Đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao (HRM) là một thăm dò mới trong bệnh trào ngược dạ
dày - thực quản (GERD). Nghiên cứu đánh giá rối loạn nhu động và cơ thắt thực quản dưới (LES) ở bệnh
nhân có triệu chứng trào ngược dạ dày - thực quản và khảo sát liên quan với triệu chứng lâm sàng. Kết quả
thu tuyển được 217 bệnh nhân, tuổi trung bình 46,9 ± 11,7 và 72,4% nữ giới. 101 bệnh nhân (46,5%) có
giảm nhu động và 122 (56,2%) có giảm trương lực cơ thắt thực quản dưới. Áp lực cơ thắt thực quản dưới
nền và khi nuốt thấp hơn ở nhóm giảm nhu động so với nhóm nhu động bình thường (15,9 ± 8,0 so với 19,0
± 8,6 và 15,6 ± 7,9 so với 19,9 ± 8,5; p < 0,05). Tỷ lệ viêm thực quản trào ngược ở nhóm nhu động bình
thường cao hơn so với nhóm giảm nhu động (51,9% so với 34,9%, p < 0,05). Áp lực cơ thắt thực quản dưới
không có tương quan với điểm bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày - thực quản và FSSG. Không có bằng
chứng về mối liên quan của rối loạn nhu động và áp lực thực quản với các triệu chứng lâm sàng gợi ý trào
ngược dạ dày - thực quản
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đánh giá tình trạng rối loạn nhu động thực quản và thay đổi áp lực cơ thắt thực quản dưới ở bệnh nhân có triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày - thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
118 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Địa chỉ liên hệ: Đào Việt Hằng, Viện Nghiên cứu và Đào
tạo Tiêu hóa, Gan mật
Email: hangdao.fsh@gmail.com
Ngày nhận: 19/9/2018
Ngày được chấp thuận: 20/10/2018
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG RỐI LOẠN NHU ĐỘNG THỰC QUẢN
VÀ THAY ĐỔI ÁP LỰC CƠ THẮT THỰC QUẢN DƯỚI
Ở BỆNH NHÂN CÓ TRIỆU CHỨNG
CỦA BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY - THỰC QUẢN
Đào Việt Hằng1,2, Lã Diệu Hương2, Hoàng Bảo Long1, Đào Văn Long1,2
1Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan mật
2Trường Đại học Y Hà Nội
Đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao (HRM) là một thăm dò mới trong bệnh trào ngược dạ
dày - thực quản (GERD). Nghiên cứu đánh giá rối loạn nhu động và cơ thắt thực quản dưới (LES) ở bệnh
nhân có triệu chứng trào ngược dạ dày - thực quản và khảo sát liên quan với triệu chứng lâm sàng. Kết quả
thu tuyển được 217 bệnh nhân, tuổi trung bình 46,9 ± 11,7 và 72,4% nữ giới. 101 bệnh nhân (46,5%) có
giảm nhu động và 122 (56,2%) có giảm trương lực cơ thắt thực quản dưới. Áp lực cơ thắt thực quản dưới
nền và khi nuốt thấp hơn ở nhóm giảm nhu động so với nhóm nhu động bình thường (15,9 ± 8,0 so với 19,0
± 8,6 và 15,6 ± 7,9 so với 19,9 ± 8,5; p < 0,05). Tỷ lệ viêm thực quản trào ngược ở nhóm nhu động bình
thường cao hơn so với nhóm giảm nhu động (51,9% so với 34,9%, p < 0,05). Áp lực cơ thắt thực quản dưới
không có tương quan với điểm bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày - thực quản và FSSG. Không có bằng
chứng về mối liên quan của rối loạn nhu động và áp lực thực quản với các triệu chứng lâm sàng gợi ý trào
ngược dạ dày - thực quản.
Từ khóa: bệnh trào ngược dạ dày - thực quản, đo áp lực và nhu động thực quản độ phân giải cao,
rối loạn giảm nhu động thực quản, cơ thắt thực quản dưới
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo đồng thuận Montreal, bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản được định nghĩa là
“rối loạn trong đó các chất từ dạ dày lên thực
quản gây các triệu chứng khó chịu và/hoặc
biến chứng.” [1]. Tỷ lệ phát hiện bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản có xu hướng gia
tăng qua thời gian, giai đoạn 2005 - 2009 cao
hơn 1,5 lần so với trước năm 1995 [2]. Tại
Đông Nam Á, tỷ lệ hiện mắc ước tính của
bệnh trào ngược dạ dày - thực quản là 5 -
10,1% [3].
Bác sĩ lâm sàng thường gặp nhiều khó khăn
trong chẩn đoán và điều trị bệnh trào ngược
dạ dày - thực quản. Các bảng điểm lâm sàng
để chẩn đoán trào ngược dạ dày - thực quản
như bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày - thực
quản và bộ câu hỏi tần suất triệu chứng của
trào ngược dạ dày - thực quản (FSSG) chưa
chứng minh được vai trò trong chẩn đoán xác
định trào ngược dạ dày - thực quản [4 - 6].
Nhiều bệnh lí có biểu hiện lâm sàng tương tự
trào ngược dạ dày - thực quản như co thắt
tâm vị và thực quản Jackhammer. [7] Điều trị
thử thuốc ức chế bơm proton là một lựa chọn
đầu tay của các bác sĩ nhưng tỷ lệ không đáp
ứng có thể lên tới 20 - 40% và một số bệnh
nhân có chỉ định phẫu thuật [8; 9]. Để tối ưu
hóa kết quả điều trị, việc cá thể hóa theo từng
bệnh nhân đã được đặt ra trong điều trị trào
ngược dạ dày - thực quản, đặc biệt là trào
ngược dạ dày - thực quản kháng trị [10].
TCNCYH 115 (6) - 2018 119
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Kĩ thuật đo áp lực và nhu động thực quản
độ phân giải cao (HRM) là một công cụ được
đề xuất để hỗ trợ chẩn đoán và điều trị cho
bệnh nhân trào ngược dạ dày - thực quản. Độ
phân giải cao cho phép khảo sát nhu động
thực quản và tình trạng cơ thắt thực quản
dưới, từ đó phân loại các rối loạn về nhu động
thực quản và áp lực cơ thắt thực quản dưới.
Hệ thống phân loại được chấp nhận rộng rãi
hiện giờ là phân loại Chicago 3.0 công bố năm
2014 [11]. Giảm nhu động thực quản và
trương lực cơ thắt thực quản dưới thấp là các
yếu tố nguy cơ của trào ngược dạ dày - thực
quản và được xem là bằng chứng ủng hộ
chẩn đoán trào ngược dạ dày - thực quản
trong đồng thuận Lyon (2018) [12; 13].
Hiện tại, ở Việt Nam, chưa có các công bố
liên quan tới kĩ thuật độ phân giải cao do chưa
triển khai được kĩ thuật này trước năm 2017.
Đến cuối năm 2017, kĩ thuật này mới bắt đầu
triển khai tại Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu
hóa, Gan mật. Do đó, chúng tôi tiến hành
nghiên cứu này với hai mục tiêu:
1. Đánh giá tình trạng rối loạn nhu động và
thay đổi áp lực của cơ thắt thực quản dưới
bằng kĩ thuật độ phân giải cao ở bệnh nhân có
triệu chứng trào ngược dạ dày - thực quản;
2. Khảo sát mối liên quan của tình trạng rối
loạn nhu động và thay đổi áp lực cơ thắt thực
quản dưới với triệu chứng lâm sàng.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Một nghiên cứu mô tả được tiến hành tại
Viện Nghiên cứu và Đào tạo Tiêu hóa, Gan
mật từ tháng 11/2017 đến 06/2018 trên các
bệnh nhân đến khám với biểu hiện gợi ý bệnh
trào ngược dạ dày - thực quản, bao gồm nhóm
triệu chứng trào ngược, nhóm triệu chứng
nóng rát, và nhóm triệu chứng không điển
hình (đau ngực không do tim, viêm họng kéo
dài, ho kéo dài, v.v.) và được chỉ định tiến
hành độ phân giải cao. Nghiên cứu loại trừ
các bệnh nhân dùng thuốc chẹn kênh calci
hoặc giãn cơ trơn trong vòng 24 giờ. Do đây
là nghiên cứu bước đầu, chúng tôi thu tuyển
toàn bộ các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn trong
thời gian nghiên cứu.
Quy trình nghiên cứu
Đối tượng tham gia nghiên cứu sẽ được
hỏi bệnh, phỏng vấn về triệu chứng lâm sàng
bằng bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày-thực
quản và bộ câu hỏi tần suất triệu chứng của
trào ngược dạ dày - thực quản và tiến hành kĩ
thuật độ phân giải cao. Các kết quả này, cùng
với kết quả viêm thực quản trào ngược trên
nội soi đường tiêu hóa trên (nếu có), sẽ được
ghi nhận vào bệnh án nghiên cứu được thiết
kế sẵn. Chẩn đoán mức độ viêm thực quản
trào ngược trên nội soi dựa trên phân loại Los
Angeles [14].
Tiến hành kĩ thuật HRM
Bệnh nhân được giải thích về kĩ thuật và
hướng dẫn phối hợp. Catheter HRM (Solar GI
22 kênh, dùng nhiều lần của Laborie) được
đưa vào thực quản của bệnh nhân qua đường
mũi. Bệnh nhân được đo ở tư thế nằm ngửa.
Các giai đoạn chính của kĩ thuật: (1) ghi nhận
áp lực nền của cơ thắt thực quản trên và dưới
(khi bệnh nhân nằm nghỉ), (2) ghi nhận áp lực
của các cơ thắt thực quản cũng như áp lực
của nhu động thực quản khi bệnh nhân nuốt 5
mL nước (tiến hành tối thiểu 10 lần) và (3) ghi
nhận áp lực của các cơ thắt thực quản cũng
như áp lực của nhu động thực quản khi bệnh
nhân nuốt nhanh nhiều nhịp 5 lần liên tiếp
(tiến hành 1 - 2 lần).
Áp lực thu được qua các vị trí nhận cảm
trên bề mặt catheter sẽ được chuyển về máy
120 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tính và biểu diễn dưới dạng biểu đồ màu sắc
(trong đó, mỗi màu sắc đại diện cho một giá trị
áp lực khác nhau). Các chỉ số cũng sẽ được
máy tính tính toán; từ đó, bác sĩ có thể kết
luận về tình trạng của bệnh nhân.
Nhận định kết quả HRM
Tình trạng nhu động thực quản và LES
được phân loại theo phân loại Chicago 3.0.
[11] Rối loạn giảm nhu động thực quản bao
gồm nhu động thực quản không hiệu quả
(IEM) và mất nhu động hoàn toàn. Áp lực cơ
thắt thực quản dưới được coi là giảm trương
lực nếu áp lực cơ thắt thực quản dưới nền
hoặc nhịp nuốt < 10 mmHg.
Nhập liệu và xử lí số liệu
Số liệu sau khi thu thập vào bệnh án
nghiên cứu sẽ được nhập vào cơ sở dữ liệu
điện tử bằng phần mềm EpiData Entry 3.1
(EpiData Association) và được xử lí bằng R
3.4.4. Các biến định tính được biểu diễn dưới
dạng số đếm và tỷ lệ phần trăm. Các biến liên
tục được biểu diễn dưới dạng trung bình (độ
lệch chuẩn) hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị).
Khác biệt giữa các tỷ lệ được kiểm định bằng
khi-bình phương và giữa các trung bình được
kiểm định bằng t-test. Tương quan giữa các
chỉ số HRM với các bảng điểm lâm sàng được
khảo sát bằng hồi quy tuyến tính. Tất cả các
kiểm định đều chọn mức có ý nghĩa thống kê
là p < 0,05.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
Đạo đức Trường Đại học Y Hà Nội. Bệnh
nhân được giải thích và tự nguyện chấp thuận
tham gia nghiên cứu. Chỉ có nhân viên nhóm
nghiên cứu mới được truy cập vào hồ sơ
nghiên cứu. Cơ sở dữ liệu dùng để phân tích
số liệu không bao gồm thông tin có thể xác
định được danh tính của bệnh nhân. Khi công
bố, kết quả phân tích không bao gồm danh
tính của từng bệnh nhân cụ thể.
III. KẾT QUẢ
Từ tháng 11/2017 đến 06/2018, nghiên
cứu thu tuyển được 217 bệnh nhân (157 nữ,
60 nam) với tuổi trung bình là 46,9 ± 11,7 (min
–max 21 - 84). 61 (28,1%) và 169 (77,9%)
bệnh nhân có điểm bộ câu hỏi bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản > 8 và FSSG > 8.
66 (32,8%) bệnh nhân có viêm thực quản trào
ngược trên nội soi thực quản. 116 (53,5%)
bệnh nhân có nhu động thực quản bình
thường và 101 (46,5%) bệnh nhân có rối loạn
giảm nhu động thực quản (2 bệnh nhân mất
hoàn toàn nhu động, 99 bệnh nhân nhu động
thực quản không hiệu quả). 95 (43,8%) bệnh
nhân có áp lực cơ thắt thực quản dưới bình
thường và 112 (56,2%) có giảm trương lực cơ
thắt thực quản dưới. Áp lực cơ thắt thực quản
dưới nền và nhịp nuốt và IRP 4s trung bình
lần lượt là 17,54 ± 8,32 mmHg, 17,92 ± 8,18
mmHg, và 5,26 ± 4,27 mmHg.
Bảng 1 so sánh các đặc điểm nhân khẩu
học, lâm sàng và chỉ số HRM giữa hai nhóm
có nhu động bình thường và giảm nhu động.
Trong khi các đặc điểm nhân khẩu học, chỉ số
khối cơ thể (BMI), điểm bộ câu hỏi bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản và bộ câu hỏi tần
suất triệu chứng của bệnh trào ngược dạ dày
- thực quản và IRP 4s không có khác biệt có ý
nghĩa thống kê, áp lực cơ thắt thực quản dưới
có sự khác nhau giữa hai nhóm. Áp lực cơ
thắt thực quản dưới nền và nhịp nuốt thấp
hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm giảm nhu
động so với nhóm nhu động bình thường
(15,9 ± 8,0 so với 19,0 ± 8,6 và 15,6 ± 7,9 so
với 19,9 ± 8,5; p < 0,05).
Trong 201 bệnh nhân có kết quả nội soi, tỷ
lệ viêm thực quản trào ngược ở nhóm nhu
TCNCYH 115 (6) - 2018 121
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nhu động bình
thường (n = 116)
Giảm nhu động
(n = 101)
p*
Tuổi (năm) [trung bình (SD)] 45,57 (11,01) 48,34 (12,31) 0,08
Giới
Nữ
Nam
77
39
80
21
0,05
BMI
Thiếu cân
Bình thường
Thừa cân
8
89
14
9
83
4
0,09
GERDQ [trung bình (SD)] 6,98 (2,81) 7,55 (2,93) 0,16
FSSG [trung bình (SD)] 13,48 (6,63) 13,51 (6,17) 0,97
FSSG (điểm trào ngược) [trung bình (SD)] 6,65 (4,40) 6,71 (3,84) 0,91
Viêm thực quản trào ngược
Có
Không
43
65
23
70
0,03
Áp lực LES (nền) (mmHg) [trung bình (SD)] 19,01 (8,64) 15,85 (7,99) 0,006
Áp lực LES (nhịp nuốt) (mmHg)
[trung bình (SD)]
19,94 (8,45) 15,62 (7,89) 0,0002
IRP 4s (mmHg) [trung bình (SD)] 5,35 (3,88) 5,16 (4,69) 0,74
SD: độ lệch chuẩn; BMI: chỉ số khối cơ thể; GERDQ: bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày-thực
quản; FSSG: bộ câu hỏi tần suất triệu chứng của GERD; LES: cơ thắt thực quản dưới; IRP 4s: áp
lực tích hợp trong 4 giây.
*: các giá trị được kiểm định sự khác biệt bằng khi-bình phương cho biến phân loại và t-test
cho biến liên tục; các giá trị có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) được in đậm.
Không có tương quan giữa áp lực cơ thắt thực quản dưới (nền và nhịp nuốt) và IRP 4s với
điểm bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày-thực quản và bộ câu hỏi tần suất triệu chứng của bệnh
trào ngược dạ dày - thực quản (tất cả r < 0,01).
động bình thường cao hơn so với nhóm giảm nhu động [43/108 (39,8%) so với 23/93 (24,7%),
p < 0,05].
Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân theo nhóm nhu động thực quản
122 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Hình 1. Biểu đồ phân tán biểu diễn tương quan tuyến tính giữa điểm GERDQ và FSSG với
áp lực LES (nền và nhịp nuốt) và IRP 4s
Trên: GERDQ, dưới: FSSG; từ trái qua phải: áp lực LES (nền), áp lực LES (nhịp nuốt) và IRP
4s.
IV. BÀN LUẬN
Cơ chế bệnh sinh của bệnh trào ngược dạ
dày - thực quản phối hợp nhiều yếu tố, trong
đó có gia tăng tình trạng giãn thoáng qua của
cơ thắt thực quản dưới (TLESR) và giảm tống
xuất dịch trong lòng thực quản [16; 17]. Do
vậy, giảm trương lực cơ thắt thực quản dưới
(gia tăng TLESR) và giảm nhu động thực
quản (ảnh hưởng tới khả năng tống xuất) là
những yếu tố nguy cơ của bệnh trào ngược
dạ dày - thực quản [12; 15; 16].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy một
tỷ lệ đáng kể các bệnh nhân có giảm nhu
động thực quản (46,5%) và giảm trương lực
cơ thắt thực quản dưới (56,2%). Các nghiên
cứu trước đây báo cáo tỷ lệ giảm nhu động
thực quản từ 31 – 53,3% và tỷ lệ giảm trương
lực cơ thắt thực quản dưới từ 42,9 - 51,4%
[18 - 20]. Như vậy, giảm nhu động và giảm
trương lực cơ thắt thực quản dưới là hai biểu
hiện phổ biến ở bệnh nhân có biểu hiện bệnh
trào ngược dạ dày - thực quản.
Áp lực cơ thắt thực quản dưới trung bình ở
nhóm giảm nhu động thấp hơn có ý nghĩa
thống kê so với nhóm nhu động bình thường.
Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Lee
và cộng sự, trong đó tỷ lệ bệnh nhân có
trương lực cơ thắt thực quản dưới thấp là
28% trong nhóm IEM so với 13% trong nhóm
không bị IEM. [21]
Tỷ lệ bệnh nhân bị viêm thực quản trào
ngược ở nhóm nhu động bình thường cao
hơn có ý nghĩa thống kê, trong khi tỷ lệ này
được báo cáo cao hơn ở nhóm giảm nhu
động trong một số nghiên cứu [21 - 23] và
TCNCYH 115 (6) - 2018 123
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
không có khác biệt trong một số nghiên cứu
khác [24; 25]. Hiện nay, theo đồng thuận
Lyon, chỉ những trường hợp viêm thực quản
trào ngược nặng (mức độ C/D) hoặc Barrett
đoạn dài mới được coi là yếu tố chắc chắn để
chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày - thực
quản. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm
bệnh nhân không có viêm thực quản trào
ngược có tình trạng giảm nhu động cao hơn
cũng phần nào gợi ý đối với chẩn đoán bệnh
trào ngược dạ dày - thực quản, không thể chỉ
đơn thuần dựa vào hình ảnh nội soi mà nên
sử dụng thêm các thăm dò đánh giá về mặt
chức năng của thực quản.
Giảm nhu động thực quản và áp lực cơ
thắt thực quản dưới đều không có liên quan
tới điểm bộ câu hỏi bệnh trào ngược dạ dày -
thực quản và bộ câu hỏi tần suất triệu chứng
của bệnh trào ngược dạ dày - thực quản,
thống nhất với kết quả của các nghiên cứu
trước đó [24 - 26]. Các bộ câu hỏi bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản và thông số độ
phân giải cao không được sử dụng làm tiêu
chuẩn chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày -
thực quản trong đồng thuận Lyon [13] mà chỉ
có bằng chứng nội soi và đo pH - trở kháng.
Tuy nhiên, kĩ thuật đo pH - trở kháng chỉ được
chỉ định cho các trường hợp bệnh trào ngược
dạ dày-thực quản kháng trị hoặc bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản ngoài thực quản
[27]. Do vậy, việc xây dựng mô hình dự đoán
nguy cơ mắc bệnh trào ngược dạ dày-thực
quản dựa trên các thông số lâm sàng và độ
phân giải cao là hướng nghiên cứu có ý nghĩa
thực tiễn.
Đây là nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam sử
dụng kĩ thuật độ phân giải cao để khảo sát
chức năng thực quản của bệnh nhân có triệu
chứng gợi ý bệnh trào ngược dạ dày - thực
quản. Một nghiên cứu lớn hơn bao gồm nhiều
bệnh nhân trào ngược dạ dày - thực quản
kháng trị, kết hợp với đánh giá nội soi thực
quản và đo pH-trở kháng sẽ giúp trả lời các
câu hỏi về khả năng chẩn đoán bệnh trào
ngược dạ dày - thực quản dựa trên thông số
lâm sàng và HRM.
V. KẾT LUẬN
Sử dụng kĩ thuật đo áp lực và nhu động
thực quản độ phân giải cao, chúng tôi phát
hiện một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân rối loạn
giảm nhu động thực quản (45,6%) và áp lực
cơ thắt thực quản dưới thấp (56,2%). Các rối
loạn này không liên quan tới biểu hiện lâm
sàng gợi ý bệnh trào ngược dạ dày - thực
quản. Đối chiếu các thông số trên độ phân giải
cao với tiêu chuẩn vàng là nội soi và đo pH-
trở kháng sẽ giúp xây dựng một mô hình dự
đoán để chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày -
thực quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vakil N, van Zanten S V., Kahrilas P et
al (2006). The Montreal Definition and Classifi-
cation of Gastroesophageal Reflux Disease: A
Global Evidence-Based Consensus. Am J
Gastroenterol, 101(8), 1900 – 1920.
2. El-Serag HB, Sweet S, Winchester CC
et al (2014). Update on the epidemiology of
gastro-oesophageal reflux disease: a system-
atic review. Gut, 63(6), 871 - 880.
3. Eusebi LH, Ratnakumaran R, Yuan Y,
et al (2018). Global prevalence of, and risk
factors for, gastro-oesophageal reflux symp-
toms: a meta-analysis. Gut, 67(3), 430 - 440.
4. Jones R, Junghard O, Dent J et al
(2009). Development of the GerdQ, a tool for
the diagnosis and management of gastro-
oesophageal reflux disease in primary care.
124 TCNCYH 115 (6) - 2018
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Aliment Pharmacol Ther, 30(10), 1030 - 1038.
5. Kusano M, Shimoyama Y, Sugimoto S
et al (2004). Development and evaluation of
FSSG: frequency scale for the symptoms of
GERD. J Gastroenterol, 39(9), 888 - 891.
6. Dent J, Vakil N, Jones R et al (2010).
Accuracy of the diagnosis of GORD by ques-
tionnaire, physicians and a trial of proton
pump inhibitor treatment: the Diamond Study.
Gut, 59(6), 714 - 721.
7. Philpott H, Garg M, Tomic D et al
(2017). Dysphagia: Thinking outside the box.
World J Gastroenterol, 23(38), 6942 - 6951.
8. Boeckxstaens GE, Smout A (2010).
Systematic review: role of acid, weakly acidic
and weakly alkaline reflux in gastro-
oesophageal reflux disease. Aliment Pharma-
col Ther, 32(3), 334 - 343.
9. Hunt R, Armstrong D, Katelaris P et al
(2017). World Gastroenterology Organisation
Global Guidelines. J Clin Gastroenterol, 51(6),
467 - 178.
10. Akiyama J, Kuribayashi S, Baeg MK,
et al (2018). Current and future perspectives
in the management of gastroesophageal reflux
disease. Ann N Y Acad Sci, 16, 1 - 14.
11. Kahrilas PJ, Bredenoord AJ, Fox M,
et al (2015). The Chicago Classification of
esophageal motility disorders, v3.0. Neurogas-
troenterol Motil, 27(2), 160 - 174.
12. Gor P, Li Y, Munigala S et al (2016).
Interrogation of esophagogastric junction bar-
rier function using the esophagogastric junc-
tion contractile integral: an observational co-
hort study. Dis Esophagus, 29(7), 820 - 828.
13. Gyawali CP, Kahrilas PJ, Savarino E,
et al (2018). Modern diagnosis of GERD: the
Lyon Consensus. Gut, 67(7), 1351 – 1362.
14. Lundell LR, Dent J, Bennett JR et al
(1999). Endoscopic assessment of oesophagi-
tis: Clinical and functional correlates and fur-
ther validation of the Los Angeles classifica-
tion. Gut, 45(2), 172 - 180.
15. Mikami DJ, Murayama KM (2015).
Physiology and Pathogenesis of Gastroe-
sophageal Reflux Disease. Surg Clin North
Am, 95(3), 515 – 25.
16. Mello M, Gyawali CP (2014). Eso-
phageal Manometry in Gastroesophageal Re-
flux Disease. Gastroenterol Clin North Am, 43
(1), 69 - 87.
17. Frazzoni M, Manta R, Mirante VG et
al (2013). Esophageal chemical clearance is
impaired in gastro-esophageal reflux disease -
a 24-h impedance-pH monitoring assessment.
Neurogastroenterol Motil, 25(5), 399 - e295.
18. Koukias N, Woodland P, Yazaki E, et
al (2015). Supragastric Belching: Prevalence
and Association With Gastroesophageal Re-
flux Disease and Esophageal Hypomotility. J
Neurogastroenterol Motil, 21(3), 398 - 403.
19. Fouad YM, Katz PO, Hatlebakk JG et
al (1999). Ineffective esophageal motility: the
most common motility abnormality in patients
with GERD-associated respiratory symptoms.
Am J Gastroenterol, 94(6), 1464 - 1467.
20. Frieling T, Kuhlbusch-Zicklam R,
Weingardt C et al (2016). Esophageal func-
tion tests are not helpful in symptoms suspi-
cious of extraesophageal reflux – a prospec-
tive study in 74 patients. Z Gastroenterol, 54
(09), 1061 - 1068.
21. Lee KJ, Kim JH, Cho SW 92006).
Prevalence of Ineffective Esophageal Motility
and Its Relevance to Symptoms and Esophag-
eal Acid Exposure in Korean Patients Referred
for Foregut Symptoms. Digestion, 73(2–3),
171 - 177.
22. Martínek J, Beneš M, Hucl T et al
(2008). Non-erosiv