Trong xã hội bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào từ sản xuất thương mại hay dịch vụ muốn tồn tại và phát triển đều phải có yếu tố lao động, hoặc là lao động chân tay hoặc là lao động trí óc. Lao động chính là điều kiện đầu tiên là yếu tố có tính chất quyết định nhằm biến đổi các vật thể tự nhiên thành những vật phẩm cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội. Xã hội càng phát triển đòi hỏi người lao động càng phải tiến bộ phát triển cao hơn, từ đó càng biểu hiện rõ tính quan trọng cần thiết của người lao động.
47 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng chính sách Tiền lương, Tiền thưởng và các khoản trích theo lương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do hình thành đề tài.
Trong xã hội bất cứ ngành nghề lĩnh vực nào từ sản xuất thương mại hay dịch vụ muốn tồn tại và phát triển đều phải có yếu tố lao động, hoặc là lao động chân tay hoặc là lao động trí óc. Lao động chính là điều kiện đầu tiên là yếu tố có tính chất quyết định nhằm biến đổi các vật thể tự nhiên thành những vật phẩm cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội. Xã hội càng phát triển đòi hỏi người lao động càng phải tiến bộ phát triển cao hơn, từ đó càng biểu hiện rõ tính quan trọng cần thiết của người lao động.
Và để cho người lao động có thể tồn tại, bù đắp những hao phí mà họ đã bỏ ra nhằm tái sản xuất sức lao động thì cần phải có yếu tố tiền lương. Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động, nó được xác định trên hai cơ sở chủ yếu là: số lượng và chất lượng lao động.
Bên cạnh chức năng đảm bảo cuộc sống cho người lao động, tiền lương còn được sử dụng khuyến khích tinh thần, thúc đẩy người lao động làm việc tốt hơn.
Trong thực tế, mỗi doanh nghiệp có đặc thù sản xuất và lao động riêng, cho nên chính sách tiền lương và các khoản trích theo lương là không giống nhau.
Nhưng trong thực tế đề tài về tiền lương lại ít được các bạn sinh viên quan tâm bởi tính đơn giản của nó. Tuy nhiên, khi bước vào thực tế tại doanh nghiệp, em nhận thức được rằng tiền lương thực sự quan trọng. Việc sử dụng chính sách tiền lương và các khoản trích theo lương một cách đúng đắn, đầy đủ, kịp thời chính là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Mặt khác, trong nền kinh tế hội nhập hiện nay, việc thu hút và giữ người lao động có năng lực là một trong những chính sách hàng đầu của các doanh nghiệp. Ngoài việc trang bị những cơ sở vật chất tốt, môi trường làm việc năng động, lành mạnh thì chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chế độ phúc lợi khác là một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc giữ nhân viên giỏi của Công ty và thu hút nguồn lao động có chất lượng cao bên ngoài cũng như tạo điều kiện cho mối quan hệ được hài hoà, ổn định góp phần phát huy tính sáng tạo và tài năng của người lao động nhằm đạt năng suất, chất lượng tiến bộ xã hội trong lao động sản xuất. Đó cũng là cơ sở gắn kết giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Ngoài việc nhà nước đưa ra mức lương cơ bản thì mỗi một doanh nghiệp phải có một chính sách tiền lương, tiền thưởng phù hợp với mô hình hoạt động của Công ty mình. Đây chính là một trong những chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp và cũng là một lợi thế của các Công ty. Vì vậy, một chế độ tiền lương thích hợp không quá cao để ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp nhưng cũng không quá thấp để xứng đáng chi trả cho sự tiêu hao trong quá trình làm việc của người lao động và phù hợp đến sự biến động giá cả thị trường là điều mà tất cả các doanh nghiệp luôn muốn hướng tới. Thấy được sự quan trọng của chính sách tiền lương trong doanh nghiệp, em đã chọn đề tài: “Thực trạng chính sách Tiền lương, Tiền thưởng và các khoản trích theo lương” nhằm mang lại một cái nhìn tổng thể và tìm ra những giải pháp hiệu quả trong việc sử dụng chính sách tiền lương và tiền thưởng tại Công ty Cổ phần Đầu tư Hoa Hồng.
Mục tiêu nghiên cứu .
Như đã đề cập ở trên, tất cả các Doanh nghiệp đều muốn doanh nghiệp của mình phát triển và đứng vững trên thị trường thì cần có đội ngũ nhân viên lành nghề, giàu kinh nghiệm. Để đạt được những điều đó các Doanh nghiệp cần phải có những chính sách lương bổng và chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm giữ chân các nhân tài cho doanh nghiệp của mình.
Do đó, đề tài được đặt ra mục tiêu:
Phân tích việc sử dụng chính sách Tiền lương và Tiền thưởng tại Công ty Cổ phần Đầu tư Hoa Hồng nhằm rút ra những kinh nghiệm và nâng cao hiệu quả việc sử dụng quỹ Tiền lương và Tiền thưởng .
Tìm hiểu những thuận lợi & khó khăn của Công ty trong việc sử dụng chính sách Tiền lương và tiền thưởng.
Nhằm có cái nhìn tổng thể từ đó rút ra một số biện pháp khắc phục, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn nhân lực cũng như sử dụng tốt quỹ lương tại doanh nghiệp, góp phần trong việc tăng hiệu quả doanh thu cho doanh nghiệp .
Đối tượng nghiên cứu.
Người lao động tại Công ty Cổ phần Đầu Tư Hoa Hồng.
Phương pháp nghiên cứu.
Để phân tích đề tài một cách hoàn chỉnh, trong quá trình phân tích đề tài, phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài là:
Thống kê mô tả.
So sánh.
Diễn giải.
Nguồn dữ liệu chủ yếu được thu thập báo cáo từ Phòng Hành chính – Nhân sự, Phòng Tài chính – Kế toán của Công ty Cổ phần Đầu tư Hoa Hồng, các thông tin trên báo chí, tạp chí, các sách giáo khoa.
Ngoài ra, còn tham khảo ý kiến của một số cán bộ liên quan đến đề tài trong Công ty cũng như Quý thầy cô trong khoa Quản trị kinh doanh trường Đại học Kỹ thuật Công nghệ đặc biệt là cô hướng dẫn Lê Thị Ngọc Hằng.
Phạm vi nghiên cứu.
Mặc dù rất cố gắng nhưng do hạn chế về kiến thức và thời gian nên đề tài tập trung nghiên cứu việc sử dụng chính sách Tiền lương – Tiền thưởng tại Công ty để nắm bắt được tình hình sử dụng lao động cũng như việc sử dụng quỹ Tiền lương tại Công ty trong những năm gần đây có chiều hướng phát triển như thế nào (tăng hay giảm), những thuận lợi và khó khăn ra sao để từ đó tìm ra những giải pháp tốt cho tương lai, mang lại lợi nhuận cho Công ty. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng có thể thu hút và giữ chân nhân tài.
Ý nghĩa của đề tài.
Nhằm có cái nhìn tổng quan về chính sách tiền lương, tiền thưởng và các khoản trích theo lương, đề tài đi sâu nghiên cứu vấn đề nóng, luôn nhận được sự quan tâm của xã hội đặc biệt là người lao động khi mà mức sống hiện nay quá thay đổi. Tiền lương nó không cò phù hợp với tình hình giá cả ngày càng leo thang làm ảnh hưởng đến đời sống của người lao động vốn đã chật vật ngày càng khó khăn hơn. Ý nghĩa mà đề tài nghiên cứu nhằm cải cách tiền lương theo chiều hướng tốt hơn cho người lao động, loại bỏ bớt những nghịch lý đang tồn tại hiện nay.
Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 4 chương chính như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về tiền lương và các khoản trích theo lương.
Nội dung chương này sẽ trình bày tổng quan về tiền lương và các hình thức trả lương trong doanh nghiệp.
Chương II: Giới thiệu sơ lược về Công ty Cổ Phần Đầu Tư Hoa Hồng.
Nội dung chương này sẽ giới thiệu sơ bộ quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ Phần Đầu Tư Hoa Hồng, phương châm, mục tiêu hoạt động kinh doanh của Công ty và các công trình tiêu biểu.
Chương III: Thực trạng công tác tiền lương của Công ty Cổ Phần Đầu Tư Hoa Hồng.
Nội dung chương này sẽ tìm hiểu về cách tính lương, thưởng, các quy định về thang lương, bảng lương, các quy định về việc nghỉ hưởng lương và không hưởng lương và thực trạng công tác tiền lương tại Công ty Cổ Phần Đầu Tư Hoa Hồng.
Vận dụng các lý thuyết đã trình bày ở chương I và những vấn đề tồn tại của Công ty Cổ Phần Đầu Tư Hoa Hồng đã được xác định ở II và chương III. Đề tài sẽ đưa ra các kiến nghị và kết luận để Công ty ngày càng hoàn thiện hơn trong chương IV.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG.
TỔNG QUAN VỀ TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG.
Khái niệm về Tiền lương.
Các khái niệm về tiền lương.
Trong điều kiện là một nước có nền kinh tế nhiều thành phần như Việt Nam ta hiện nay, các khu vực kinh tế, thành phần kinh tế có cách nhìn nhận về tiền lương không hoàn toàn giống nhau.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế gắn liền với lao động tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá.
Tiền lương (hay tiền công) là số tiền thù lao mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp cho doanh nghiệp để tái sản xuất sức lao động, bù đắp hao phí lao động của họ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo quy định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/09/2006, tiền lương là biểu hiện bằng tiền của chi phí nhân công mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc mà họ đã cống hiến cho doanh nghiệp.
Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động. Nó được sử dụng để khuyến khích tinh thần tích cực lao động và cũng là nhân tố thúc đẩy gia tăng năng suất lao động. Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một bộ phận chi phí sản xuất cấu thành nên sản phẩm. Do đó, doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả sức lao động của cán bộ công nhân viên để tăng lợi nhuận cho Công ty.
Ngoài các khoản lương cơ bản người lao động còn hưởng các khoản tiền thưởng theo quy định của Công ty như: phát huy sáng kiến, tiết kiệm vật tư, tăng hiệu quả lao động, chuyên cần và các khoản tiền thưởng khác.
Bản chất về tiền lương.
Bản chất của Tiền lương cũng thay đổi tùy theo các điều kiện, trình độ phát triển kinh tế xã hội và nhận thức của con người. Tiền lương được nghiên cứu trên 2 phương diện: kinh tế và xã hội .
Về mặt kinh tế: Tiền lương là phần đối trọng của sức lao động mà người lao động đã cung cho người sử dụng lao động của mình trong một thời gian nào đó và sẽ nhận được một khoản tiền lương theo thỏa thuận từ người sử dụng lao động.
Trong nền kinh tế thị trường để hiểu một cách rõ hơn về tiền lương người ta còn nghiên cứu tiền lương ở hai khía cạnh: Tiền lương danh nghĩa và Tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa: là số lượng tiền mà người sử dụng sức lao động trả cho người lao động phù hợp với số lượng và chất lượng lao động mà họ đã hao phí. Trên thực tế mọi mức lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương thực tế: Là số lượng tư liệu sinh hoạt, dịch vụ mà người lao động có thể mua được bằng tiền lương danh nghĩa của mình sau khi đóng đầy đủ các khoản thuế theo quy định của Chính phủ.
Ta có mối quan hệ giữa Tiền lương danh nghĩa và Tiền lương thực tế thông qua chỉ số giá cả như sau:
ITLDN
IGC=
ITLTT
Trong đó:
IGC: Chỉ số giá cả.
ITLDN: Chỉ số tiền lương danh nghĩa.
ITLTT: Chỉ số tiền lương thực tế.
Chỉ số giá cả là chỉ tiêu tương đối nói lên sự thay đổi của tổng mức giá cả của các nhóm hàng hóa nhất định trong thời kì này so với thời kỳ khác được xem là thời kỳ gốc.
Chỉ số bán lẻ hàng tiêu dùng (lương thực, thực phẩm, dịch vụ….) được gọi là chỉ số giá sinh hoạt. Nếu tiền lương danh nghĩa không tăng mà chỉ số giá sinh hoạt tăng lên thì tiền lương thực tế là giảm xuống.
Về mặt xã hội: Tiền lương là một khoản thu nhập của người lao động để bù đắp các nhu cầu tối thiểu của người lao động ở một thời điểm kinh tế - xã hội nhất định. Khoản tiền phải được thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động (chủ doanh nghiệp) có tính đến mức lương tối thiểu do Nhà nước ban hành. Trong đó, mức lương tối thiểu là khoản tiền lương trả cho người lao động ở mức đơn giản nhất, không phải đào tạo, để tái sản xuất sức lao động cho họ và một phần gia đình họ.
Vai trò của Tiền lương.
Tiền lương là thước đo sức lao động.
Với vai trò này Tiền lương dùng làm căn cứ xác định các mức tiền công cho các loại lao động, xác định đơn giá trả lương và cũng là cơ sở để điều chỉnh giá cả sức lao động khi giá cả sinh hoạt biến động.
Tiền lương có vai trò tái sản xuất sức lao động.
Trong quá trình lao động, sức lao động bị hao mòn dần cùng với quá trình lao động tạo ra sản phẩm. Tiền lương là một trong những tiền đề vật chất có khả năng đảm bảo tái sản xuất sức lao động trên cơ sở đảm bảo bù đắp lại sức lao động đã hao phí thông qua thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và các nhu cầu riêng của người lao động. Vì vậy, trả lương trước tiên là không trả dưới mức lương tối thiểu của nhà nước quy định, bên cạnh đó chúng ta cũng nên hoàn thiện, nâng cao cho phù hợp với năng suất chất lượng.
Tiền lương có vai trò bảo hiểm cho người lao động.
Tiền lương đảm bảo cho người lao động duy trì được cuộc sống lao động hằng ngày diễn ra bình thường trong thời gian còn khả năng làm việc; mặt khác nó còn có khả năng để dành lại một tích lũy dự phòng cho cuộc sống mai sau khi họ không còn khả năng lao động được nữa hoặc chẳng may gặp rủi ro, bất trắc trong cuộc sống.
Tiền lương có vai trò điều tiết và kích thích.
Trong công tác quản lý cần tạo ra động lực thúc đẩy khả năng sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hiệu quả công việc, khuyến khích những nhân tài sáng tạo. Vì vậy, người lao động làm việc đạt hiệu quả cao thì phải được trả lương cao hơn.
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích kinh tế là động lực, lợi ích này được biểu hiện dưới dạng: lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng xã hội. Do dó, lợi ích cá nhân người lao động là động lực trực tiếp và tiền lương đóng vai trò góp phần tạo động lực vật chất trong lao động.
Mức lương tối thiểu.
Mức lương tối thiểu là một chế định quan trọng bậc nhất của pháp luật lao động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.
Mức lương tối thiểu được ấn định là bắt buộc đối với những người sử dụng lao động.
Mức lương tối thiểu nhà nước quy định là cơ sở pháp lý đảm bảo đời sống cho người lao động.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): những yếu tố cần thiết để xác định mức lương tối thiểu phải bao gồm những nhu cầu của người lao động và gia đình họ, có chú ý tới các mức lương trong nước, giá sinh hoạt, các khoản trợ cấp an toàn xã hội và mức sống so sánh của các nhóm xã hội khác, những nhân tố kinh tế, kể cả những đòi hỏi của phát triển kinh tế, năng suất lao động và mối quan tâm trong việc đạt tới và duy trì một mức sử dụng lao động cao.
Ở Việt Nam, “mức lương tối thiểu được ấn định theo giá sinh hoạt, đảm bảo cho người lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm căn cứ để xác định các mức lương cho các loại lao động”.
Hiện nay, mức lương tối thiểu ở các doanh nghiệp được xác định như sau:
Tiền lương tối thiểu là mức lương thấp nhất được nhà nước quy định để trả cho người lao động đơn giản nhất trong xã hội trong điều kiện làm việc bình thường nhằm có thể đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động.
Mức lương tối thiểu phải phù hợp với tình hình kinh tế xã hội mỗi thời kỳ và phải gắn liền với mức độ phát triển kinh tế xã hội, sự biến động giá thị trường.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta, mức lương tối thiểu cũng đã nhiều lần thay đổi đáp ứng nhu cầu của người lao động. Hiện nay, mức lương tối thiểu là 650,000 đồng/ tháng từ ngày 01/05/2009 theo nghị định 33/2009/NĐ-CP. Từ ngày 01/01/2010 theo nghị định 28/2010/NĐ-CP mức lương tối thiểu là 730,000 đồng/ tháng.
Mặc dù được điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu của người lao động, song trên thực tế mức lương này là quá thấp, người lao động khó có thể trang trải cuộc sống với mức lương như trên. Do vậy, các doanh nghiệp dựa vào tình hình thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, công việc cụ thể để đưa ra một mức lương phù hợp cho người lao động.
Các khoản trích theo lương.
Các khoản trích theo lương hiện nay bao gồm: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm xã hội (BHXH): là khoản trợ cấp cho người lao động có tham gia đóng BHXH trong các trường hợp tạm thời hay vĩnh viễn do mất sức lao động như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí,... nhằm giảm bớt khó khăn trong cuộc sống.
Bảo hiểm y tế (BHYT): là khoản hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh cho người lao động bao gồm các khoản thuốc men, viện phí khi ốm đau phải nằm viện.
Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN): là nguồn trợ giúp về mặt tài chính cho người thất nghiệp để họ ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng mực nhất định, từ đó tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động để họ có những cơ hội mới về việc làm.
Kinh phí công đoàn (KPCĐ): là nguồn kinh phí phục vụ cho bộ máy công đoàn cơ sở và công đoàn cấp trên. Đây là khoản mà đơn vị sử dụng lao động phải trích lập và người lao động đóng góp một phần để nộp cho cơ quan có trách nhiệm của nhà nước, nhằm chăm lo chính sách và quyền lợi của người lao động theo chế độ hiện hành và những quyền lợi lâu dài khác trong tương lai. Các tổ chức này hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi và nâng cao đời sống của người lao động.
Cơ cấu thu nhập.
Thu nhập của người lao động bao gồm các khoản: tiền lương cơ bản, phụ cấp, tiền thưởng và các loại phúc lợi. Mỗi yếu tố có cách tính riêng và có ý nghĩa khác nhau đối với việc kích thích động viên người lao động hăng hái, tích cực và sáng tạo trong công việc, trung thành với doanh nghiệp.
Tiền lương cơ bản.
Tiền lương cơ bản là tiền lương được xác định trên cơ sở tính đủ các nhu cầu cơ bản về sinh học, xã hội học, về độ phức tạp và mức độ tiêu hao lao động trong những điều kiện lao động trung bình của từng ngành nghề, công việc.
Khái niệm tiền lương cơ bản được sử dụng rộng rãi đối với những người làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh hoặc trong khu vực hành chính sự nghiệp ở Việt Nam và được xác định trong hệ thống thang, bảng lương của nhà nước. Để được xếp vào một bậc nhất định trong hệ thống thang, bảng lương người lao động phải có trình độ lành nghề, kiến thức, kinh nghiệm làm việc nhất định.
Trong thực tế, người lao động trong khu vực nhà nước thường coi lương cơ bản như một thước đo chủ yếu về trình độ lành nghề và thâm niên nghề nghiệp. Do đó, người lao động rất tự hào về mức lương cơ bản cao, họ luôn muốn được tăng lương cơ bản, mặc dù, lương cơ bản chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng doanh thu từ công việc.
Phụ cấp lương.
Phụ cấp lương chính là tiền trả công lao động ngoài tiền lương cơ bản.
Phần phụ cấp lương sẽ bổ sung cho lương cơ bản, bù đắp thêm cho người lao động khi họ phải làm việc trong những điều kiện không ổn định hoặc là không thuận lợi mà chưa được tính đến khi xác định lương cơ bản.
Tại Việt Nam, trong khu vực nhà nước, có rất nhiều loại phụ cấp khác nhau như:
Phụ cấp trách nhiệm.
Phụ cấp chức vụ.
Phụ cấp độc hại, nguy hiểm.
Phụ cấp đắt đỏ.
Phụ cấp khu vực.
Phụ cấp ca kíp.
Phụ cấp ngành nghề,...
Trong khu vực ngoài quốc doanh, thường không có các loại phụ cấp này. Khi trả các mức lương khác nhau cho người lao động, doanh nghiệp đã có ý tính đến các yếu tố khác nhau đó.
Tiền phụ cấp có ý nghĩa kích thích người lao động thực hiện tốt công việc trong những điều kiện khó khăn, phức tạp hơn bình thường.
Tiền thưởng.
Tiền thưởng là một loại kích thích vật chất có tác dụng rất tích cực đối với người lao động, nó sẽ tác động người lao động phấn đấu làm việc tốt hơn. Tiền thưởng cũng có rất nhiều loại.
Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể áp dụng một số hoặc tất cả các loại thưởng như sau:
Thưởng sáng kiến: khi người lao động có những sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, tìm ra những phương pháp làm việc mới,… Khi doanh nghiệp áp dụng loại thưởng này nhằm kích thích nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành, hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Thưởng theo kết quả hoạt động kinh doanh chung của doanh nghiệp: Khi doanh nhiệp làm ăn có lãi, người lao động trong doanh nghiệp sẽ được chia một phần tiền lãi d