Có tất cả 116 t.h VGCT được chọn để điều trị ĐTBTKM, bao gồm 80 bệnh nhân nam và 36 bệnh 
nhân nữ. Tuổi trung bình là 31,17 ±15,64 (lớn nhất 82 tuổi, nhỏ nhất 16 tuổi). Tỷ lệ thành công ĐTBTKM là 
90,5%. Thất bại phải chuyển qua phẫu thuật hay làm tắc mạch ở 9,5% t.h. Ở 67 t.h có chụp CT bụng, mức độ 
VGCT theo AAST là: 7,46% độ I, 35,82% độ II,  44,77% độ III, 10,44% độ IV  và 1,51% độ V. Biến chứng của 
ĐTBTKM gặp ở 20 t.h(17,24%), gồm sốt  (12,06%),  tụ dịch dưới gan  (0,85%), rò mật  (3,04%) và  tràn dịch 
màng phổi 1 t.h (0,85%). Thời gian nằm viện trung bình là 6,35 ngày, trong đó có 77t.h (66,38%) không phải 
nằm điều trị ở khoa hồi sức. 
Kết  luận: Với bệnh nhân VGCT có tình trạng huyết động ổn định, không có các tổn thương kèm trong ổ 
bụng cần can thiệp ngoại khoa, mức độ tổn thương gan nhẹ thì ĐTBTKM có tỷ lệ thành công cao, là điều trị an 
toàn, tỷ lệ biến chứng thấp. 
Từ khóa: Điều trị bảo tồn không mổ.  Vỡ gan chấn thương. 
ABSTRACT 
RESULTS OF NON‐OPERATIVE MANAGEMENT FOR BLUNT LIVER TRAUMA 
Ngo Quang Duy, Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 166 ‐ 171 
Objective:  To  describe  the  results  of  non‐operative management  (NOM)  for  blunt  live  trauma  at Gia 
Đinh’s people hospital. 
Methods:  Retrospective  cross‐sectional  study without  control  group. All  patients  (pts) with  blunt  liver 
trauma hospitalizedfrom 01/2008 to 12/2012 at Gia Dinh’speople hospital who were selected initially for NOM. 
Results: There were 116 pts, including 80 males and 36 females with the mean age was 31.17 ±15.64 years 
(range 16‐82 years). Successful rate of NOM was 90.5%. Emergency surgery or TAE was necessary in 9.5% of 
pts to controll bleeding. About severity of liver trauma in 67 pts with abdominal CT, there were 7.46% of pts 
with grade I, 35.82% of pts with grade II, 44.77% of pts with grade III, 10.44% of pts with grade IV and 1.51% 
of pts with grade V. Complications occurred in 20 pts (17.24%), including 14 fever (12.06%), 1 subhepatic fluid 
collection (0.85%), 4 bile leakage (3.04%) and 1 pleural effusion (0.85%). The mean hospital stay was 6.35 days. 
Staying in surgical ICU was not necessary in 77 pts (66.38%).  
Conclusion:  In  patients  who  have  blunt  liver  trauma  with  stable  hemodynamic  status,  no  associated 
abdominal injuries requiring surgical intervention, mild to moderated hepatic damage; successful rate of NOM is 
high. NOM is safe with low complication rate. 
Keywords: Non‐operative manegment, Blunt liver trauma 
* Khoa Ngoại Tiêu Hóa- Bệnh viện Nhân Dân Gia Định - ** Đại học Y dược TP 
Tác giả liên lạc: BS.CKI. Ngô Quang Duy ĐT 0905995070 Email : 
[email protected] 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013   167
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Vỡ gan do chấn thương (VGCT)  là một cấp 
cứu  thường  gặp  trong  chấn  thương  bụng,  đòi 
hỏi phải chẩn đoán đúng và xử trí thích hợp. Với 
tiến  bộ  về  chẩn  đoán  hình  ảnh,  đặc  biệt  là 
MSCT,  chẩn  đoán VGCT hiện nay không khó, 
thậm chí có thể chẩn đoán được từng mức độ vỡ 
gan. Cũng vì vậy, điều trị VGCT đã có thay đổi 
lớn  trong hơn  2  thập  kỷ  qua. Từ  chỉ  định mổ 
hàng loạt trước đây đã chuyển qua điều trị bảo 
tồn là chính và chỉ mổ trong những trường hợp 
vỡ gan nặng hay có tổn thương phối hợp. 
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng 
71%‐ 94% bệnh nhân VGCT có thể được điều trị 
bảo  tồn  không mổ  (ĐTBTKM)  với  tỷ  lệ  thành 
công  85%‐  94%.  Tại  bệnh  viện Nhân Dân Gia 
Định, điều trị bảo tồn không mổ VGCT đã được 
áp dụng từ đầu những năm 2000 và ngày càng 
trở  thành một cách điều  trị đầu  tay cho những 
VGCT mà  huyết  động  còn  ổn  định. Tiếp  theo 
công trình nghiên cứu trước đây của bệnh viện 
chúng  tôi về  điều  trị VGCT nói  chung, nghiên 
cứu này  được  thực hiện nhằm:(1) xác  định  tỷ  lệ 
thành  công  của  điều  trị  bảo  tồn  không  mổ 
VGCT(2). Xác  định  tỷ  lệ phân  độ  vỡ  gan  ở  các 
trường hợp điều  trị bảo  tồn không mổ và(3) xác 
định  tỷ  lệ  các biến  chứng  của  điều  trị bảo  tồn 
không mổ VGCT. 
ĐỐI  TƯỢNG ‐ PHƯƠNG  PHÁP  NGHIÊN CỨU  
Đối tượng 
Tất cả những bệnh nhân VGCT nhập bệnh 
viện  Nhân  Dân  Gia  Định  từ  01/2008  đến  hết 
12/2012  được  chỉ  định  ĐTBTKM  ngay  từ  đầu. 
Những  bệnh  nhân  được  chỉ  định mổ  ngay  từ 
đầu được loại trừ khỏi nghiên cứu này. 
Phương pháp 
Nghiên cứu được thiết kế theo kiểu hồi cứu 
mô tả cắt ngang, không nhóm chứng. 
Xác  định mức  độ  tổn  thương gan dựa  trên 
CT theo phân loại của Hiệp hội Phẫu thuật Chấn 
thương Hoa Kỳ  (American Association  for  the 
Surgery  of  Trauma‐ AAST)  (Bảng  1). Các  biến 
số thu thập chính là: tuổi, giới, nguyên nhân chấn 
thương,  tình  trạng  huyết  động,  mức  độ  tổn 
thương  gan,  các  tổn  thương  kèm  theo,  tỷ  lệ 
thành công, biến chứng. 
Bảng 1.Phân độ vỡ gan theo AAST 
Độ Tổn Thương Mô tả 
I Tụ máu Dưới bao: < 10% diện tích bề mặt. 
 Tổn thương nhu mô Sâu < 1cm 
II Tụ máu Dưới bao: 10-50% diện tích bề mặt. 
Trong nhu mô: kích thước < 10cm. 
 Tổn thương nhu mô Sâu: 1-3 cm, dài: < 10cm. 
III Tụ máu 
Dưới bao: > 50% diện tích bề mặt. 
Trong nhu mô: kích thước > 10cm. 
Vỡ khối tụ máu. 
 Tổn thương nhu mô Sâu: > 3 cm. 
IV Tổn thương nhu mô 
Vỡ 25-75% thuỳ. 
Vỡ 1-3 phân thuỳ trong một thuỳ gan.
V Tổn thương nhu mô 
Vỡ > 75% thuỳ. 
Vỡ > 3 phân thuỳ trong một thuỳ gan.
 Mạch máu 
Tổn thương mạch máu chính của gan 
(tĩnh mạch trên gan) hay lân cận gan 
(tĩnh mạch chủ dưới) 
VI Mạch máu Đứt lìa cuống gan 
KẾT QUẢ 
Trong thời gian 5 năm, chúng tôi có 148  t.h 
VGCT, trong đó có 116 t.h(78,38%) được chọn để 
ĐTBTKM  ngay  từ  đầu.  Tỷ  lệ  thành  công  của 
ĐTBTKM  là  105/116  t.h  (90,5%).  Chỉ  có  11t.h 
(9,5%)  phải  chuyển  mổ  hay  làm  tắc  mạch 
(Transarterial embolism ‐TAE).  
Bảng 2: Đặc điểm dịch tể học, lâm sàng và xét 
nghiệm   
 N Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ nam/nữ 80/36 
Độ tuổi trung bình 32,17± 15,64 
Nguyên nhân chấn thương
TNLT 
TNLĐ 
TNSH 
81 
18 
17 
69,83 
15.51 
14,66 
Tình trạng huyết động ổn 
khi nhập viện 
106 91,38% 
Bụng mềm 106 91,38% 
Hct > 30% 103 88,79% 
Nồng độ Hb 123,54 ± 27,67 
mg/dL 
Đặc  điểm  dịch  tễ  học,  lâm  sàng  và  xét 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  168
nghiệm  liên  quan  đến  116  bệnh  nhân  VGCT 
được ĐTBTKM như trên bảng 2. 
Có 80t.h là nam và 36t.h là nữ. Tỉ lệ nam/nữ 
là 2,2: 1. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 16 tuổi, lớn 
nhất là 82 tuổi, tuổi trung bình 31,17± 15,64 tuổi. 
 Về nguyên nhân  chấn  thương,  tai nạn  lưu 
thông  chiếm  81  t.h  (69,83%)%,  tiếp  theo  là  tai 
nạn lao động 18 t.h(18,51%) và tai nạn sinh hoạt 
17t.h (14,66%). 
Có  106/116  t.h  (91,38%) nhập viện  với  tình 
trạng  huyết  động  ổn  và  chỉ  10/116  t.h  (8,62%) 
nhập viện với huyết động không ổn lúc đầu, số 
này sau khi được hồi sức  tại cấp cứu  thì huyết 
động cải thiện nên vẫn được chọn ĐTBTKM.  
Đa  số  trường  hợp  VGCT  được  chọn 
ĐTBTKM đều có tình trạng bụng mềm (chiếm lệ 
98,28%) và Hct > 30% (chiếm 88,79%). 
Về chẩn đoán hình ảnh, SA ghi nhận có tổn 
thương  gan  ở  83,62%  t.h  và  có  dịch  bụng  ở 
62,07%  t.h;  trong khi đó CT bụng phát hiện có 
tổn thương gan ở 98,52% t.h và có dịch bụng ở 
70,15% t.h. 
Phân độ tổn thương gan theo AAST ở bệnh 
nhân được ĐTBTKM  dựa 67t.h có CT bụng ghi 
nhận  88,05% VGCT mức  độ  nhẹ  (độ  I,  II,  III), 
trong  khi  có  10,44%    VGCT  độ  IVvà  1,51% 
VGCT độ V. Không có VGCT độ VI(bảng 3). 
Bảng 3: Phân độ vỡ gan nhóm ĐTBTKM 
 N Tỷ lệ ( %) 
Độ I 5 7,46 
Độ II 24 35,82 
Độ III 30 44,77 
Độ IV 7 10,44 
Độ V 1 1,51 
Độ VI 0 0 
Có  64/116t.h  (55,17%)  VGCT  đơn  thuần, 
52t.h  (44,83%)  chấn  thương  gan  có  kèm  chấn 
thương phối hợp ở 1 hay nhiều cơ quan khác. 
Thời  gian  nằm  viện  trung  bình  của 
ĐTBTKM  là 6,35± 3,13 ngày,  trong  đó  có  77t.h 
(66,38%) không cần  theo dõi ở hồi sức. Ở 39t.h 
cần  theo dõi  tại hồi sức  thì có 22/39  t.h  (56,4%) 
nằm tại hồi sức dưới 3 ngày (Bảng 4). 
Nguyên nhân thất bại của 11t.h đều là chảy 
máu tiếp diễn ở vỡ gan độ III và IV. Bảy t.h phải 
mổ và 4 t.h được làm tắc mạch. 
Có  20t.h  (19,3%)  bị  biến  chứng  khi 
ĐTBTKM, chủ yếu sốt 14t.h(70%). Số còn  lại  (6 
t.h –  30%)  là  tụ dịch dưới gan,  rò mật và  tràn 
dịch  màng  phổi  (TDMP).  Không  có  tử  vong 
trong lô nghiên cứu. 
Bảng 4: Kết quả điều trị 
 N Tỷ lệ(%) 
Chấn thương gan đơn thuần 64 55,17 
Chấn thương gan phối hợp 52 44,83 
*Thời gian nằm viện 
+ Không nằm ở hồi sức 
77 66,38 
+ Nằm ở hồi sức 39 33,62 
<3 ngày 22 18,97 
3-7 ngày 16 13,79 
> 7 ngày 1 0,86 
*Thời gian nằm viện trung 
bình (ngày) 
6,35±3,13 
Biến chứng 20 17,24 
+ Sốt, nhiễm khuẩn huyết 14 12,07 
+ Tụ dịch dưới gan, 1 0,8 
+ Dò mật 4 3,4 
+TDMP 1 0,8 
BÀN LUẬN  
ĐTBTKM  vỡ  gan  do  chấn  thương  đã  có 
nhiều  thay  đổi  trong  những  thập  niên  gần 
đây.Do  có nhiều phương  tiện  tốt hơn  để  chẩn 
đoán, theo dõi và hồi sức nên tỷ lệ ĐTBTKM vỡ 
gan  ngày  càng  tăng. Các  tiêu  chuẩn  sau  chọn 
bệnh ban  đầu  để ĐTBTKM  cho VGCT  thường 
là:  huyết  động  ổn  định  hay  nhanh  chóng  ổn 
định  khi  vào  viện,  khám  bụng  không  có  dấu 
kích thích phúc mạc, trên siêu âm hoặc CT bụng 
tổn thương gan đơn giản, dịch ổ bụng  lượng  ít 
hay vừa và không có dấu hiệu thoát mạch. 
Trong nghiên cứu 5 năm  của  chúng  tôi  (từ 
01/2008 ‐12/2012), có 148 bệnh nhân nhập viện vì 
chấn  thương  gan,  trong  đó  116  t.h  thỏa  tiêu 
chuẩn  chọn  cho ĐTBTKM,  chiếm  tỷ  lệ  78,38%. 
Kết  quả  này  gần  bằng  số  liệu  VGCT  được 
ĐTBTKM  trong nghiên  cứu  của  tác giả Martin 
Coore là 82%(10), J.David Richardson là 80%(15 và 
cao hơn số liệu trong nghiên cứu trước đây của 
Nguyễn Văn Hải và  Đỗ Hoài Kỷ là 53,7%(13). 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013  Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013   169
Với những bệnh nhân VGCT được lựa chọn 
để  ĐTBTKM  từ  đầu,  chúng  tôi  có  tỷ  lệ  thành 
công tương đối cao (105/116 t.h – 90,5%). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  nguyên 
nhân VGCT do tai nạn lưu thông chiếm 69,83%, 
tai nạn  lao động và  tai nạn sinh hoạt gần bằng 
nhau  lần  lượt 15,51% và 14,66%. Tuổi bị VGCT 
thường là tuổi trẻ. Nghiên cứu của chúng tôi ghi 
nhận tuổi trung bình là 32,17 tuổi, tỷ lệ nam/nữ  
là  2,2:  1.  Độ  tuổi  trung  bình  bị  VGCT  trong 
nhiều nghiên cứu cũng dao động  từ 20 đến 30 
tuổi; bệnh nhân nam vẫn chiếm ưu thế (2,5,19,3). 
Hầu hết các nghiên cứu đều nhấn mạnh tiêu 
chuẩn huyết  động  của  bệnh nhân  ổn  định  lúc 
nhập viện  là quan  trọng nhất  trong số các  tiêu 
chuẩn  để  chọn  lựa  ĐTBTKM  cho VGCT(16,17,18). 
Chúng tôi cũng có 106/116 t.h (91,38%) có huyết 
động ổn lúc nhập viện. Các dấu hiệu lâm sàng ở 
bệnh  nhân  chấn  thương  gan  được  chọn 
ĐTBTKM chủ yếu  là  trầy xướt dưới sườn phải 
(DSP), đau khu trú DSP và bụng còn mềm với tỉ 
lệ lần lượt là  43,97%; 87,93% và 98,28%.  
Việc  chẩn  đoán  chấn  thương  gan  vào  thời 
điểm tiếp cận bệnh nhân khi vào viện của chúng 
tôi  có  nhiều  thuận  lợi  vì  có  sẵn  SA,  CT  scan 
bụng. Tác giả Carmen Garcia Bernardo cho rằng 
SA và CT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong 
chẩn  đoán VGCT(4). Nghiên  cứu  của  chúng  tôi 
ghi nhận SA giúp chẩn đoán được VGCT ở 83,62 
% t.h và CT giúp chẩn đoán được ở 98,53% t.h. 
Tuy  nhiên,  theo  tác  giả  Hossam  Hamdy,  CT 
bụng không nhất  thiết phải chỉ định cho  tất cả 
các trường hợp VGCT mà chỉ nên dành cho các 
trường hợp cần  thiết để đánh giá giúp cho can 
thiệp bằng phẫu thuật(9). Chúng tôi cũng không 
sử dụng CT bụng một cách  thường qui. Trong 
nghiên cứu của chúng  tôi, siêu âm vẫn  là khảo 
sát ban đầu. Ưu điểm của  siêu âm là có độ nhậy 
và  độ  đặc  hiệu  tương  đối  cao(80‐95%),  ít  xâm 
lấn,  dễ  làm,  thực  hiện  nhanh  chóng  và  có  thể 
làm  lại  nhiều  lần  trong  quá  trình  theo  dõi 
ĐTBTKM(5). 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có  11t.h 
(9,5%)  được  ghi  nhận  ĐTBTKM  thất  bại  phải 
chuyển  qua  phẫu  thuật  hoặc  làm  thuyên  tắc 
mạch. Thời gian theo dõi chuyển mổ ghi nhận từ 
24 giờ đến 48 giờ. Trong 11t.h, có 6 t.h phải mổ 
mở khâu cầm máu do biểu biện chảy máu  tiếp 
diễn  và  viêm  phúc mạc,  4t.h  được  thuyên  tắc 
mạch  và 1 t.h mổ vì nghi ngờ tụ dịch mật trong 
ổ bụng. Tất cả các t.h mổ sau khi theo dõi đều ổn 
định và  được xuất viện. Không  có  trường hợp 
nào tử vong. Tỷ lệ thất bại của ĐTBTKM vỡ gan 
theo các nghiên cứu thay đổi từ 11 đến 15%(5,19,6). 
Riêng  tác  giả Ajai  k.Malhotra  có  tỷ  lệ  thất  bại 
7,5% trong 560t.h được ĐTBTKM(1). 
Về mức  độ  tổn  thương  gan,  nhiều  tác  giả 
khác chọn ĐTBTKM chủ yếu cho VGCT độ I, II 
và III(20,12). Một số tác giả chọn cả VGCT độ IV và 
V  cho  ĐTBTKM  miễn  là  huyết  động  còn  ổn 
định(3). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7 t.h 
vỡ gan độ IV và 1t.h vỡ gan độ V. Theo chúng 
tôi, VGCT độ IV hay V mà  thỏa các  tiêu chuẩn 
chọn lựa, nhất là huyết động ổn định, và không 
có dấu hiệu  thoát mạch  trên CT  thì vẫn có  thể 
ĐTBTKM bước đầu, nhưng phải theo dõi sát và 
sẵn  sàng  cho  tình huống  thất  bại phải  chuyển 
qua phẫu thuật. Với những t.h có dấu hiệu đang 
thoát mạch  (thì  động mạch)  trên CT mà huyết 
động bệnh nhân còn cho phép, nếu có trang bị, 
có  thể  thực  hiện  làm  tắc mạch  để  cầm máu, 
tránh  đi một  cuộc mổ(7). Chúng  tôi  đã  có  4  t.h 
được làm tắc mạch thành công. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  có  20t.h 
(19,3%) có biến chứng  liên quan đến ĐTBTKM, 
chủ yếu là sốt có lẽ do nhiễm khuẩn hay hoại tử 
tế bào gan phần gan bị  chấn  thương. Chỉ  có 1 
trường hợp tụ dịch máu dưới gan, 4t.h có rò mật 
và 1  t.h  có  tràn dịch màng phổi. Chúng  tôi  đã 
điều  trị bằng kháng sinh  trong các  trường hợp 
nhiễm khuẩn, chọc hút ổ tụ dịch, hay làm nội soi 
mật  tuy ngược dòng  (ERCP)  để giải áp  đường 
mậtTất cả các trường hợp sau khi điều trị các 
biến chứng đều ổn định, không có tử vong. 
Trong  chọn  lựa  bệnh  nhân  VGCT  để 
ĐTBTKM, nếu chúng ta bỏ sót các thương tổn 
của các cơ quan khác trong ổ bụng như là dập 
vỡ ruột non, dập vỡ tụy hay các cơ quan khác 
Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013  170
thì  sẽ  làm  tăng  tỷ  lệ  thất  bại  cũng  như  biến 
chứng và tử vong. Nhờ có CT bụng, chúng tôi 
không có t.h nào có tổn thương kèm ở cơ quan 
khác bị bỏ sót. Tỷ lệ bỏ sót chẩn đoán này theo 
y văn là 0,5‐12%(11). 
Việc  theo dõi ĐTBTKM bằng CT bụng vẫn 
còn  tranh  luận. Nhiều  nghiên  cứu  đã  đề  xuất 
chụp  lại CT bụng 7 – 10 ngày sau chấn thương 
để đánh giá lại. Một số tác giả khuyên chụp  lại 
CT bụng  có  chọn  lọc dựa vào mức  độ vỡ gan 
hay dựa vào diễn  tiến của bệnh. Nhiều  tác giả 
cho rằng, đối với bệnh nhân có VGCT mức độ 
nhẹ, diễn  tiến  lâm sàng  tốt  thì không cần chụp 
lại CT bụng mà chỉ cần  theo dõi bằng siêu âm. 
Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  hầu  hết  các 
bệnh nhân chỉ được theo dõi bằng siêu âm bụng 
để  kiểm  tra  dịch  ổ  bụng  và  tình  trạng  của  cơ 
quan tổn thương. Chúng tôi cũng đồng ý rằng, 
việc theo dõi bệnh nhân ĐBTKM vỡ gan do chấn 
thương bằng CT bụng nên dành cho bệnh nhân 
VGCT  độ  IV, V. Còn  lại,  chỉ  cần  theo dõi  lâm 
sàng, xét nghiệm phối hợp với siêu âm bụng là 
đủ. 
Chọn  lựa  ĐTBTKM  cho  VGCT,  nhất  là 
VGCT  độ  IV, V  thường  đồng  nghĩa  với  thời 
gian nằm viện kéo dài vì phải theo dõi đến khi 
ổn, vì phải  xử  trí  các biến  chứng  có  thể  có(7). 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian nằm 
viện trung bình 6,35± 3,13 ngày, bệnh nhân có 
thời  gian  nằm  viện  lâu  nhất  là  29  ngày,  và 
ngắn nhất là 1 ngày. Nghiên cứu của chúng tôi 
có thời gian nằm viện trung bình thấp hơn một 
số  tác  giả  khác,  như  nghiên  cứu  của  tác  giả 
Hayan A. Bismar là 9‐12 ngày, nghiên cứu của 
George  C.Velmahos  là  13  ngày  Gustav 
Norrman là 14 ngày(4,8,14). 
Vì  phần  lớn  bệnh  nhân  của  chúng  tôi  là 
VGCT  độ  III  trở  lại  nên  có  đến  77t.h  (66,38%) 
không phải nắm điều trị ở khoa hồi sức. Ở 39t.h 
còn  lại  thì có 22t.h phải nằm điều  trị ở hồi sức 
dưới 3 ngày. Có 1  t.h phải nằm hồi  sức  trên 7 
ngày  vì  bệnh  nhân  ĐTBTKM  thất  bại,  sau  đó 
được chỉ định làm tắc mạch, đến ngày thứ 5 tình 
trạng chảy máu vẫn tiếp diễn, có dấu hiệu kích 
thích phúc mạc nên được chuyển mổ khâu gan 
cầm máu. 
KẾT LUẬN 
Với bệnh nhân VGCT  có  tình  trạng huyết 
động  ổn  định, không  có  các  tổn  thương kèm 
trong ổ bụng cần can thiệp phẫu thuật, mức độ 
tổn  thương  gan  nhẹ  (độ  III  trở  lại)  thì 
ĐTBTKM có tỷ lệ thành công cao, là điều trị an 
toàn,  tỷ  lệ  biến  chứng  thấp.  Tuy  nhiên,  việc 
thực  hiện  ĐTBTKM  vỡ  gan  do  chấn  thương 
cần  được  thực  hiện  ở  các  trung  tâm  có  khoa 
hồi  sức  và  đội  ngũ  phẫu  thuật  viên  có  kinh 
nghiệm  để  can  thiệp kịp  thời  các  trường hợp 
ĐTBTKM  thất  bại.  Trong  theo  dõi  ĐTBTKM, 
tình trạng huyết động, dung tích hồng cầu và 
mức  độ  dịch  ổ  bụng  là  những  thông  số  cần 
được  đánh  giá  thường  xuyên  để  quyết  định 
tiếp tục hay chấm dứt ĐTBTKM kịp thời.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ajai k.Malhotra, Timothy C.Fabian, et al(2000), “Blunt hepatic 
injury:  A  paradigm  shiff  from  operative  to  nonoperative 
management in the 1990s”, Ann Surg, , 231 (6): pp.804‐813. 
2. Ayman  Zaki Azzam,  et  al  (2013)  “The  role  of  non‐operative 
management  (NOM)  in  blunt  hepatic  trauma”;  Alexandria 
Journal of Medecine;, 49: pp.223‐227 
3. Beuran M, Negoi I, et al (2010), “ Nonoperative management of 
high degree hepatic trauma  in the patient with risk factors for 
failure: have we gone  too  far?”,  Journal of Medicine and Life,  
3(3): pp.289‐296. 
4. Bismar HA, Alam MK, et al (2004), “Outcome of nonoperative 
management of blunt live trauma”, Saudi Medicine Journal, , 25 
(3): pp.294‐298. 
5. Carmen  Garcia  Bernardo,  et  al  (2010)  “  Treatment  of  Live 
Trauma:  Opertive  or  conservative  management”, 
Gastroenteology Research; 3(1): pp.9‐18 
6. Croce MA, Fabian TC, et al(1991), “Factor affecting morbidity 
following hepatic trauma”, Ann.Surg, , 213 (6): pp.540‐547. 
7. Demetriades  D,  Hadjizacharia  P  2006,  et  al,    “Selective 
nonoperative  management  of  penetrating  abdominal  solid 
organ injuries”, Ann Surg , 244 (4): pp.620‐628. 
8. Giannopoulos GA, et al (2009) “ Non‐operative management of 
blunt abdominal trauma.Is it safe an feasible in a district general 
hospital?”,  Scand  J  Trauma,  Resuscitation  and  Emergency 
Medicine, 17: pp.22 
9. Hamdy  H,  et  al  “Evaluation  of  management  options  for 
traumatic live injuries”; Egypt J Surg, 31(1). 
10. Letoublon C., Arvieux C (2002),, “Nonoperative management of 
blunt hepatic trauma”, Minerva Anesthesiol, 68: pp.132‐137. 
11. Markogiannakis H, Sanidas E, Messaris E 2006,, “Management 
of blunt hepatic and splenic trauma in a Greek level I trauma”, 
Acta Chir Belg, 106: pp. 566‐571. 
12. Nguyễn Thanh Phước (2002),  “Điều trị vỡ gan chấn thương”, 
Luận án Thạc sỹ Y học, trường ĐHYD TP.HCM