Mở đầu: Đục thể thuỷ tinh (đục TTT) trong chấn thương xuyên thủng là bệnh lý thường gặp. Việc đặt
kính nội nhãn (KNN) mềm, trong bao, với đường mổ nhỏ là bước đột phá lớn trong phẫu thuật, nhưng tại Việt
nam đến nay chưa có tổng kết đầy đủ về hiệu quả phục hồi thị lực và các biến chứng liên quan.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật đục TTT trong chấn thương xuyên thủng gây rách bao trước đơn
thuần.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả, không có nhóm chứng. Thực hiện việc đánh giá kết quả phẫu
thuật 83 trường hợp đục TTT trong chấn thương xuyên thủng gây rách bao trước đơn thuần được điều trị phẫu
thuật tại khoa Chấn thương, BV. Mắt TP.HCM từ 01/02/2010 đến 31/01/2011.
Kết quả: Sử dụng phẫu thuật lấy TTT ngoài bao, đặt KNN mềm với đường mổ nhỏ trực tiếp trên giác mạc
cho tất cả các trường hợp. 18/83 trường hợp đủ điều kiện mổ 1 thì. Hơn 80% trường hợp mổ 1 thì và gần 70%
mổ 2 thì đạt thị lực ≥ 1/10 ngay sau mổ 1 ngày. Thị lực đạt tối đa vào thời điểm 6 tháng, trong đó hơn 70%
trường hợp mổ 1 thì và gần 40% mổ 2 thì đạt thị lực 5/10. Sự cải thiện thị lực tốt hơn ở nhóm mổ 1 thì
(p0,03). Biến chứng sớm sau mổ gồm viêm màng bồ đào, phù giác mạc và tăng nhãn áp. Biến chứng muộn sau
mổ là đục bao sau và kính nội nhãn lệch tâm. Sự khác biệt về biến chứng giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
Kết luận: Nên sử dụng phẫu thuật lấy TTT ngoài bao, đặt KNN mềm 3 mảnh với đường mổ nhỏ trực tiếp
trên giác mạc cho những trường hợp đục TTT trong chấn thương xuyên thủng. Có thể mổ 1 thì khi đủ điều kiện.
9 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 11/06/2022 | Lượt xem: 311 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá kết quả phẫu thuật đục thể thuỷ tinh trong chấn thương xuyên thủng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 60
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT ĐỤC THỂ THUỶ TINH
TRONG CHẤN THƯƠNG XUYÊN THỦNG
Nguyễn Thị Diễm Uyên*, Trần Thị Phương Thu*
TÓM TẮT
Mở đầu: Đục thể thuỷ tinh (đục TTT) trong chấn thương xuyên thủng là bệnh lý thường gặp. Việc đặt
kính nội nhãn (KNN) mềm, trong bao, với đường mổ nhỏ là bước đột phá lớn trong phẫu thuật, nhưng tại Việt
nam đến nay chưa có tổng kết đầy đủ về hiệu quả phục hồi thị lực và các biến chứng liên quan.
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật đục TTT trong chấn thương xuyên thủng gây rách bao trước đơn
thuần.
Phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu mô tả, không có nhóm chứng. Thực hiện việc đánh giá kết quả phẫu
thuật 83 trường hợp đục TTT trong chấn thương xuyên thủng gây rách bao trước đơn thuần được điều trị phẫu
thuật tại khoa Chấn thương, BV. Mắt TP.HCM từ 01/02/2010 đến 31/01/2011.
Kết quả: Sử dụng phẫu thuật lấy TTT ngoài bao, đặt KNN mềm với đường mổ nhỏ trực tiếp trên giác mạc
cho tất cả các trường hợp. 18/83 trường hợp đủ điều kiện mổ 1 thì. Hơn 80% trường hợp mổ 1 thì và gần 70%
mổ 2 thì đạt thị lực ≥ 1/10 ngay sau mổ 1 ngày. Thị lực đạt tối đa vào thời điểm 6 tháng, trong đó hơn 70%
trường hợp mổ 1 thì và gần 40% mổ 2 thì đạt thị lực 5/10. Sự cải thiện thị lực tốt hơn ở nhóm mổ 1 thì
(p0,03). Biến chứng sớm sau mổ gồm viêm màng bồ đào, phù giác mạc và tăng nhãn áp. Biến chứng muộn sau
mổ là đục bao sau và kính nội nhãn lệch tâm. Sự khác biệt về biến chứng giữa 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
Kết luận: Nên sử dụng phẫu thuật lấy TTT ngoài bao, đặt KNN mềm 3 mảnh với đường mổ nhỏ trực tiếp
trên giác mạc cho những trường hợp đục TTT trong chấn thương xuyên thủng. Có thể mổ 1 thì khi đủ điều kiện.
Từ khoá: đục thể thuỷ tinh, chấn thương xuyên thủng, kính nội nhãn, thị lực.
ABSTRACT
EVALUATING RESULT OF PENETRATING TRAUMATIC CATARACT SURGERY
Nguyen Thi Diem Uyen, Tran Thi Phuong Thu
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 60 - 68
Background: Penetrating traumatic cataract is a common problem in practice. The using of small incision
extra-capsular cataract extraction with soft intraocular lens (IOL) implantation is the new technology in cataract
surgery, but the clinical outcome of traumatic cataract, mode of management, and postoperative complications
didn’t fully know.
Objective: Evaluating the result of penetrating traumatic cataract surgery: clinical outcome, mode of
management, and postoperative complications.
Methods: prospective study without control group. We evaluated 83 cases with penetrating traumatic
cataract treated in the Department of Trauma, HCMC Eye Hospital to pass the cataract surgery from February 1st
2010 to January 31th 2011.
Results: Small incision extra-capsular cataract extraction with intraocular lens (IOL) implantation was
* BV. Mắt TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Diễm Uyên ĐT: 0918279696 Email:
nguyenthidiemuyen@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 61
performed in these cases. 18/83 cases were primary cataract surgeries (group 1), the others were secondary
cataract surgeries (group 2). More than 80% of group 1 and nearly 70% of group 2 got the visual acuity ≥1/10
postoperative in 1 day. After 6 months, the visual acuity improvement got maximum, with more than 70% of
group 1 and nearly 40% of group 2 got the visual acuity ≥ 5/10. the visual acuity improvement in group 1 was
better than group 2 (p≤0.03). The early postoperative complications were uveitis, edema of the cornea and
glaucoma. Late postoperative complications were posterior capsule opacification and IOL eccentricity. The
difference in complications between the two groups were no statistically significant (p>0.05).
Conclusion: We should use small incision extra-capsular cataract extraction with 3 piece- soft IOL
implantation for penetrating traumatic cataract surgery. Primary cataract surgery can choose if available.
Key words: penetrating traumatic cataract; cataract extraction; IOL implantation; visual acuity.
MỞ ĐẦU
Hàng năm trên thế giới có 55 triệu mắt bị
chấn thương. Tại BV. Mắt TPHCM, trong 6
tháng đầu 2010, có 683 trường hợp chấn thương
mắt nhập viện, trong đó chấn thương xuyên
thủng chiếm tỉ lệ 42,8%, đục TTT do chấn
thương xuyên thủng chiếm tỉ lệ 38%(15).
Trước đây, phẫu thuật lấy TTT đặt KNN đi
đường hầm củng mạc, với đường mổ dài và
dùng kính cứng. Ngày nay, phẫu thuật lấy TTT
đặt KNN mềm, trong bao, đường mổ nhỏ tạo ra
bước đột phá lớn vì cho thị lực phục hồi sớm,
chăm sóc hậu phẫu nhẹ nhàng.
Với đục TTT chấn thương rách bao trước
đơn thuần, hiện trên thế giới, thời điểm lấy TTT
đặt KNN vẫn chưa thống nhất 1 thì hay 2 thì.
Tại BV. Mắt TP.HCM, phần lớn được thực
hiện 2 thì, 1 số trường hợp chọn lọc được thực
hiện 1 thì(15). Tuy nhiên vẫn chưa có tổng kết
về hiệu quả phục hồi thị lực và các biến
chứng liên quan.
Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận xét một số đặc điểm dịch tễ và lâm
sàng.
- Đánh giá kết quả phục hồi thị lực và các
biến chứng.
- Phân tích các khía cạnh kỹ thuật của
phẫu thuật.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Dân số chọn mẫu
Tất cả các bệnh nhân tuổi ≥16 bị đục TTT sau
chấn thương xuyên thủng nhãn cầu đến điều trị
phẫu thuật tại khoa Chấn thương, BV. Mắt
TP.HCM từ 01/02/2010 đến 31/01/2011 và thỏa
đủ tiêu chuẩn chọn mẫu.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Tuổi ≥16.
- Ghi nhận bị đục TTT kèm rách bao trước
đơn thuần.
- Không có dị vật nội nhãn.
- Không có các bệnh lý khác tại mắt có ảnh
hưởng đến thị lực.
- Vết thương xuyên thủng chỉ ở trên
giác mạc.
- Hiểu và đồng ý tham gia nghiên cứu.
Biểu đồ 1: Qui trình nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
- Có dị vật nội nhãn.
- Có rách bao sau.
- Rách đến củng mạc.
- Có các bệnh lý khác tại mắt có ảnh hưởng
đến thị lực.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 62
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Tiến cứu mô tả, không có nhóm chứng.
Cỡ mẫu
78 trường hợp.
Kỹ thuật mổ lấy TTT- đặt KNN
Chúng tôi quyết định chọn kỹ thuật mổ lấy
TTT ngoài bao cho tất cả các trường hợp nêu
trên.
Ghi nhận các biến cố trong lúc mổ và sau mổ:
Bệnh nhân nằm lại ít nhất 3 ngày để theo dõi
sau mổ và ghi nhận các biến chứng sớm (nếu
có).
Bệnh nhân được tái khám sau mổ tại các thời
điểm 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng để ghi
nhận các biến chứng sớm và muộn.
Thu thập số liệu
Kết thúc việc phẫu thuật vào thời điểm
31/01/2011; tiếp tục thu thập số liệu đến
30/7/2011 (đảm bảo theo dõi tối thiểu là 6 tháng
cho mỗi trường hợp).
Xử lý số liệu
Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS
11.5.
Dùng phép kiểm chi bình phương để đánh
giá sự khác biệt giữa 2 tỉ lệ.
Kết quả trình bày dưới dạng bảng thống kê
và biểu đồ.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Một số đặc điểm dịch tễ
Giới: Tỉ lệ nam/nữ = 2,77/1.
Bảng 1: Phân bố bệnh nhân theo tuổi
Trung bình 30,7 tuổi
Trung vị 30 tuổi
Nhỏ nhất 16 tuổi
Lớn nhất 45 tuổi
Địa chỉ: 4/5 đến từ các tỉnh/TP khác.
Nghề nghiệp: Hơn 2/3 là lao động phổ
thông.
Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trong và ngoài nước: đa số là nam, trẻ tuổi, lao
động phổ thông(10,11,12).
Các yếu tố bệnh sử
Bảng 2: Nguyên nhân chấn thương
Nguyên nhân Tỉ lệ%
Lao động 62,7
Sinh hoạt 34,9
Khác 2,4
Kết quả này phù hợp với y văn: chấn
thương thường xảy ra trong lao động và sinh
hoạt, với tỉ lệ thay đổi từ 54,2 – 90%(10,11,12).
Bảng 3: Nơi xử trí và cách xử trí chấn thương ban
đầu
Cách xử trí ban đầu Tổng
số (%) Không
(%)
Ngoại khoa
(%)
Nội khoa
(%)
BV. Mắt TP.HCM
(n=52)
0 88,5 11,5 62,7
Cơ sở y tế (n=31) 25,8 22,6 51,6 37,3
Tổng số (n=83) 9,6 63,9 26,5 100
Ghi nhận có hơn 1/3 số bệnh nhân đến khám
và được tiếp cận xử trí ban đầu tại cơ sở y tế
tuyến trước. Trong số bệnh nhân này, có 22,6%
được khâu vết rách giác mạc tại cơ sở, đặc biệt
có đến 25,8% bệnh nhân không được xử trí gì
khi đến khám ban đầu tại cơ sở y tế tuyến trước
sau chấn thương.
Bảng 4: Thời gian từ lúc chấn thương đến lúc mổ
(giờ)
Tối thiểu Tối đa Trung bình Tổng (%)
Mổ 1 thì 1 7 4,1 18 (21,7)
Mổ 2 thì 3 43 11,8 65 (78,3)
Chung 1 43 10,1 83 (100)
Bảng 5: Phân nhóm thời gian mổ 2 thì
Mổ 2 thì
(n=65)
1-7 ngày 8-14 ngày ≥15 ngày
Tỉ lệ% 20 52,3 27,7
Có 1/5 số bệnh nhân đủ điều kiện để có thể
mổ 1 thì, với thời gian từ lúc chấn thương đến
lúc mổ trung bình là 4,1 ngày. Kết quả này phù
hợp với các tác giả trong và ngoài nước(6,10,16).
Ghi nhận thời gian từ lúc chấn thương đến
lúc mổ 2 thì sau khi xử trí vết rách giác mạc
trung bình là 11,8 ngày, sớm nhất 3 ngày, muộn
nhất 43 ngày. Các ca mổ sớm có liên quan đến
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 63
tăng nhãn áp thứ phát và tình trạng viêm nội
nhãn do thoát chất nhân ra tiền phòng không
kiểm soát được. Điều này phù hợp với khuyến
cáo của tác giả Muga R(9) theo đó một số trường
hợp như tăng nhãn áp thứ phát và tình trạng
viêm nội nhãn không kiểm soát cần phải xử trí
mổ 2 thì sớm trong vòng tuần đầu sau mổ xử trí
vết rách giác mạc.
Các trường hợp khác có thể trì hoãn phẫu
thuật đến 6 tuần.
Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
trước mổ
Bảng 6: Thị lực mắt chấn thương trước mổ
Nghiên cứu Số bệnh nhân
Tỉ lệ thị lực
ĐNT <4m
Chan T(2) 42 96,1%
Fyodorov S
(4)
1004 85%
Chuang L
(2)
47 99%
N.H.Chức
(10)
64 87%
N.T.D.Uyên 83 Mổ 1 thì: 94,4%
Mổ 2 thì: 98,5%
Chung: 97,6%
Chúng tôi ghi nhận 97,6% các trường hợp có
thị lực mắt chấn thương lúc nhập viện ĐNT4m.
Như vậy, nhóm bệnh nhân của chúng tôi có
những đặc điểm thị lực mắt chấn thương lúc
nhập viện khá phù hợp với các nghiên cứu
trong nước và nước ngoài. Với thị lực này thì chỉ
định phẫu thuật xử trí vết thương xuyên thủng
cũng như mổ lấy TTT chấn thương đặt kính nội
nhãn là hết sức cần thiết nhằm cải thiện thị lực
và ngừa biến chứng.
Bảng 7: Nhãn áp mắt chấn thương trước mổ (2 thì)
Nghiên cứu Số bệnh nhân Nhãn áp >22mmHg
Chan T
(2)
42 20%
Fyodorov S
(4)
. 1004 13%
Chuang L
(2)
47 23%
L.T.Đ. Phương
(6)
112 18%
N.T.D.Uyên 83 24,6% (2 thì)
Chúng tôi ghi nhận 24,6% số bệnh nhân có
nhãn áp mắt chấn thương >22mmHg vào thời
điểm trước mổ, không đáp ứng với điều trị hạ
nhãn áp nội khoa. Điều này có thể là do chấn
thương xuyên thủng gây rách bao làm thoát
chất nhân ra tiền phòng dẫn đến đáp ứng đại
thực bào lắng đọng vùng lưới bè mà chậm
được xử trí.
Chúng tôi không thực hiện đo nhãn áp trên
mắt chấn thương mổ 1 thì vì có thể tăng nguy cơ
nhiễm khuẩn, phòi mống mắt cũng như làm
nặng nề hơn tổn thương trong nội nhãn như
khuyến cáo của tác giả Daniel M.
Biểu hiện tại kết mạc
Chúng tôi ghi nhận biểu hiện kết mạc ở cả 2
nhóm mổ thường gặp nhất là cương tụ rìa, kế
đến là rách và phù kết mạc.
Nhận thấy phần lớn các trường hợp cương
tụ rìa kết mạc cũng có phản ứng chất nhân gây
viêm nội nhãn (dấu hiệu Tyndall (+) và tăng
nhãn áp.
Đặc điểm vết rách giác mạc
Vị trí và kích thước của vết rách giác mạc là
những yếu tố tiên lượng quan trọng đến sự
phục hồi thị lực sau mổ(2). Theo tác giả Chuang
L(2) và Panda A(10) thì với các vết rách giác mạc
trung tâm sẽ tạo sẹo giác mạc gây cản trở trục
thị giác, gây nên tình trạng loạn thị không đều ở
giác mạc, cả 2 yếu tố nêu trên sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phục hồi thị lực sau mổ.
28%
51%50%
35%
22%
12%
0 2%
0
10
20
30
40
50
60
Thì 1 Thì 2
Trung taâm Ngoaïi vi Caïnh trung taâm Lan roäng
Biểu đồ 2: Vị trí vết rách giác mạc
Chúng tôi ghi nhận có gần 70% số trường
hợp mổ 1 thì có vết rách giác mạc nhỏ (2mm), ở
cạnh trung tâm và ngoại vi giác mạc. Trong khi
đó ở nhóm mổ 2 thì chỉ có hơn 20% các trường
hợp có vết rách giác mạc nhỏ (2mm). và hơn
50% nằm ở trung tâm giác mạc.
Tất cả các trường hợp mổ 1 thì có vết rách
giác mạc bít gọn, với đại đa số là giác mạc còn
trong, trong khi ở nhóm mổ 2 thì giác mạc còn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 64
trong chỉ ghi nhận ở 68% trường hợp, và những
trường hợpcó vết rách giác mạc phức tạp được
chỉ định mổ 2 thì.
Đặc điểm tổn thương mống mắt
72%
83%
12%
11%
5%
6%
5%
1%
5%
0 20 40 60 80 100
Thì 2
Thì 1
> 2 daáu hieäu
Phoøi keït moáng
Thoaùi hoùa moáng
Raùch moáng
Dính moáng
Khoâng
Biểu đồ 3: Đặc điểm tổn thương mống mắt
Chúng tôi ghi nhận dính mống mắt là tổn
thương mống mắt thường gặp nhất (12%), phần
lớn là dính ở mặt sau giác mạc tại mép vết mổ
và dính ở mặt trước TTT. Việc dính ở mặt sau
giác mạc tại mép vết mổ có thể là do chấn
thương xuyên thủng ban đầu, cũng có thể do xử
trí khâu giác mạc trước đó chưa tốt. Còn dính ở
mặt trước TTT có thể do tình trạng viêm màng
bồ đào trước đó gây nên.
Đặc điểm nhân TTT
Chúng tôi ghi nhận tất cả các trường hợp
này có nhân TTT mềm (cứng độ I), tuyệt đại
đa số (96,4%) có biểu hiện đục toàn bộ nhân.
Điều đó được lý giải là chấn thương gặp ở
tuổi trẻ, đục TTT xảy ra do thủy dịch đi vào
bên trong TTT một cách tự do sau chấn
thương xuyên thủng, các sợi TTT ngấm nước
và gây nên hiện tượng đục. Hình thái đục
toàn bộ nhân làm thị lực bệnh nhân giảm sút
nhanh chóng nên khiến bệnh nhân đi mổ sớm
hơn so với đục vỏ và đục nhân.
Vị trí và kích thước rách bao TTT
Chúng tôi ghi nhận có 30% số bệnh nhân
có vết rách khu trú ở trung tâm, với đa số các
vết rách bao khá rộng (81,9% rách >3mm).
Điều này sẽ gây nhiều khó khăn trong thì xé
bao, hạn chế khả năng đặt kính nội nhãn
trong bao, có thể làm tăng nguy cơ lệch tâm
kính nội nhãn sau mổ cũng như tăng tình
trạng đục bao sau. Kết quả này phù hơp với
nghiên cứu của tác giả Panda A(10) khi ghi
nhận có 21% trường hợp rách khu trú ở trung
tâm, 76% có kích thước rách bao rộng >4mm.
Mức độ viêm màng bồ đào trước mổ
17%
39%
65%
56%
17%
5%
1%
0 10 20 30 40 50 60 70
Thì 2
Thì 1 (+++)
(++)
(+)
Tyndall (-)
Biểu đồ 4: Mức độ viêm màng bồ đào trước mổ
Chúng tôi ghi nhận có 20% ở nhóm mổ 2
thì có viêm màng bồ đào mức độ trung bình-
nặng vào thời điểm trước mổ. Có thể lý giải là
do chấn thương xuyên thủng gây rách bao
làm thoát chất nhân ra tiền phòng dẫn đến
đáp ứng đại thực bào mà chậm được xử trí.
Các biến cố lúc mổ
Bảng 8: Các biến cố lúc mổ
Mổ 1 thì Mổ 2 thì Chung Giá trị p
Rách bao
sau
5,6% 4,6% 4,8% 0,87
Y văn: Tỉ lệ này dao động từ 5,6% (Bowman R, 1 thì)
(1)
,
từ 5% đến 47% [Mietz H, 2 thì]
(6)
Thoát
dịch kính
5,6% 4,6% 4,8% 0,87
Y văn: Tỉ lệ này dao động từ 3% đến 13%
(1)
Chúng tôi ghi nhận biến cố trong lúc mổ bao
gồm rách bao sau và thoát dịch kính (5,6% ở
nhóm mổ 1 thì và 4,6% ở nhóm mổ 2 thì). Không
có sự khác biệt có ý nghĩa về biến cố trong lúc
mổ giữa 2 nhóm. Tỉ lệ biến cố trong lúc mổ của
chúng tôi thấp hơn các nghiên cứu khác, điều
này có thể lý giải do tất cả các trường hợp mổ
trong nhóm nghiên cứu này đều được thực hiện
với vết mổ nhỏ trực tiếp trên giác mạc nên hạn
chế được tình trạng xuất huyết và tổn thương
bao sau.
Các yếu tố sau mổ
Thị lực sau mổ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 65
Bảng 9: Kết quả thị lực sau mổ
Nghiên cứu Số bn Thị lực sau mổ ≥6 tháng
Mổ 1 thì
Moiseiev J(8) 21 100% ≥2/10; 95% ≥ 3/10; 67% ≥
5/10
Xiang Q
(18)
36 100% ≥1/10; 77,2% ≥ 4/10, 37,1%
≥ 6/10
Weinand F(1) 15 80% ≥ 2/10; 53% ≥ 5/10
Bowmann R(1) 72 71% ≥ 3/10
Mổ 2 thì
Synder A (14) 41 85,7% ≥ 1/10; 71,4% ≥ 3/10
N.T.D.Uyên 83 Mổ 1thì: 100% ≥ 1/10; 72% 5/10
Mổ 2 thì: 90,8% ≥ 1/10; 38,5%
5/10 (p≤0,03)
Hơn 80% trường hợp mổ 1 thì và gần 70%
mổ 2 thì đạt thị lực ≥ 1/10 ngay sau mổ 1 ngày.
Thị lực đạt tối đa vào thời điểm 6 tháng, trong
đó hơn 70% trường hợp mổ 1 thì và gần 40% mổ
2 thì đạt thị lực 5/10. Sự cải thiện thị lực tốt
hơn ở nhóm mổ 1 thì (p0,03). Kết quả phục hồi
thị lực trong nghiên cứu của chúng tôi không
khác biệt so với các tác giả trong và ngoài nước.
Các biến chứng sớm sau mổ
Bảng 10: Các biến chứng sớm sau mổ
Mổ 1 thì Mổ 2 thì Giá trị p
Viêm màng bồ đào 22,2% 40% 0,13
Phù giác mạc 11,1% 12,3% 0,92
Tăng nhãn áp 11,1% 6,2% 0,87
Viêm mủ nội nhãn 5,6% 0 0,87
Chúng tôi ghi nhận viêm màng bồ đào là
một trong những biến chứng sau mổ thường
gặp nhất với tỉ lệ xuất hiện vào thời điểm 1 ngày
sau mổ là 36,1% nếu tính chung, 22,2% ở nhóm
mổ 1 thì và 40% ở nhóm mổ 2 thì. Biến chứng
này xuất hiện ngay sau mổ 1 ngày, mức độ nhẹ,
giảm dần và kết thúc khoảng 2 tuần sau. Kết quả
của chúng tôi không khác biệt so với các tác giả
nước ngoài khi tỉ lệ này dao động từ 30,9 –
40%(1,14).
Phù giác mạc cũng là một trong những biến
chứng sau mổ thường gặp với tỉ lệ xuất hiện 1
ngày sau mổ là 11 – 12%. Tỉ lệ phù giác mạc
trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn các tác
giả khác(1,14), có thể là do bệnh nhân đến viện và
được can thiệp phẫu thuật tương đối sớm. Biến
chứng này nhẹ, giảm dần, và có thể xử lý nội
khoa được.
Tăng nhãn áp có thể xuất hiện ngay ngày
đầu sau mổ (11,1% ở nhóm mổ 1 thì, 6,2% ở
nhóm mổ 2 thì), có thể tăng dần theo thời gian
(ở nhóm mổ 2 thì, đạt tỉ lệ 12% vào thời điểm 1
tuần sau mổ). Sau đó giảm dần, và tất cả có thể
xử lý nội khoa ổn định sau đó.
Ghi nhận có 5,6% (1trường hợp) nhóm mổ
1 thì bị viêm mủ nội nhãn. Đây là trường hợp
bệnh nhân nhập viện 6 ngày sau khi bị cọng
kẽm đâm gây xuyên thủng giác mạc với thị
lực bóng bàn tay, khám trước mổ ghi nhận thể
thủy tinh vỡ bung chất nhân ra tiền phòng.
Một ngày sau mổ bắt đầu ghi nhận có tình
trạng viêm mủ nội nhãn, song song việc nuôi
cấy và làm kháng sinh đồ (nuôi cấy ra cầu
khuẩn gram (+) Bacillus species), chúng tôi
quyết định cắt dịch kính, tiêm kháng sinh vào
tiền phòng và buồng dịch kính (ceftazidime
và vancomycin) kết hợp kháng sinh uống và
nhỏ (fluoroquinolone). Trường hợp này tình
trạng viêm mủ nội nhãn giảm dần và ổn định
sau 2 tuần điều trị tích cực (thị lực ra viện đạt
1/10).
Không có sự khác biệt có ý nghĩa về các biến
chứng sớm sau mổ giữa 2 nhóm.
Các biến chứng muộn sau mổ
Tình trạng kính nội nhãn không chính tâm
Đây là biến chứng không thường gặp (5 –
6%), có thể phát hiện ngay sau mổ 1 ngày, tăng
nhẹ theo thời gian (ở nhóm mổ 2 thì)(p>0,05).
Thường gặp khi dùng kính mềm 1 mảnh
(50%) so với 3 mảnh (7,6%), sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (p=0,005).
Không có mối liên quan với vị trí đặt KNN
và kích thước rách bao trước TTT.
Tình trạng đục bao sau sau mổ
Bảng 11: Tình trạng đục bao sau sau mổ
Nghiên cứu Thì mổ Đục bao sau (6 tháng)
Weinand F
(17)
1 thì 25%
Bowman R(1) 1 thì 32%
Joseph M 1 thì 57,6%
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Mắt – Tai Mũi Họng 66
Nghiên cứu Thì mổ Đục bao sau (6 tháng)
V.A. Tuấn
(16)
1 thì 33,3%
N.T.D.Uyên 1 thì
2 thì
Chung
16,7%
40% (p>0,05)
34,9%
Chúng tôi ghi nhận tình trạng đục bao sau
bắt đầu xuất hiện 1 tháng sau mổ 2 thì (3 tháng
sau mổ 1 thì), tăng dần về số lượng và mức độ
theo thời gian. Ở thời điểm 6 tháng sau mổ tỉ lệ
này là 16,7% nếu mổ 1 thì, 40% nếu mổ 2 thì, và
34,9% nếu tính chung cả 2 nhóm.
Tình trạng loạn thị giác mạc:
Chấn thương xuyên thủng nhãn cầu rất
thường dẫn đến loạn thị giác mạc sau mổ.
Theo tác giả Panda A(10), có 73% số trường
hợp có loạn thị giác mạc sau mổ, với độ loạn
thị trung bình <3 diop.
Chúng tôi ghi nhận có gần 95% trường hợp
mổ 1 thì có tình trạng loạn thị giác mạc sau mổ,
trong khi tỉ lệ này ở nhóm mổ 2 thì là 100%. Sự
khác biệt này gần đạt ý