Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển kinh tế, ngành công nghiệp là một trong những ngành quan trọng và chủ đạo mang lại doanh thu chính cho đất nước. Hàng loạt các khu công nghiệp (KCN) tập trung nổi lên khắp đất nước, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Việc gia tăng nhanh chóng các KCN gây ra một vấn đề cấp thiết trong xã hội hiện nay, đó là việc ô nhiễm môi trường. Sự thiếu đồng bộ trong quản lý cộng với sự gia tăng nhanh chóng của các ngành công nghiệp ở các KCN hiện nay đã thải bỏ ra môi trường một tải lượng lớn chất thải rắn (CTR) – chất thải nguy hại (CTNH) gây ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, đời sống của người dân và hệ sinh thái môi trường đất, nước, không khí, sinh vật xung quanh các KCN.
CTR đặc biệt là CTNH, là một thách thức lớn đối với công tác quản lý môi trường của nhiều đô thị, nhất là những đô thị có KCN tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương,. Tháng 8 năm 2007, TP.HCM có 11 KCN, 3 KCX, 1 khu công nghệ cao và hàng nghìn đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, mỗi ngày thải ra khoảng 250 – 300 tấn CTR không nguy hại (ước tính), 120 – 150 tấn CTNH. Số liệu tương tự tại Đồng Nai là 300 tấn và 60 tấn tại Bình Dương, theo số lượng thống kê năm 2003, lượng CTR và CTNH phát sinh từ các KCN ước tính khoảng 10 tấn/ngày. Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, khối lượng CTR (kể cả chất thải dầu khí) phát sinh là 30-35 tấn/ngày.
Thực trạng hiện nay là đã có những hoạt động tái sử dụng, tái sinh, tái chế và trao đổi chất thải đã tồn tại và đang diễn ra tại các đơn vị sản xuất trong và ngoài KCN. Tuy nhiên, do chưa được tổ chức một cách hệ thống nên mỗi cơ sở tự tìm “nơi tiếp nhận” phế liệu của cơ sở mình. Đối tác có thể là các nhà máy khác trong cùng KCN, nhưng đa phần là những người thu mua phế liệu hoặc những cơ sở tái chế bên ngoài KCN. Thông thường, quá trình tái sinh, tái chế các loại phế liệu hầu hết chỉ áp dụng đối với các loại có giá trị cao. Trong khi đó, các loại phế liệu (chất thải) có giá trị thấp (như xỉ lò, cặn bã ) vẫn chưa được tái chế. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn. Trước tình hình CTR, CTNH thải bỏ ra môi trường ngày càng nhiều gây ô nhễm môi trường nghiêm trọng, các nghiên cứu thực hiện để làm giảm thiểu CTR – CTNH và tìm ra giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường do CTR – CTNH gây ra là rất quan trọng và cấp thiết hiện nay cho các KCN. Đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn – chất thải nguy hại cho KCN Long Hậu & KCN Lê Minh Xuân” thành công sẽ phần nào giúp giải quyết được những vấn đề nêu trên.
96 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2496 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn – chất thải nguy hại cho khu công nghiệp Long Hậu và khu công nghiệp Lê Minh Xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của đề tài:
Nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển kinh tế, ngành công nghiệp là một trong những ngành quan trọng và chủ đạo mang lại doanh thu chính cho đất nước. Hàng loạt các khu công nghiệp (KCN) tập trung nổi lên khắp đất nước, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Việc gia tăng nhanh chóng các KCN gây ra một vấn đề cấp thiết trong xã hội hiện nay, đó là việc ô nhiễm môi trường. Sự thiếu đồng bộ trong quản lý cộng với sự gia tăng nhanh chóng của các ngành công nghiệp ở các KCN hiện nay đã thải bỏ ra môi trường một tải lượng lớn chất thải rắn (CTR) – chất thải nguy hại (CTNH) gây ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế, đời sống của người dân và hệ sinh thái môi trường đất, nước, không khí, sinh vật xung quanh các KCN.
CTR đặc biệt là CTNH, là một thách thức lớn đối với công tác quản lý môi trường của nhiều đô thị, nhất là những đô thị có KCN tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương,... Tháng 8 năm 2007, TP.HCM có 11 KCN, 3 KCX, 1 khu công nghệ cao và hàng nghìn đơn vị sản xuất vừa và nhỏ, mỗi ngày thải ra khoảng 250 – 300 tấn CTR không nguy hại (ước tính), 120 – 150 tấn CTNH. Số liệu tương tự tại Đồng Nai là 300 tấn và 60 tấn tại Bình Dương, theo số lượng thống kê năm 2003, lượng CTR và CTNH phát sinh từ các KCN ước tính khoảng 10 tấn/ngày. Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, khối lượng CTR (kể cả chất thải dầu khí) phát sinh là 30-35 tấn/ngày.
Thực trạng hiện nay là đã có những hoạt động tái sử dụng, tái sinh, tái chế và trao đổi chất thải đã tồn tại và đang diễn ra tại các đơn vị sản xuất trong và ngoài KCN. Tuy nhiên, do chưa được tổ chức một cách hệ thống nên mỗi cơ sở tự tìm “nơi tiếp nhận” phế liệu của cơ sở mình. Đối tác có thể là các nhà máy khác trong cùng KCN, nhưng đa phần là những người thu mua phế liệu hoặc những cơ sở tái chế bên ngoài KCN. Thông thường, quá trình tái sinh, tái chế các loại phế liệu hầu hết chỉ áp dụng đối với các loại có giá trị cao. Trong khi đó, các loại phế liệu (chất thải) có giá trị thấp (như xỉ lò, cặn bã…) vẫn chưa được tái chế. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu sâu hơn. Trước tình hình CTR, CTNH thải bỏ ra môi trường ngày càng nhiều gây ô nhễm môi trường nghiêm trọng, các nghiên cứu thực hiện để làm giảm thiểu CTR – CTNH và tìm ra giải pháp khắc phục ô nhiễm môi trường do CTR – CTNH gây ra là rất quan trọng và cấp thiết hiện nay cho các KCN. Đề tài “Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn – chất thải nguy hại cho KCN Long Hậu & KCN Lê Minh Xuân” thành công sẽ phần nào giúp giải quyết được những vấn đề nêu trên.
Mục tiêu của đề tài:
“Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các biện pháp quản lý chất thải rắn – chất thải nguy hại cho KCN Long Hậu & KCN Lê Minh Xuân”
Đối tượng nghiên cứu
CTR – CTNH được thải bỏ ra ở các đơn vị sản xuất của KCN;
Các chính sách quản lý được thực hiện tại các đơn vị sản xuất của KCN hiện tại;
Nghiên cứu hiệu quả của các biện pháp giảm thiểu phát sinh CTR – CTNH tại nguồn;
Nghiên cứu cơ chế quản lý, nguồn nhân lực trong việc thu gom, vận chuyển, xử lý CTR – CTNH tại các đơn vị sản xuất của KCN;
Nghiên cứu hiện trạng các giải pháp kỹ thật được thực hiện để xử lý CTR – CTNH tại các đơn vị sản xuất của KCN.
Địa điểm thực hiện đề tài
KCN Lê Minh Xuân ở xã Tân Nhựt và xã Lê Minh Xuân, Huyện Bình Chánh,Tp.Hồ Chí Minh.
KCN Long Hậu nằm ở ranh giới Huyện Cần Giuộc (Tỉnh Long An) và Huyện Nhà Bè (Tp.Hồ Chí Minh).
Nội dung nghiên cứu
Tìm hiểu về CTR – CTNH và hệ thống quản lý.
Tìm hiểu về KCN Long Hậu và KCN Lê Minh Xuân.
Tìm hiểu về hiện trạng quản lý CTR – CTNH tại KCN Long Hậu và KCN Lê Minh Xuân.
Đánh giá hiện trạng quản lý CTR – CTNH.
Đề xuất biện pháp quản lý CTR – CTNH.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tham khảo tài liệu
Tham khảo các tài liệu chuyên ngành liên quan, tìm hiểu các tài liệu đề cập đến vấn đề CTR-CTNH trong KCN, các tài liệu nói về các cách quản lý CTR-CTNH trong KCN. Ngoài ra cần tìm hiều các văn bản pháp luật về định nghĩa, phân loại, quản lý, xử lý CTR-CTNH trong KCN.
Phương pháp điều tra bằng phiếu điều tra
Sử dụng phương pháp này, người điều tra sẽ soạn thảo phiếu thông tin, trong phiếu thông tin thể hiện những nội dung cần thu thập để thống kê thành phần và khối lượng CTR – CTNH phát sinh từ các đơn vị sản xuất. Nội dung chính của phiếu điều tra bao gồm:
Tên đơn vị sản xuất, địa chỉ, ngày thành lập và đi vào hoạt động;
Sản phẩm;
Công nghệ sản xuất;
Thời gian hoạt động trong năm (ngày/năm, vào các tháng nào trong năm, và làm việc bao nhiêu ca trong ngày);
Loại, lượng phế liệu, hình thức tái sử dụng hiện tại;
Loại, lượng CTR/CTNH, công đoạn phát sinh, hình thức xử lý hiện tại;
Nếu mục đích là thu thập số liệu, tạo nên một cơ sở dữ liệu để dự đoán, tính toán lượng CTR – CTNH phát sinh trong tương lai cần thu thập thêm thông tin
Nguyên liệu chính (loại, nguồn gốc, lượng sử dụng);
Sản phẩm chính (loại, lượng);
Tổng diện tích cơ sở, diện tích sản xuất;
Số lượng công nhân.
Ưu điểm:
Có thể tiến hành điều tra khảo sát một lượng lớn các đơn vị sản xuất;
Giảm được thời gian và nhân lực trong việc khảo sát, có thể gởi và thu phiếu bằng cách fax, gởi bưu điện hay qua email;
Cũng có thể thu thập thông tin này qua hình thức bắt buộc đăng ký chủ nguồn thải;
Có được số liệu trong thời gian ngắn.
Nhược điểm:
Độ tin cậy của số liệu phụ thuộc vào cán bộ chịu trách nhiệm điền vào phiếu thông tin;
Các số liệu cơ sở cung cấp đã trở nên lạc hậu so với thời điểm khảo sát;
Cán bộ điều tra khảo sát không thể đánh giá được mức độ chính xác của số liệu đã thu thập được.
Trong điều kiện nước ta hiện nay việc sử dụng phương pháp này rất khó khăn. Hiện nay việc quản lý CTNH tại Việt Nam chưa chủ động, do đó các cơ sở có thể bất hợp tác, không có số liệu để cung cấp hoặc cung cấp số liệu không chính xác (do cố ý hoặc cơ sở chưa cập nhập được số liệu mới).
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế tại các đơn vị sản xuất
Để thực hiện phương pháp này, nhân viên tiến hành khảo sát từng đơn vị sản xuất để xem xét hiện trạng công nghệ sản xuất, biết được nguồn nguyên nhiên liệu sản xuất, sản phẩm tạo ra, dây chuyền công nghệ sản xuất tạo ra chất thải ở công đoạn nào, thành phần, tính chất của chất thải, nhân viên khảo sát tiến hành thu gom, cân khối lượng chất thải rắn là bao nhiêu, xem xét công tác phân loại tại nguồn, xử lý chất thải đúng không? Các công việc trên được tiến hành lặp lại theo các ngày trong tuần, theo các tháng khác nhau trong năm và theo các giai đoạn sản xuất theo đơn đặt hàng.
Ưu điểm:
Có thể xác định chính xác khối lượng và thành phần CTR – CTNH của cơ sở được khảo sát;
Có điều kiện đánh giá nguyên nhân phát sinh chất thải;
Có cơ sở để đánh giá tại sao có sự khác nhau về thành phần, khối lượng chất thải giữa các đơn vị sản xuất cùng ngành;
Số liệu khảo sát chính xác giúp ta tạo được tập số liệu phục vụ cho việc dự đoán thành phần khối lượng chất thải có thể thải bỏ ra trong tương lai.
Nhược điểm:
Tốn nhiều công khảo sát nên chỉ có thể tiến hành điều tra khảo sát với một số lượng đơn vị sản xuất giới hạn;
Tốn nhiều thời gian để có thể xác định khối lượng và thành phần chất thải của mỗi cơ sở;
Cần có sự đồng tình của các đơn vị sản xuất, nếu không sẽ không thu được số liệu như mong muốn.
Phương pháp điều tra khảo sát theo xe thu gom, vận chuyển chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại
Phương pháp này áp dụng được khi xác định chính xác đơn vị thu gom, số lượng các xe thu gom, vị trí tập kết chất thải của khu vực (bao gồm cơ sở tái sinh, tái chế, xử lý và chôn lấp CTR – CTNH).
Ưu điểm:
Dễ áp dụng cho các KCN;
Có thể thống kê cho các cơ sở thu gom, vận chuyển CTR – CTNH được cấp phép hoạt động (với điều kiện kiểm soát tốt hệ thống thu gom, vận chuyển này tránh các trường hợp các đơn vị không có chức năng nhưng vẫn hoạt động trong lĩnh vực này).
Nhược điểm:
Khó tiến hành điều tra khảo sát đối với nhà máy nằm rải rát trong khu dân cư khi chưa có hệ thống thu gom, vận chuyển riêng đối với CTR – CTNH ;
Chỉ xác định được khối lượng CTR – CTNH khi đi theo tất cả xe thu gom, vận chuyển từ điểm thu gom đến điểm tập kết;
Khó xác định thành phần CTR – CTNH của các loại hình công nghiệp khi được thu gom chung;
Không xây dựng được cơ sở dữ liệu để ước tính khối lượng và thành phần chất thải của khu vực trong tương lai.
Phương pháp mô hình
Dựa vào các kết quả thu được từ việc điều tra bằng phiếu điều tra và thu thập số liệu, ta đưa ra một mô hình nhằm hạn chế và xử lý CTR – CTNH cho KCN như mô hình đặt trạm trung chuyển chất thải hoặc mô hình trung tâm thu gom và điều hành tái chế, tái sử dụng CTR – CTNH cho KCN.
Thời Gian thực hiện đề tài: từ ngày 15/10/2010 đến ngày 08/01/2011
Ý nghĩa Khoa học và thực tiễn:
CTR – CTNH hại đã có từ rất lâu và phổ biến rộng rãi tại Việt Nam và trên thế giới. Nhưng việc quản lý chúng bằng biện pháp gì để đem lại hiệu quả cao và thích hợp? thực tế cho thấy tại các KCN chưa quan tâm đến vấn đề quản lý chất thải, các chất thải còn để lẫn lộn với nhau dẫn đến việc chuyển giao chất thải đưa đi xử lý không đúng nơi tiếp nhận. Do đó, việc quản lý chất thải hiện nay chưa được quản lý triệt để, dẫn đến việc gây ô nhiễm môi trường là điều không tránh khỏi. Vì vậy kết quả nghiên cứu của đề tài này là cơ sở khoa học để cho những người, những nhà quản lý quan tâm tham khảo, áp dụng trong thực tế để đạt hiệu quả cao hơn và phòng ngừa việc rò rỉ chất thải ra môi trường ở mức thấp nhất.
Kết quả nghiên cứu có thể được áp dụng triển khai cho nhiều KCN tại nhiều địa phương trong cả nước. Đặc biệt là cho KCN Long Hậu và KCN Lê Minh Xuân để mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích cho cộng đồng, xã hội thiết thực do ngăn chặn được sự lây lan của các chất thải gây ô nhiễm, nhằm mục đích tạo cho môi trường trong sạch. Đề tài là nguồn dữ liệu đầy đủ nhất về hiện trạng CTR – CTNH ở KCN Long Hậu và KCN Lê Minh Xuân, giúp cho các nhà quản lý trong việc lưu trữ có những giải pháp thích hợp.
Cấu trúc luận văn:
Đề tài được thực hiện gồm có 6 chương như sau: mở đầu, chương 1, chương 2, chương 3, chương 4, chương 5 và kết luận - kiến nghị.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN – CHẤT THẢI NGUY HẠI
1.1. Khái niệm về chất thải rắn (chất thải rắn công nghiệp, chất thải rắn sinh hoạt và chất thải nguy hại)
1.1.1. Khái niệm chất thải rắn
CTR là chất thải ở thể rắn, được phát sinh ra từ quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác. CTR bao gồm CTR thông thường và CTR nguy hại. CTR phát thải trong quá trình sinh hoạt của cá nhân, hộ gia đình, công cộng được gọi chung là chất thải rắn sinh hoạt. Chất thải rắn phát thải từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác được gọi chung là chất thải rắn công nghiệp.
Thành phần và tính chất của CTRCN rất đa dạng và phức tạp tùy thuộc vào từng loại công nghệ sản xuất. CTRCN có thể là chất vô cơ, chất hữu cơ hoặc cả hai loại. Nghiên cứu thành phần và tính chất của chất thải rắn giúp chúng ta có thể áp dụng công nghệ xử lý phù hợp và hiệu quả. Từ nguồn gốc phát sinh người ta phân loại kỹ hơn về thành phần, tính chất, mức độ độc hại của chất thải. Mục đích của việc phân loại chất thải là nhằm lập “các lý lịch quản lý” và xác định các biện pháp xử lý an toàn CTR.
1.1.2. Khái niệm chất thải nguy hại
Định nghĩa trong Nghị Định về quản lý chất thải rắn số 59/2007/NĐ-CP: “CTRNH là chất thải có chứa các chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và có đặc tính gây độc hại khác), hoặc tương tác với các chất khác và gây nên các tác động nguy hại đối với môi trường và sức khỏe con người”.
Cũng như các loại chất thải khác, thành phần CTNH rất đa dạng bao gồm các chất hữu cơ, vô cơ hoặc có khi kết hợp cả hai. Mức độ nguy hại của các chất đôi khi cũng khác nhau tùy thuộc vào liều lượng và khả năng gây độc hại của một số chất độc hại trong đó. Thậm chí tính chất nguy hại của chất thải nguy hại còn được thể hiện trong điều kiện môi trường như PH, nhiệt độ, áp suất, độ ẩm nhất định nào đó.
Bảng 1.1 Một số chất thải nguy hại phát sinh trong công nghiệp.
Stt
Ngành sản xuất
Các chất thải nguy hại
1
Sản xuất hóa chất và các phòng thí nghiệm hóa
Các chất acid và các chất kiềm mạnh
Các chất tẩy rửa mạnh
Hóa chất độc hại
Các chất thải phóng xạ
2
Xưởng bảo dưỡng và sửa chữa ô tô, dịch vụ sân bay
Sơn thải
Xăng, dầu, nhớt thải
Bình ắc quy hư thải ra chì
Các chất tẩy rửa mạnh
3
Chế tạo, xử lý kim loại
Sơn thải có chứa kim loại nặng
Các acid và các chất kiềm mạnh
Chất thải có chứa cyanit
Cặn bã chứa kim loại nặng
4
Khai thác bô xít
Bùn đỏ
5
Sản xuất hóa dầu
Các chất thải dầu, dầu cặn, hắc ín
6
Sản xuất chlorine(clo)
Thủy ngân
7
Công nghiệp in
Cặn mực in chứa kim loại nặng
8
Sản xuất đồ gia
Chất thải chứa toluen và benzen
9
Công nghiệp giấy
Các chất tẩy rửa dễ bắt lửa
Các chất acid và chất kiềm mạnh
10
Sản xuất đồ gỗ và đồ nội thất
Các dung môi dễ bắt lửa
Các chất tẩy rửa mạnh
11
Sản xuất mỹ phẩm và chất tẩy rửa mạnh
Bụi kim loại nặng
Các chất tẩy rửa dễ cháy
Các chất acid và chất kiềm mạnh
12
Công nghiệp nhuộm
Cadmi, thải khoáng, thuốc nhuộm
13
Thuộc da
Dung môi crom
14
Chế tạo, sửa chữa máy biến thế
Cặn dầu biến thế
Polychlorinat biphenyl (PCBs)
15
Công nghiệp xây dựng
Sơn thải chứa kim loại nặng, dễ bắt lửa
Các chất tẩy rửa mạnh
Các chất acid và chất kiềm mạnh
Nguồn: Quyết định 23/2006/QĐ-BTNMT, Bộ tài Nguyên và Môi trường
CTNH được phân loại nhằm phân biệt giữa các loại CTNH với nhau và xác định về thành phần, tính chất, tải lượng của CTNH. Hiện nay, Việt Nam chưa có tiêu chí thống nhất, rõ ràng phân loại chất thải nguy hại.
1.2. Ảnh hưởng của CTR – CTNH đến con người và môi trường
CTR – CTNH có thể gây nguy hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, môi trường và hệ sinh thái ở nhiều góc độ khác nhau có thể lường trước được. Đồng thời CTR – CTNH là nguồn gây ô nhiễm trực tiếp và tiềm tàng đến môi trường sống và sức khỏe cộng đồng.
CTR – CTNH
Môi trường nước
Môi trường khí
Môi trường đất
Con người
Cây trồng
Sản xuất
Giao thông
Văn hóa du lịch
Hình 1.1 Sơ đồ ảnh hưởng của CTR – CTNH
1.3. Một số phương pháp phân loại điển hình đối với CTR – CTNH
1.3.1. Phân loại theo khả năng xử lý
Để dễ dàng áp dụng các phương pháp xử lý. Ví dụ như, chất thải có chứa hợp chất Cr3+ lớn hơn 1% trọng lượng, bắt buộc phải dùng phương pháp hóa học – oxy hóa để xử lý.
1.3.2. Phân loại theo tính chất nguy hại của chất thải
Ứng dụng nhằm bảo đảm an toàn khi vận chuyển, tồn trữ CTNH. Ví dụ, những CTNH có khả năng dễ cháy, nổ, lây nhiễm, bay hơi, thăng hoa, dung môi hữu cơ dễ bay hơi, acid, kiềm, thuốc trừ sâu, bệnh phẩm đều được phân loại riêng trước khi vận chuyển và tồn chứa.
1.3.3. Phân loại theo mức độ độc hại của chất thải
Để phòng tránh bị ngộ độc trong khi tiếp xúc với chất thải. Cách phân loại này đặc biệt quan trọng đối với một số hóa chất có chứa độc cấp tính. Ví dụ như: các loại muối xianua, hợp chất clo mạch vòng, các hợp chất của Pb, Hg.
1.3.4. Phân loại chất thải dựa vào loại hình công nghiệp
Xem xét quy trình công nghệ người quản lý dễ dàng nhận dạng được CTNH ngay từ khâu sản xuất. Ngoài ra, cách phân loại này còn đóng vai trò quan trọng trong việc khảo sát thành phần và khối lượng CTNH theo từng ngành, để dự báo tải lượng phát sinh ở phạm vi lớn hơn. Thông qua cách phân loại này có thể nhận dạng một số ngành công nghiệp điển hình sẽ phát sinh CTNH như: Công nghiệp hóa dầu (sản xuất ăcquy, pin, axit, kiềm, dung môi, sơn, keo, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, dược phẩm, thuốc nhuộm,…), ngành chế biến, ngành dệt nhuộm, ngành thuộc da, ngành chế biến gỗ, ngành chế biến bột giấy, ngành xi mạ.
Trong thực tế quản lí không phải lúc nào cũng áp dụng được những cách phân loại trên. Do đó, cần có công cụ tiêu chuẩn để so sánh để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quản lý CTNH và tránh sự nhầm lẫn với chất thải không nguy hại có cùng thành phần cấu tạo với CTNH cần quản lý. Trong phần phụ lục của quy chế quản lý CTNH có đưa ra hai danh mục A và B để phân biệt. Danh mục A quy định các CTNH và danh mục B quy định các chất thải không nguy hại tương ứng.
Bảng 1.2 Ví dụ về sự khác biệt giữa CTNH và chất thải không nguy hại
STT
Loại chất thải
Nguy hại
(danh mục A)
Không nguy hại
(danh mục B)
1
Kim loại và các chất thải chứa kim loại
Bùn điện phân
Phôi sắt thép
2
Các chất thải chủ yếu chứa hợp chất vô cơ nhưng có thể chứa kim loại hay vật liệu hữu cơ
Amiăng phế thải
Bê tông vỡ
3
Các chất thải chủ yếu chứa chất hữu cơ nhưng có thể chứa kim loại hoặc hợp chất vô cơ.
Dầu cặn
Đồ nhựa phế thải
4
Các chất thải có thể chứa cả hợp chất hữu cơ và vô cơ
Chất thải bệnh viện
Bao bì, nhựa phế thải
Vì tính chất nguy hại của chất thải trong cột A nên cần phải có chu trình thu gom vận chuyển riêng đối với loại chất thải nguy hại này.
Tổng quan các phương pháp giảm thiểu CTR – CTNH
Tổng quan phương pháp giảm thiểu chất thải tại nguồn
Giảm thiểu chất thải tại nguồn là các biện pháp quản lý và vận hành sản xuất, thay đổi quy trình công nghệ sản xuất nhằm giảm lượng chất thải hay độc tính của chất thải.
Cải tiến trong quản lý và vận hành sản xuất
Cải tiến cách thức vận hành cần thực hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất như sản xuất, bảo trì, vận hành, sử dụng và lưu trữ vật liệu thô, sản phẩm, lưu giữ và quản lý chất thải. Công tác này sẽ giảm thiểu tối đa việc tạo thành các sản phẩm bị lỗi kỹ thuật, kém chất lượng cũng như sự rơi vãi của nguyên vật liệu, chất thải trong nhà xưởng. Bên cạnh đó việc quản lý hợp lý có thể giảm đáng kể sự nhiễm bẩn của nguyên liệu, sản phẩm cũng như các nguyên liệu không cần thiết trong sản xuất. Các nội dung cải tiến trong quản lý và vận hành sản xuất bao gồm:
Quản lý và lưu trữ nguyên liệu cũng như sản phẩm: Xác định nguyên liệu nhập vào hay sản phẩm làm ra theo ngày sản xuất để bố trí sử dụng phù hợp với hạn sử dụng, tránh được việc thải ra các nguyên liệu hay sản phẩm chứa thành phần độc hại quá hạn sử dụng;
Cải tiến về điều độ sản xuất: Bố trí sản xuất hợp lý nhằm tránh lượng thải ra. Ví dụ khi sản xuất sơn, bố trí sản xuất cùng một màu sơn theo cấp độ màu nhạt dần, các sản phẩm sản xuất liền kề có màu giống nhau nhằm tránh rửa thiết bị nhiều lần.
Ngăn ngừa thất thoát và chảy tràn: Sử dụng các đường ống và thiết bị hợp lý nhằm tránh sự rò rỉ, rơi vãi của nguyên liệu cũng như sản phẩm trong quá trình lên xuống hàng hóa hay trong sản xuất;
Đào tạo nhân sự: Trang bị các kiến thức kỹ năng cần thiết để tránh việc tạo ra các chất thải do sự kém hiểu biết của công nhân cũng như giúp việc giảm phát thải và thu gom các chất gây ô nhiễm hợp lý;
Thay đổi quá trình sản xuất: Bao gồm những thay đổi về nguyên liệu đầu vào, công nghệ và thiết bị, phương thức vận hành, bảo trì. Tất cả những thay đổi này nhằm giảm phát thải chất gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất.
Thay đổi nguyên liệu đầu vào
Thay đổi nguyên liệu có tính nguy hại bằng các thành phần ít độc hơn hay không độc hại góp phần giảm lượng CTNH sinh ra trong nhà máy. Ví dụ ngành in thay thế mực in có dung môi hữu cơ bằng mực in có dung môi là nước.
Thay đổi về kỹ thuật, công nghệ
Cải tiến quy trình sản xuất: Là cải tiến quy trình vận hành, thiết bị sản xuất và chế độ bảo trì hợp lý máy móc, thiết bị. Công việc này sẽ giúp giảm thiểu lượng nước thải sinh ra do có sự cố trong sản xuất cũng như giảm các thao tác thừa và các công đoạn thừa phát sinh chất thải trong toàn bộ quy trình.
Điều chỉnh các thông số vận hành: Phương pháp này dựa trên các kỹ thuật sẵn có của nhà máy, kết hợp kinh nghiệm sản xuất và kiến thức về quá trình làm giảm lượng thải không đáng phát sinh từ quy trình.
Cải tiến về thiết bị máy móc: Dựa trên thiết bị máy móc hiện có, nghiên cứu cải tiến lắp đặt thêm các bộ phận phụ trợ nhằm giảm phát sinh chất thải từ thiết bị.
Hình 1.2 Các kỹ thuật giảm thiểu chất thải
Tự động hóa máy móc thiết bị, quy trình: tự động hóa các quá trình sản xuất và máy móc thiết bị có thể giảm thiểu được các sự cố có thể sảy ra do các thao tác của công nhân, đồng thời giảm sự tiếp xúc của c