Từ lâu, giáo dục - đào tạo đã trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Giáo dục không chỉ góp phần hoàn thiện con người mà còn tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Đặc biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu đối với công cuộc xây dựng, đất nước. Hồ Chí Minh đã từng dạy "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Con người xã hội chủ nghĩa không phải tự dưng mà có được mà phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện. Việc học tập ở đây là tiếp thu những tri thức khoa học tiến bộ của thời đại, đồng thời biết kế thừa và phát huy những di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới.
Để giáo dục đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc đề ra chủ trương, chính sách mới, tiếp thu những tư tưởng giáo dục mới, chúng ta cần phải kế thừa, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc đó là nền giáo dục Nho học.
Nho giáo du nhập vào nước ta cách đây khoảng hơn 2000 năm và gắn liền với sự hình thành và phát triển của chế độ và xã hội phong kiến Việt Nam. Nó đã trở thành hệ tư tưởng, công cụ thống trị của giai cấp phong kiến và ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị và giáo dục khoa cử. Nho giáo và giáo dục Nho giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong di sản văn hoá dân tộc.Vì vậy khi nghiên cứu tư tưởng truyền thống của dân tộc không thể bỏ qua vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong lịch sử.Việc tìm hiểu về giáo dục Nho giáo còn giúp chúng ta có những đánh giá toàn diện hơn giáo dục Nho giáo từ đó khắc phục hạn chế và kế thừa những giá trị tích cực của nó vào hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam" làm đề tài niên luận.
33 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 6936 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ lâu, giáo dục - đào tạo đã trở thành vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Giáo dục không chỉ góp phần hoàn thiện con người mà còn tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Đặc biệt, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta, giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu đối với công cuộc xây dựng, đất nước. Hồ Chí Minh đã từng dạy "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Con người xã hội chủ nghĩa không phải tự dưng mà có được mà phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện. Việc học tập ở đây là tiếp thu những tri thức khoa học tiến bộ của thời đại, đồng thời biết kế thừa và phát huy những di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế giới.
Để giáo dục đạt hiệu quả cao, bên cạnh việc đề ra chủ trương, chính sách mới, tiếp thu những tư tưởng giáo dục mới, chúng ta cần phải kế thừa, phát huy truyền thống quý báu của dân tộc đó là nền giáo dục Nho học.
Nho giáo du nhập vào nước ta cách đây khoảng hơn 2000 năm và gắn liền với sự hình thành và phát triển của chế độ và xã hội phong kiến Việt Nam. Nó đã trở thành hệ tư tưởng, công cụ thống trị của giai cấp phong kiến và ảnh hưởng tới nhiều mặt của đời sống xã hội Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị và giáo dục khoa cử. Nho giáo và giáo dục Nho giáo đã trở thành một phần không thể thiếu trong di sản văn hoá dân tộc.Vì vậy khi nghiên cứu tư tưởng truyền thống của dân tộc không thể bỏ qua vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong lịch sử.Việc tìm hiểu về giáo dục Nho giáo còn giúp chúng ta có những đánh giá toàn diện hơn giáo dục Nho giáo từ đó khắc phục hạn chế và kế thừa những giá trị tích cực của nó vào hệ thống giáo dục đào tạo ở nước ta hiện nay. Từ những lý do trên, tôi chọn vấn đề "Vị trí, vai trò của giáo dục Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam" làm đề tài niên luận.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nghiên cứu về giáo dục Nho giáo và ảnh hưởng của nó trong chế độ phong kiến Việt Nam không còn là đề tài mới mẻ. Có rất nhiều công trình đã nghiên cứu về vấn đề này dưới nhiều góc độ và phương pháp tiếp cận khác nhau của các tá giả như: Nho học và Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Tài Thư (Chủ biên); Nho học ở Việt Nam giáo dục và thi cử - Nguyễn Thế Long, Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến - Nguyễn Tiến Cường, Giáo dục và khoa cử Việt Nam - Nguyễn Quang Thắng..
Nền giáo dục khoa cử của triều đại phong kiến Việt Nam đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau như: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú và Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên soạn… Tuy nhiên các công trình này mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê các sự kiện lịch sử của các triều đại phong kiến Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực, kể cả giáo dục - khoa cử từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá của mình.
Bên cạnh các công trình trên còn có nhiều luận văn, luận án và các bài viết trên tạp chí nghiên cứu lịch sử, tạp chí giáo dục lý luận, tạp chí triết học… như "Đôi điều suy nghĩ về đối tượng giáo dục giáo hoá" của Nguyễn Thanh Bình, "Quan điểm của Khổng Tử về giáo dục và đào tạo con người" của Doãn Chính… Nhìn chung các công trình đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về tư tưởng giáo dục Nho giáo và sự phát triển của giáo dục Nho giáo trong chế độ phong kiến ở Việt Nam với những khía cạnh và góc độ khác nhau. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về giáo dục Nho giáo vẫn chưa có sự đánh giá đầy đủ về vai trò, vị trí của nó trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Vì vậy, tôi chọn đề tài trên với mong muốn làm sáng tỏ một số nội dung của giáo dục Nho giáo và vai trò của nó trong sự phát triển của xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XV.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Đề tài tập trung làm rõ ảnh hưởng và vai trò của giáo dục Nho giáo đối với xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XV.
- Nhiệm vụ:
+Làm rõ cơ sở kinh tế, xã hội cho sự ra đời của Nho giáo và giáo dục Nho giáo.
+ Trình bày một số nội dung cơ bản của giáo dục Nho giáo
+ Trình bày sơ lược về quá trình du nhập và phát triển cùng những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của giáo dục Nho giáo.
+ Đánh giá về vai trò, vị trí của giáo dục Nho giáo trong sự phát triển của xã hội phong kiến thế kỷ XV.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin về lịch sử triết học.
- Phương pháp luận: nghiên cứu sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và quan điểm của chủ nghĩa Mác về lịch sử triết học. Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp logic - lịch sử.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: giáo dục Nho giáo và vị trí, vai trò của nó trong xã hội phong kiến thế kỷ XV.
- Phạm vi nghiên cứu: Nền giáo dục khoa cử nước ta thế kỷ XV.
6. Kết cấu của niên luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của nghiên cứu gồm 2 chương, 4 tiết.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I - NHO GIÁO VÀ GIÁO DỤC KHOA CỬ
1.1. NHỮNG TIỀN ĐỀ VÀ NỘI DUNG CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO.
1.1.1. Nho giáo và tiền đề kinh tế - xã hội cho sự ra đời của giáo dục Nho giáo
Nho giáo xuất hiện ở Trung Quốc vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên dưới thời Xuân Thu do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, Nho giáo ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn ở những khía cạnh, mức độ khác nhau.
Ra đời trong bối cảnh xã hội Trung Quốc bước vào thời kỳ chuyển giao từ hình thái chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu Phương Đông nên Nho giáo thời kỳ này chịu ảnh hưởng của sự biến đổi sâu sắc, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Giống như các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, là một học thuyết chính trị xã hội nên Nho giáo nảy sinh và tồn tại trên một cơ sở hạ tầng, một tồn tại xã hội nhất định.
Trên lĩnh vực kinh tế: Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc có sự chuyển biến từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Việc sử dụng đồ sắt trong sản xuất đã đem lại những bước tiến mới cho sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp. Trong sản xuất thủ công nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu thúc đẩy một loạt các ngành nghề thủ công nghiệp ra đời và phát triển như luyện sắt, rèn, đúc…
Trên cơ sở phát triển sản xuất thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng đạt được nhiều thành tựu. Sự ra đời của tiền tệ đã thúc đẩy các ngành thương nghiệp cùng nhiều trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá được mở rộng hơn. Thành thị xuất hiện và trở thành một cơ sở kinh tế độc lập. Lúc này, trong xã hội hình thành tầng lớp quý tộc mới có thế lực, tranh giành quyền lực với tầng lớp quý tộc cũ. Vì vậy mà nhu cầu cho con em quý tộc học hành và thi đỗ ra làm quan đã trở nên phổ biến. Đây chính là tiền đề cho việc dạy học và đề cao giáo dục đạo đức nhằm duy trì và ổn định trật tự xã hội.
Trên lĩnh vực xã hội: Cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc, xã hội Trung Quốc đang bước dần sang chế độ phong kiến sơ kỳ nên Tông pháp của nhà Chu không còn được coi trọng như trước. Các nước Chư hầu nổi lên, thôn tính lẫn nhau lấn át nhà Chu. Mâu thuẫn trong giai cấp thống trị ngày càng trở nên gay gắt dẫn tới tình trạng trật tự lễ, nghĩa, cương thường bị đảo lộn, các quan hệ đạo đức suy đồi "Chư hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha, trật tự xã hội rối loạn"[35;4]. Trong bối cảnh loạn lạc đó một vấn đề lớn đặt ra: cách tổ chức và quản lý xã hội theo mô hình nhà Chu không còn phù hợp nữa. Và vấn đề là làm thế nào để thiết lập lại trật tự, kỷ cương đưa xã hội vào thế ổn định để phát triển.
Chính trong thời đại lịch sử với những biến động, rối ren như trên đã làm nảy sinh một loạt các nhà tư tưởng, các trường phái triết học khác nhau. Tất cả đều đứng trên lập trường của giai cấp mình để tranh luận, phê phán lẫn nhau về một biện pháp khắc phục tình trạng "vô đạo" của xã hội đương thời. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia tranh minh", "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thày). Trong đó, xuất hiện nhiều nhà tư tưởng, nhiều hệ thống, trường phái triết học như Nho giáo, Đạo giáo, Mặc gia, Pháp gia…
Một bộ phận hết sức quan trọng của học thuyết Nho giáo là tư tưởng về giáo dục. Tư tưởng giáo dục được coi là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo và nó được xem như một thành tố gắn liền với tư tưởng chính trị, xã hội, đạo đức..
Trong quan niệm của các nhà nho, xã hội lý tưởng chỉ có thể thực hiện được khi mọi người được giáo dục, giáo hoá và có đạo đức. "Giáo dục cũng là một trong những biện pháp chính trị để xây dựng một xã hội ổn định, thái bình, thịnh trị, có trật tự kỷ cương và tạo ra mẫu người lý tưởng" [3; 41]. Muốn cho Nho giáo có thể thấm sâu đến mọi tầng lớp trong xã hội thì không có con đường nào khác ngoài việc truyền bá tư tưởng qua con đường giáo dục cùng với sự thịnh trị của chế độ phong kiến, Nho giáo ngày càng khẳng định vị trí của mình trong xã hội. Nhờ đó, giáo dục Nho giáo cũng được đẩy mạnh để tuyển lựa những người trung thành với bộ máy cai trị, góp phần vào sự phát triển của chế độ phong kiến.
* Quan niệm của Nho giáo về tính người và vai trò của giáo dục Nho giáo trong việc thay đổi bản tính con người.
Vấn đề tính người là một trong những nội dung cơ bản của Nho giáo. Nó không chỉ gắn bó, liên quan tới vấn đề nguồn gốc, bản chất con người mà còn đặt cơ sở, nền tảng cho các nhà Nho giáo đề xuất tư tưởng giáo dục của mình. Đây được xem như phương thức hữu hiệu nhất để đưa xã hội từ loạn lạc về thái bình, thịnh trị.
Người đầu tiên đề cập tới vấn đề bản tính con người trong phái Nho giáo là Khổng Tử. Trong sách Luận ngữ, có tới 3 lần ông nhắc tới chữ "tính" luận về tính ông nói "Bản tính người ta gần đều giống nhau, nhưng chịu ảnh hưởng khác nhau mà xa nhau" [14; 614]. Theo Khổng Tử, tính của con người khi mới sinh ra là hoàn toàn trong trắng, ngây thơ, tự nhiên, chưa bị thay đổi bởi hoàn cảnh bên ngoài. Vì cái bản tính ấy có được do trời nên mọi người đều có bản tính giống nhau. Nhưng trong quá trình học tập, tiếp xúc, do sự tác động của các yếu tố bên ngoài nên bản tính của con người có thể bị thay đổi. Điều đó làm cho mọi người trở nên khác nhau."Người ta sinh ra vốn ngay thẳng, kẻ cong vạy mà vẫn còn sống chẳng qua nhờ may mắn thoát chết" [14; 332]. Khổng Tử còn khẳng định rằng để giữ được bản tính lành trong mỗi con người thì họ phải được giáo dục, giáo hoá. Mặc dù, chưa bàn nhiều đến vấn đề "tính người" song những tư tưởng, những quan niệm của Khổng Tử đưa ra có ý nghĩa to lớn với các nhà nho sau này.
Tiếp thu và kế thừa quan điểm của Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng: "Bản tính người ta vốn thiện cũng như nước chảy xuống thấp vậy" [14; 1193]. Ở đây, Mạnh Tử giải thích về tính người thiên về khía cạnh những giá trị xã hội. Con người ta sinh ra vốn đã thiện đó là điểm phân biệt giữa con người với loài cầm thú. Con người sở dĩ trở thành bất thiện là do vật dục sai khiến, do hoàn cảnh tác động. Tư tưởng này là sự kế thừa và phát triển tư tưởng "tính người" của Khổng Tử. Mạnh Tử cũng đề cao vai trò của giáo dục, giáo hoá trong việc tu dưỡng bản tính thiện của con người.
Đối lập với quan niệm của Mạnh Tử, Tuân Tử khẳng định: bản tính con người là ác, thiện là do con người làm ra. Tuân Tử xuất phát từ việc nhìn nhận con người từ bản năng tự nhiên khác với Mạnh Tử xuất phát từ nhìn nhận, xem xét con người từ phương diện đạo đức, xã hội. Tuy coi bản tính con người là ác nhưng Tuân Tử cho rằng có thể uốn nắn được cái bản tính ấy nhờ giáo hoá, giáo dục mà phương thức tốt nhất để loại trừ nó là học tập, rèn luyện.
Quan niệm về bản tính con người của Tuân Tử và Mạnh Tử có sự đối lập, trái ngược nhau song đều thống nhất ở chỗ: Có thể giáo hoá giáo dục để hướng con người tới điều thiện. Tuy nhiên, trong học thuyết của mình cả hai ông đều chưa nhận thấy được con người là thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên và cái xã hội.
Ngoài những quan niệm trên thì con người phải kể đến thuyết tính người của Cáo Tử "Bản tính của con người ta như nước chảy… không phân biệt thiện với bất thiện" [14; 1193]. Trong tư tưởng của Cáo Tử, tính người của con người không thiện cũng không ác nhưng nó có thể thay đổi tuỳ theo sự tác động của hoàn cảnh xã hội và việc giáo dục tu dưỡng của mỗi con người.
Mặc dù có sự khác nhau trong quan niệm về bản tính vốn có của con người nhưng các nhà Nho đều khẳng định rằng: Bản tính của con người không phải nhất thành bất biến mà có thể thay đổi thông qua sự tác động của giáo dục, hoàn cảnh. Phương thức tốt nhất để giữ được tính thiện, loại trừ tính ác là con người luôn suy nghĩ và hành động theo điều thiện, tu dưỡng, rèn luyện bằng nhân, lễ, nghĩa, trí,tín. Đó là điều có thể lý giải tại sao Nho giáo lại coi trọng giáo dục, đề cao giáo hoá và coi đây là công cụ cai trị.
1.1.2. Một số nội dung cơ bản của giáo dục Nho giáo
Mục đích của giáo dục: Nhằm đào tạo ra lớp người đáp ứng yêu cầu của giai cấp thống trị, bảo vệ đặc quyền lợi của giai cấp phong kiến, duy trì, ổn định trật tự xã hội. Quan trọng hơn, giáo dục Nho giáo có mục đích đào tạo ra những bậc quân tử là những con người mẫu mực có tài trí, đạo đức đem hiểu biết của mình áp dụng vào cuộc sống và cai trị thiên hạn . Ngoài ra giáo dục Nho giáo còn giáo dục đạo lý làm người cho dân chúng để họ tuân theo những quy định phép tắc của lễ giáo phong kiến, khuyên họ an phận thủ thường sống theo đúng danh phận của mình. Tóm lại, tất cả đều nhằm mục đích đưa xã hội từ loạn lạc trở về thái bình thịnh trị để củng cố, bảo vệ quyền lợi địa vị của giai cấp phong kiến. Mục đích của giáo dục Nho giáo không nằm ngoài mục tiêu chính trị.
Đối tượng của giáo dục: Trong Luận ngữ Khổng Tử nói "hữu giáo vô loại" tức là giáo dục không phân biệt kẻ sang người hèn, kẻ cao người thấp. Nho giáo không chỉ coi tầng lớp quý tộc, thống trị là đối tượng của giáo dục mà người dân bình thường cũng là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Nhưng thực tế thì không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục, giáo hoá. Bởi vì thứ nhất, trong xã hội phong kiến thì người dân không phải ai cũng có điều kiện để học tập, đặc biệt là người nghèo khổ. Thứ hai, một mặt ông chủ trương “hữu giáo vô loại” nhưng mặt khác, ở chỗ khác thì đối với người nông dân, những người hèn kém về mặt đạo đức thì ông lại áp dụng chính sách ngu dân. Đặc biệt, Nho giáo không tính đến vai trò của người phụ nữ và kẻ tiểu nhân trong việc giáo dục, giáo hoá. . Mạnh Tử cho rằng không phải mọi người dân đều là đối tượng của giáo dục. Theo ông, điểm khác nhau giữa con người và con vật chính là ở tứ thiện tâm: Trắc ẩn, tu ố, cung kính, thị phi. Ở kẻ tiểu nhân thì ngay từ khi lọt lòng mẹ đã mất đi những điều này. Tức là trong quan niệm của Mạnh Tử thì kẻ tiểu nhân không thể là đối tượng của giáo dục.
Tuân Tử thì cho rằng kẻ tiểu nhân ngay từ khi sinh ra mãi mãi là kẻ tàn bạo, gian ác thèm muốn của cải mà không biết tu dưỡng rèn luyện và họ không phải là đối tượng của giáo dục.
Từ thời Hán trở đi, các nhà Nho cũng có cùng một quan niệm cho rằng thứ dân, kẻ tiểu nhân không phải là đối tượng của giáo dục và cho dù có được học hành thì dưới con mắt của các nhà Nho, người cầm quyền, thì họ cũng chỉ là những kẻ hạ ngu "không nghe theo giáo hoá" khinh nhờn lời dạy của thánh nhân.
Như vậy, xét về đối tượng giáo dục, Nho giáo thể hiện tính chất bất bình đẳng, tính chất giai cấp rõ rệt. Chứng tỏ, trong xã hội, mà giai cấp bóc lột là kẻ thống trị thì không có nền giáo dục bình đẳng không phải ai cũng được học hành.
Nội dung của giáo dục Nho giáo:không nằm ngoài Tứ Thư, Ngũ Kinh và những lời dạy của bậc thánh hiền tức là không ngoài những nguyên lý đạo đức cơ bản của Tam cương, Ngũ thường.
Trong nội dung giáo dục của mình, Nho giáo còn đề cao việc giáo dục đạo trị nước" cho con người. Nho giáo còn chủ trương dùng hình, pháp và luật để giáo hoá, giáo dục nhưng mục đích cuối cùng vẫn là duy trì trật tự xã hội bảo vệ lợi ích giai cấp phong kiến.
Nhìn chung, nội dung giáo dục là sát với vấn đề thực tế nhưng hạn chế lớn hất là chưa bao giờ dạy cho con người những tri thức về tự nhiên, khoa học tự nhiên, lao động sản xuất. Vì vậy đã đào tạo ra những con người thuần tuý sách vở chỉ biết nghe theo lời dạy của thánh hiền mà mất đi khả năng chủ động, sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất, thụ động trước những biến đổi của thời cuộc.
Phương pháp giáo dục: thứ nhất Nho giáo đề cao phương pháp nêu gương trong giáo dục. Thứ hai là phương pháp "ôn cố nhi tri tân" (ôn cũ biết mới). Thứ ba là phương pháp phân loại học trò. Phương pháp thứ tư mà Nho giáo chú trọng đến là phương pháp "gợi mở vấn đề". Thứ năm là phương pháp học đi đôi với hành. Nho giáo còn đưa ra nguyên tắc cho cả người dạy và người học "học không biết chán, dạy không biết mỏi".
Mặc dù có nhiều điểm tiến bộ và tích cực song xét một cách tổng thể quan niệm về nội dung, mục đích, đối tượng, phương pháp giáo dục của Nho giáo không tránh khỏi những hạn chế do hoàn cảnh xã hội quy định. Với tất cả những gì đã làm thì giáo dục Nho giáo được đánh giá cao và có ảnh hưởng tới giáo dục Việt Nam nói riêng, xã hội phong kiến nói chung và cho tới ngày nay
1.2. QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC NHO GIÁO Ở VIỆT NAM TRƯỚC THẾ KỶ XV
Nho giáo vào Việt Nam có thể nói là từ khi người Hán đặt chân lên đất nước ta từ trước công nguyên. Theo Đại Việt sử ký toàn thư vào đầu công nguyên, hai viên thái thú quận Giao Chỉ là Nhâm Diên và Tích Quang đã tích cực "dựng học hiệu dạy lễ" mở trường dạy Nho giáo, nhưng việc truyền bá Nho giáo thực sự có nề nếp là từ thế kỷ I sau công nguyên. “Đến thế kỷ II, khi Sỹ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ thì việc học Nho đã tương đối phổ biến. Nhiều sĩ phu Trung Quốc đến nương nhờ Sỹ Nhiếp đều mở trường dạy Nho học”[22:80]. Tình hình trên làm cho người Giao Châu dần làm quen với Nho giáo và từ đó có sự thay đổi trong nhận thức cũng như trong thái độ với Nho giáo "từ phản ứng đến tiếp thu, từ xa lạ đến gần gũi và từ công cụ của kẻ thống trị người Giao Châu đã biến nó thành công cụ của bản thân mình"[22;81]
Trong thời Bắc thuộc, mục đích của việc truyền bá là đào tạo nên những người làm việc cho chính quyền Hán. Vì vậy mà đối tượng giáo dục ở thời kỳ này là con em người Hán làm quan ở Giao Châu và sau đó là những người chạy loạn từ Trung Quốc sang và cuối cùng là con em người Việt thuộc tầng lớp trên của xã hội."Giao Châu lúc này là một vùng đất tương đối ổn định nhiều nhà Nho Trung Quốc chạy sang nương náu và sáng tác học thuật, trong số các viên quan cai trị, những người có học vấn uyên thâm thậm chí có người được liệt vào bậc nhất của Trung Quốc đương thời như Sĩ Nhiếp" [22;81].
Năm 938, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử dân tộc Việt Nam đã bước sang trang mới - thời kỳ độc lập, thống nhất đất nước, tổ chức chống ngoại xâm. Mặt khác, cũng vì thời gian tồn tại của các triều đại là không dài nên chưa có đủ thời gian ổn định trật tự kỷ cương, thể chế chính trị, tổ chức nhà nước chưa “khớp” với tư tưởng Nho giáo. Vì thế mà ảnh hưởng của Nho giáo trên lĩnh vực chính trị, xã hội ở nước ta hồi ấy còn chưa rõ nét.
Thời kỳ này, các triều đại phong kiến đã sử dụng làm hệ tư tưởng của mình. Phật giáo đã ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Số lượng các tăng ni phật tử ngày càng gia tăng, chùa chiền được xây dựng thêm ngày một nhiều. Tầng lớp trí thức của xã hội không phải là Nho sĩ mà là các vị cao tăng. Họ không chỉ am hiểu Phật giáo mà cả Nho giáo và được triều đình phong kiến trọng dụng (nhiều nhà sư giỏi và nổi tiếng như Vạn Hạnh, Ngô Chân Lưu, Sùng Phạm, Đỗ Pháp Thuận).
Không chỉ trọng dụng Phật giáo, các triều đại phong kiến thời kỳ này có rất coi trọng Đạo giáo. Trong khi đó, Nho giáo thời kỳ này không có bước phát triển nào, ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã hội là triều đình là hết sức mờ nhạt.
Đến thời Lý - Trần, Phật giáo được ưa chuộng chiếm vị trí độc tôn trong xã hội. Tuy nhiên, Phật giáo với triết lý cùng cách thức tổ chức lỏng lẻo đã không đáp ứng được yêu cầu trong việc thiết lập, tổ chức, duy trì