Hoạt động magma Kainozoi phổ biếnrấtrộng rãi không chỉ trong phạm vi Đông 
Dương, mà còn phát triển trên nhiều khuvực khác thuộclục địa châu Á.Một khối 
lượng khổnglồ các đá phun trào có thành phần chủyếu là bazan đã hình thành trên các 
lãnh thổ, kéo dàitừ vùng Sikhote Alin(Đông Nga), MôngCổ, bán đảo Triều Tiên qua 
Đông Trung Quốc đếntận các bán đảo ĐôngDương, Malaysia.Tại khuvực Đông 
Dương, Việt Nam là lãnh thổ cólượng đá bazan Kainozoilớnhơncả,tập trung chủyếu 
ở Tây Nguyên, vùng venbờ biển Đông, ngoài ra cònmộtlượng nhỏ ở phíaBắcBộ và 
TrungBộ, phân bốtrên diện tích ~32000 km
2
. 
Một đặc điểmrất quan trọng khiến bazan Kainozoi được nhiều nhà khoahọc quan 
tâm nghiên cứu là chúng mang các đá quý (saphir,rubi, zircon, spinel) rất có giá trịkinh 
tế. 
Kết quả xác định tuổi tuyệt đốicủa nhiều tác giả trongnước vànước ngoài cho thấy 
các đá bazan Tây Nguyên Việt Nam (TNVN) có khoảng tuổi kéo dàitừ ~17 Tr.n. đến 
năm 1923 [1, 3, 10, 17]. 
Căn cứvào thành phần các nguyên tố chính, hoạt động magma bazan khuvực nghiên 
cứu được chia làm hai loạt: loạtsớm (khoảng 17 đến 6 Tr.n.) có thành phần chủyếu là 
tholeit thạch anh,lượng bazan kiềm không đángkể; loạt muộn (khoảng 6 Tr.n. đến hiện 
tại) có bazan kiềm chiếm đasố. Trong quá trình hoạt động có nhiều đợt ngưng nghỉ, có 
những đợt ngưng nghỉkéo dài trên 1 Tr.n.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
18 trang | 
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 2058 | Lượt tải: 4
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều kiện thành tạo các đá bazan tây nguyên, Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu đặc thành phần khoáng vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Điều Kiện Thành Tạo Các Đá Bazan Tây Nguyên, Việt Nam Trên 
 Cơ Sở Nghiên Cứu Đặc Thành Phần Khoáng Vật 
 Nguyễn Viết Ý, Ngô Thị Phượng, Phạm Thị Dung, Trần Hồng Lam, Hoàng Việt Hằng 
 Viện địa chất, Viện KH&CNVN, 84,Phố Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội 
 Tóm tắt: Trên bán đảo Đông Dương, Việt Nam là lãnh thổ có lượng đá bazan 
 Kainozoi lớn hơn cả. Chúng tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Nguyên. 
 Các khoáng vật tạo đá chính trong bazan Tây Nguyên gồm: olivin; 
 orthopyroxen, clinopyroxen, plagioclas, một lượng nhỏ amphibol và biotit. 
 Dựa vào dạng tồn tại và thành phần hóa học, olivin, trong các đá bazan 
 TNVN được phân ra làm 2 nhóm; orthopyroxen: 3 nhóm; clinopyroxen: 3 nhóm 
 và amphibol: 2 nhóm. 
 Olivin (Ol) thuộc nhóm 1 gồm Nod-Ol và Xeno-Ol có hàm lượng MgO dao 
 động trong khoảng hẹp (47-51 %), hàm lượng FeO khá ổn định (8-11%), đồng 
 thời có hàm lượng NiO cao (0,32- 0,44 %). Olivin thuộc nhóm 2 gồm các 
 Pheno-Ol, rất phổ biến trong các đá bazan kiềm và trong các thể tù gabronorit 
 olivin. Chúng khác biệt với nhóm thứ nhất ở chỗ hàm lượng MgO biến thiên 
 liên tục trong khoảng 27-44%, FeO giảm từ 25 đến 18%, trong khi đó NiO tăng 
 từ 0,01 đến 0,32%. 
 Orthopyroxen (Opx) thuộc nhóm 1 tồn tại trong các bao thể lerzolit có hàm 
 lượng MgO thay đổi trong khoảng hẹp (khoảng 26%), FeO khá cao (~14%), 
 Al2O3 cao nhất (5-5,4%), Cr2O3 (0,2%), NiO (0,02- 0,04%). 
 Opx nhóm 2 nằm trong các đá đolerit, có hàm lượng MgO cao hơn nhóm 
 thứ nhất (28-29%); FeO thấp hơn (12%); Cr2O3= 0,2-0,5%, Al2O3 thấp nhất (1-
 2%), hàm lượng NiO hoàn toàn tương đồng với nhóm thứ nhất. 
 Opx nhóm 3 phân bố trong các đá có thành phần tương đồng với gabronorit 
 trong tổ hợp cộng sinh với Cpx + Pl ± Ol . Các đá này tồn tại dưới dạng các thể 
 tù trong bazan kiềm. Hàm lượng MgO trong Opx nhóm 3 cao nhất so với các 
 nhóm trên (32-35%); sắt thấp nhất (5-7%); NiO cao nhất (0,07-0,15%), đồng 
 thời Cr2O3 cũng có giá trị cao nhất. 
 Clinopyroxen (Cpx) trong các bao thể werlit spinel và lerzolit có hàm lượng 
 nhôm rất cao (5,58 - 8,73%), nghịch biến với nó là hàm lượng MgO thấp (14-
 11,77%), hàm lượng các nguyên tố khác ít dao động (ví dụ FeO), hoặc dao 
 động trong khoảng rộng, chẳng hạn như TiO2 và Cr2O3. Cpx trong các ban tinh 
 có hàm lượng nhôm thay đổi từ 3,70 đến 7,36% (do tính phân đới), trong khi đó 
 hàm lượng MgO thay đổi từ 12,8 đến 16,17%, Cpx trong phần nền của bazan 
 và trong các đá đolerit khác biệt với hai loại trên ở hàm lượng nhôm rất thấp 
 (1-1,45%), hàm lượng FeO thay đổi từ 13,92 đến 16,72, MgO dao động trong 
 khoảng hẹp, mối tương quan nghịch biến giữa MgO và Al2O3 không rõ. 
 Amphibol (Am) có hai nguồn gốc: nguyên sinh và thứ sinh. Am nguyên sinh 
 (nhóm 1) tồn tại trong bazan TNVN dưới dạng các xenocrist. Chúng có hàm 
 lượng Al2O3 cao (11,31 - 12,86%), TiO2 = 2-8,11%, và hàm lượng SiO2 dao 
 động trong khoảng 38-41%. 
 Am nhóm 2 phân bố trong phần nền của bazan hoặc trong một vài bao thể 
 lerzolit. Hình dạng tinh thể và tương quan với các khoáng vật cộng sinh cho 
 thấy chúng rất có thể hình thành do quá trình biến chất trao đổi xẩy ra vào giai 
 đoạn muộn hơn của hoạt động magma bazan. Thành phần hóa học của các Am 
 này khác biệt hẳn so với nhóm 1. Hàm lượng nhôm thấp (Al2O3 = 5,51-8,76%), 
 TiO2 thấp (0,6- 1%); SiO2=46-51%. 
 Điều kiện P-T thành tạo của các magma bazan kiềm được xác định là: P~ 
 23 kbar, T~ 1100oC. Đối chiếu với một số kết quả nghiên cứu của các tác giả 
 khác [7, 9, 19], các tác giả bài báo cho rằng độ sâu thành tạo của magma 
 bazan có thể sâu hơn và không loại trừ khả năng mang kim cương của chúng. 
 Các tác giả cũng lưư ý rằng, các đá bazan TNVN, đặc biệt là bazan kiềm, 
 chứa khá nhiều thể tù thành phần rất đa dạng và chắc chắn có nguồn gốc khác 
 nhau. Sự có mặt của chúng ảnh hưởng rất lớn đến kết quả phân tích các mẫu đá 
 tổng, vì vậy cần phải thận trọng khi đưa ra các mô hình thạch luận dựa trên các 
 số liệu thạch địa hóa. 
 MỞ ĐẦU 
 Hoạt động magma Kainozoi phổ biến rất rộng rãi không chỉ trong phạm vi Đông 
Dương, mà còn phát triển trên nhiều khu vực khác thuộc lục địa châu Á. Một khối 
lượng khổng lồ các đá phun trào có thành phần chủ yếu là bazan đã hình thành trên các 
lãnh thổ, kéo dài từ vùng Sikhote Alin (Đông Nga), Mông Cổ, bán đảo Triều Tiên qua 
Đông Trung Quốc đến tận các bán đảo Đông Dương, Malaysia... Tại khu vực Đông 
Dương, Việt Nam là lãnh thổ có lượng đá bazan Kainozoi lớn hơn cả, tập trung chủ yếu 
ở Tây Nguyên, vùng ven bờ biển Đông, ngoài ra còn một lượng nhỏ ở phía Bắc Bộ và 
Trung Bộ, phân bố trên diện tích ~32000 km2. 
 Một đặc điểm rất quan trọng khiến bazan Kainozoi được nhiều nhà khoa học quan 
tâm nghiên cứu là chúng mang các đá quý (saphir, rubi, zircon, spinel) rất có giá trị kinh 
tế. 
 Kết quả xác định tuổi tuyệt đối của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài cho thấy 
các đá bazan Tây Nguyên Việt Nam (TNVN) có khoảng tuổi kéo dài từ ~17 Tr.n. đến 
năm 1923 [1, 3, 10, 17]. 
 Căn cứ vào thành phần các nguyên tố chính, hoạt động magma bazan khu vực nghiên 
cứu được chia làm hai loạt: loạt sớm (khoảng 17 đến 6 Tr.n.) có thành phần chủ yếu là 
tholeit thạch anh, lượng bazan kiềm không đáng kể; loạt muộn (khoảng 6 Tr.n. đến hiện 
tại) có bazan kiềm chiếm đa số. Trong quá trình hoạt động có nhiều đợt ngưng nghỉ, có 
những đợt ngưng nghỉ kéo dài trên 1 Tr.n. 
 Đặc điểm thành phần nguyên tố đồng vị cho thấy bazan TNVN mang dị thường 
Dupal (206Pb/204Pb thấp, 208Pb/204Pb cao). Đây là một trong những vấn đề được nhiều 
nhà địa chất quan tâm giải thích, tuy vẫn còn nhiều điểm chưa thống nhất. 
 Điều kiện thành tạo các đá bazan đã và đang được các nhà địa chất xem xét theo ba 
hướng: 
 1- Môi trường kiến tạo [1, 2, 10, 17, 18, 21-23, 26]. 
 2- Bản chất của manti nguồn: dựa trên các số liệu về nguyên tố chính, nguyên tố vết 
và đồng vị [11]. 
 3- Điều kiện P-T thành tạo các magma bazan trên cơ sở nghiên cứu thành phần 
khoáng vật [19], hoặc dựa vào thành phần nguyên tố chính quy về MgO-15 [9]. 
 Trong bài báo này, chúng tôi chú ý đi sâu vào một số đặc điểm thành phần khoáng 
vật tạo đá chính của các đá bazan TNVN, trên cơ sở đó tính toán điều kiện P-T thành 
tạo và những đặc điểm tiến hóa khác của chúng. Mẫu phân tích được lựa chọn bao gồm 
các khoáng vật trong những biến loại đá bazan, trong các bao thể và thể tù bị bắt giữ 
trong bazan, đặc biệt là bazan kiềm. Thành phần các khoáng vật tạo đá được phân tích 
bằng phương pháp vi dò trên máy CAMECA Kevex tại Trung tâm phân tích thuộc Viện 
Khoáng vật và Thạch học, Viện Liên hợp địa chất địa vật lý, Phân viện Sibiri, Viện Hàn 
lâm Khoa học Nga. 
 I. ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHẦN KHOÁNG VẬT CỦA CÁC ĐÁ BAZAN TÂY NGUYÊN VIỆT 
NAM 
 Khoáng vật tạo đá chính trong hầu hết các đá bazan TNVN bao gồm: olivin (Ol), 
orthopyroxen (Opx), clinopyroxen (Cpx), plagioclas (Pl); khoáng vật thứ yếu: amphibol 
(Am), biotit (Bi), felspat kali (Fsp); khoáng vật phụ: magnetit (Mt), ilmenit (Ilm), spinel 
(Spl) 
 Các khoáng vật tạo đá chính cấu tạo nên hai nhóm đá, hình thành trong các môi 
trường và thời đoạn khác nhau: a- nhóm các thể tù bị magma bazan bắt giữ trong quá 
trình di chuyển lên bề mặt; b- nhóm các đá bazan thực thụ (kết tinh trực tiếp từ magma 
bazan). 
 Tuy nhiên, trong thực tế nghiên cứu các đá magma bazan TNVN cần phải phân chia 
các thể tù ra các loại khác nhau và mỗi loại rõ ràng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn 
khác nhau. Cho đến nay, nội dung của chuyên từ thể tù (xenolith) vẫn còn được hiểu 
khác nhau. Một số tác giả xem chúng là những thể đá ngoại lai có kích thước khác nhau 
từ một vài cm3 (hoặc nhỏ hơn) đến hàng m3 bị bắt giữ trong các đá phun trào hoặc xâm 
nhập khác thành phần, đôi khi cùng thành phần, nhưng có thời gian thành tạo khác 
nhau. Những khoáng vật riêng lẻ có nguồn gốc ngoại lai được bắt giữ theo cùng cơ chế 
với thể tù, có kích thước lớn, đôi khi rất tự hình (ví dụ như các tinh thể augit trong 
bazan TNVN có kích thước đến 10-15 cm theo chiều dài, anorthoclas có kích thước 2-5 
cm, saphir, rubi và zircon có kích thước một vài mm đến 5-10 mm) không được coi là 
thể tù mà là megacrist theo một số tác giả, hoặc macrocrist theo một số tác giả khác. Sự 
hình thành các tinh thể gọi là megacrist (macrocrist) chưa rõ, một số người coi chúng là 
sản phẩm kết tinh từ magma bazan, một số người khác xem đó như các khoáng vật có 
nguồn gốc sâu và là hợp phần của manti nguồn. Ngoài ra, những phần khó nóng chảy 
của manti (thành phần tương đồng với nhóm periđotit) còn sót lại và bị bắt giữ trong các 
đá bazan, một số nguời gọi đó là bao thể (nodule), một số nguời khác vẫn gọi là thể tù. 
 Căn cứ vào thực tế nghiên cứu các thể tù trong bazan, đặc biệt là bazan kiềm TNVN, 
chúng tôi phân biệt các loại sau đây: 
 - Thể tù, với nội dung nêu trên mang tính bao quát nhất, dùng để chỉ chung tất cả 
những vật thể bị bắt tù trong các đá magma. 
 - Bao thể (nodule) là các thể tù đại diện cho phần còn sót lại của manti nguồn trong 
quá trình nóng chảy từng phần để tạo nên magma bazan, hoặc bị bắt từ các đá tường 
manti trong khi magma di chuyển lên bề mặt; chúng có thành phần tương đồng với các 
đá nhóm periđotit (lerzolit, werlit, pyroxenit...). 
 - Xenolit* bao gồm các đá có nguồn gốc ngoại lai, thành phần khác biệt với bazan 
hoặc tương tự bazan, nhưng có thời gian thành tạo sớm hơn (pha sớm) được magma 
bazan (pha muộn) bắt giữ trong quá trình di chuyển lên bề mặt. Như vậy xenolit khác 
với bao thể ở chỗ nó không đại diện cho manti. Tuy nhiên, thuật ngữ này được rất nhiều 
nhà nghiên cứu coi là đồng nghĩa với bao thể. 
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ 
 * Theo các Từ điển Địa chất, xenolit có nghĩa là “thể tù” (BBT). 
 - Macrocrist là các thể tù tồn tại dưới dạng đơn tinh thể (augit, anorthoclas...) kích 
thước lớn bị bắt tù trong các đá bazan. Một số tác giả xem rubi, saphir và zircon cũng là 
các macrocrist. Một số tác giả khác cho rằng macrocrist là sản phẩm kết tinh trực tiếp từ 
magma bazan. 
 - Xenocrist là những tinh thể có kích thuớc lớn so với các khoáng vật tạo nên phần 
nền trong bazan (5-10 mm), có phần rìa bị gặm mòn mạnh, đôi khi vỡ vụn. Đa số các 
nhà nghiên cứu xem xenocrist là các khoáng vật của manti. Trong các đá bazan vùng 
nghiên cứu xenocrist thường là olivin và pyroxen thoi, hiếm khi gặp pyroxen xiên. 
Trong trường hợp này xenocrist có nghĩa gần gũi với macrocrist, nhưng kích thước nhỏ 
hơn. 
 Tuy nhiên, việc phân chia các thể tù theo cách nêu trên chỉ mang tính tương đối, 
nhằm tạo nên sự thuận tiện trong khi mô tả. Thực chất vấn đề còn khá phức tạp, các 
khái niệm vẫn chưa rõ ràng, nhiều nội dung trùng lặp. 
 Sự có mặt của các thể tù với thành phần đa dạng đã lưu ý các nhà khoa học rằng, 
những kết quả phân tích hóa toàn phần các đá bazan trên vùng nghiên cứu rõ ràng 
không phản ánh thực chất thành phần magma nguyên sinh, bởi vì khi thu thập mẫu cho 
phân tích chúng ta không thể tách chúng ra khỏi bazan thực thụ. 
 Nhóm khoáng vật trực tiếp kết tinh từ magma bazan bao gồm các ban tinh và các 
khoáng vật cấu tạo nên phần nền của các đá bazan. 
 Đặc biệt trong các đá bazan còn gặp các tập hợp khoáng vật cấu tạo từ một hoặc vài 
loại khoáng vật có kích thước tương đối lớn, có ranh giới khá rõ nét so với phần nền, 
nhưng không có hiện tượng bị hòa tan, gặm mòn như các bao thể hoặc thể tù. Chúng thể 
hiện như các cụm khoáng vật, kết tinh hoàn hảo so với phần nền bao quanh. Để dễ phân 
biệt, chúng tôi tạm gọi chúng là các multicrist (đa tinh). Nguyên nhân hình thành nên 
các multicrist này không rõ, rất có thể chúng được hình thành trong điều kiện hóa lý cục 
bộ thuận lợi cho sự kết tinh hoàn hảo của các khoáng vật tương đồng với thành phần 
của bazan. Trong các đá bazan TNVN, các multicrist thường cấu tạo thuần khiết từ tập 
hợp các tinh thể plagioclas hoặc Cpx, hoặc đôi khi Pl+Cpx. 
 Từ các khái niệm trên, các khoáng vật tạo đá được gọi tên theo dạng tồn tại và để 
đơn giản hóa trong mô tả, chúng tôi ký hiệu bằng cách thêm các tiếp đầu ngữ, ví dụ: 
olivin trong bao thể được ký hiệu: Nod-Ol; olivin dưới dạng xenocrist: Xeno-Ol; 
orthopyroxen trong bao thể: Nod-Opx; ban tinh clinopyroxen: Pheno-Cpx; ban tinh 
olivin: Pheno-Ol... 
 Olivin là khoáng vật phổ biến nhất trong các đá bazan vùng nghiên cứu. Chúng tồn 
tại dưới dạng các xenocrist, ban tinh trong đá bazan và là hợp phần quan trọng của các 
bao thể. Về mặt thành phần có thể chia olivin ra hai nhóm có các đặc điểm khá khác 
biệt: nhóm thứ nhất gồm Nod-Ol và Xeno-Ol; nhóm thứ hai gồm Pheno-Ol. Nhóm thứ 
nhất có hàm lượng MgO dao động trong khoảng hẹp (47-51 %), hàm lượng FeO khá ổn 
định (8-11%), đồng thời có hàm lượng NiO cao (0.32- 0,44 %). Trên các biểu đồ Hình 
1, 2, ta thấy chúng tạo nên một nhóm riêng biệt. 
 40
 30
 2
 O
 e 20
 F
 10 1
 0
 20304050 60
 MgO 
 Hình 1. Tương quan hàm lượng MgO-FeO của Ol trong bazan TNVN 
 0.5
 1
 0.4
 0.3
 O
 i
 N 2
 0.2
 0.1
 0.0
 20304050 60
 MgO 
 Hình 2. Tương quan hàm lượng MgO-NiO của Ol trong bazan TNVN 
 Sự tương đồng về thành phần giữa Nod-Ol và Xeno-Ol cho thấy chúng có chung 
nguồn gốc. Mặt khác Nod-Ol thường có mặt trong tổ hợp cùng với Opx+Cpx ± Spl là 
những tổ hợp được nhiều nhà khoa học thừa nhận là đặc trưng cho thành phần của manti 
trên. 
 Olivin thuộc nhóm thứ hai bao gồm các Pheno-Ol, rất phổ biến trong các đá bazan 
kiềm và trong các thể tù gabronorit olivin ở TNVN. Chúng khác biệt với nhóm thứ nhất 
ở chỗ hàm lượng MgO biến thiên liên tục trong khoảng 27-44%, FeO giảm từ 25 đến 
18%, trong khi đó NiO tăng từ 0,01 đến 0,32% (xem Hình 1, 2). Điều này chứng tỏ 
chúng kết tinh trong điều kiện hóa lý biến đổi không mang tính đột biến. Nhận xét này 
dường như là nghịch lý đối với các magma bazan kiềm là các magma chứa nhiều chất 
bốc, do đó chúng thường tạo nên dạng phun nổ, nghĩa là điều kiện hóa lý thay đổi đột 
ngột. Để giải thích hiện tượng này chúng tôi cho rằng, có lẽ ở giai đoạn đầu, sau khi 
magma nguyên sinh được hình thành, chúng vận chuyển lên bề mặt với một tốc độ 
không quá lớn, nhưng luôn luôn ở trạng thái không cân bằng. Trong điều kiện như vậy, 
các khoáng vật Ol thế hệ khác nhau lần lượt được hình thành phù hợp với thành phần 
magma tàn dư và tới một lúc nào đó, khi các chất khí được giải phóng khỏi magma tạo 
nên áp suất đủ lớn mới gây ra phun nổ. Nếu áp suất không đủ lớn thì magma phun trào 
bình thường. Các magma phun lên trên bề mặt tồn tại dưới dạng "cháo đỗ". Chính vì 
vậy hiện tượng phun nổ không phải lúc nào cũng quan sát thấy trong các trường phân 
bố các đá magma bazan kiềm. Điều này còn được chứng minh bởi sự tồn tại các vành 
phản ứng kế tiếp nhau bao quanh các bao thể hoặc các xenocrist có kích thước lớn, tạo 
nên kiến trúc kiểu vành hoa. 
 Orthopyroxen là khoáng vật ít phổ biến hơn so với olivin, chúng có mặt trong các 
bao thể, thể tù, xenocrist, ban tinh và cả trong phần nền. Để so sánh, chúng tôi lựa chọn 
phân tích các khoáng vật Opx trong 3 dạng tồn tại: trong bao thể lerzolit; trong thể tù 
gabronorit và trong đolerit. Về thành phần, chúng được chia thành ba nhóm rõ rệt, phụ 
thuộc vào tổ hợp khoáng vật mà chúng cộng sinh, tương ứng với 3 dạng tồn tại. 
 Trên các biểu đồ Hình 3, 4, 5, 6, ta thấy các nhóm Opx nói trên khác biệt nhau ở hàm 
lượng MgO, NiO, Cr2O3, Al2O3 và FeO. 
 20
 Lesolit
 Dolerit
 O
 e 10
 F
 Gabronorit
 0
 2030 40
 MgO 
 Hình 3. Tương quan hàm lượng MgO-FeO của Opx trong bazan TNVN 
 0.2
 Gabronorit
 O
 i 0.1
 N
 Lesolit
 +
 Dolerit
 0.0
 2030 40
 MgO 
 Hình 4. Tương quan hàm lượng MgO-NiO của Opx trong bazan TNVN 
 Nhóm thứ nhất bao gồm các khoáng vật Opx trong bao thể lerzolit. Ở đây, chúng có 
hàm lượng MgO thay đổi trong khoảng hẹp (khoảng 26%), FeO khá cao (~14%%), 
Al2O3 cao nhất (5-5,4%), Cr2O3 (0,2%), NiO (0,02- 0,04%). Trong bao thể lerzolit, Opx 
tổ hợp cộng sinh với Ol+Cpx ±Am. 
 Nhóm thứ hai có hàm lượng MgO cao hơn nhóm thứ nhất (28-29%); FeO thấp hơn = 
12%; Cr2O3 = 0,2-0,5%, Al2O3 thấp nhất (1-2%); hàm lượng NiO hoàn toàn tương đồng 
với nhóm thứ nhất. Opx thuộc nhóm thứ hai nằm trong các đá đolerit, ở đây chúng thể 
hiện như các ban tinh. 
 Opx phân bố trong các đá có thành phần tương đồng với gabronorit trong tổ hợp 
cộng sinh với Cpx + Pl ± Ol tạo nên nhóm thứ ba. Các đá này tồn tại dưới dạng các thể 
tù trong bazan kiềm. Rất có thể chúng là các thành tạo xâm nhập hoặc biến chất không 
có liên quan gì với các đá bazan chứa chúng, và cũng có thể chúng là đại diện cho đới 
bền vững plagioclas của manti trên. Phân tích thành phần Opx trong thể tù nói trên cho 
thấy chúng tạo nên một nhóm riêng biệt với hàm lượng MgO cao nhất (32-35%) so với 
Opx của các nhóm trên; sắt thấp nhất (5-7%); NiO cao nhất (0,07-0,15%), đồng thời 
Cr2O3 cũng có giá trị cao nhất 
 Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà địa chất cho thấy, hàm lượng nhôm trong các 
khoáng vật pyroxen nói chung và Opx nói riêng đồng biến với độ sâu thành tạo của 
chúng. Theo kết luận này thì các đá chứa Opx nhóm 1 (lerzolit) có độ sâu thành tạo lớn 
hơn cả, nhóm thứ hai (đolerit) độ sâu thành tạo thấp nhất, các đá gabronorit có độ sâu 
thành tạo trung bình. 
 Tương tự như vậy đối với NiO và Cr2O3. Sắt có xu thế ngược lại so với MgO, nghĩa 
là Opx sâu và nông đều chứa nhiều sắt, trong khi đó Opx độ sâu trung bình chứa ít sắt 
hơn cả. Đáng tiếc là chúng ta chưa có nhiều số liệu phân tích để khẳng định kết luận 
trên, nhưng đây là một vấn đề cần quan tâm, rất có thể giúp ta thực hiện bài toán ngược, 
nghĩa là từ tương quan hàm lượng các nguyên tố tạo khoáng khác so với Al2O3 trong 
pyroxen suy ra độ sâu thành tạo của các đá. 
 Clinopyroxen là khoáng vật khá phổ biến trong các đá bazan TNTN, chúng có mặt 
trong các bao thể, trong ban tinh, trong phần nền, trong các multicrist và, hiếm hơn, 
trong các xenocrist. Một đặc điểm đáng chú ý là Cpx thường thể hiện tính phân đới khá 
rõ rệt trong một số mẫu, đặc biệt trong các ban tinh hoặc trong các multicrist. Ví dụ 
trong một multicrist (mẫu số DS2), Cpx thể hiện tính phân đới qua sự biến đổi hàm 
lượng Al2O3 và MgO như sau (Bảng 1): 
 Bảng 1. Tính phân đới của Cpx trong multicrist 
 Các đới Hàm lượng Hàm lượng Al2O3
 MgO (%) (%) 
 1 14,67 5,17 
 2 15,17 4,42 
 3 16,17 3,44 
 4 15,98 3,70 
 5 14,58 3,72 
 6 14,92 3,91 
 7 12,58 7,36 
 Ghi chú: Thứ tự các đới tính từ rìa hạt bên này sang rìa hạt bên kia 
 Qua bảng trên ta thấy từ nhân ra rìa, hàm lượng MgO giảm dần, đồng thời hàm lượng 
Al2O3 tăng dần. Nếu thừa nhận rằng hàm lượng nhôm tham gia vào thành phần pyroxen 
đồng biến với áp suất thành tạo thì ở đây dường như multicrist Cpx đang mô tả được 
hình thành trong điều kiện áp suất tăng dần. Như vậy, nguyên nhân hình thành các 
multicrist có lẽ là trong điều kiện áp suất cục bộ tăng dần. Nguyên nhân làm tăng áp 
suất cục bộ có thể là do sự tập trung thể lỏng, điều này được minh chứng bởi sự có mặt 
của các khoáng vật chứa thể lỏng như Bi trong một số multicrist, tuy nhiên không phải 
bao giờ cũng gặp. Sở dĩ có hiện tượng khi có mặt, khi vắng mặt các khoáng vật chứa thể 
lỏng trong các multicrist, theo suy nghĩ của chúng tôi, là do hai nguyên nhân sau: a) 
trường hợp thể lỏng được bảo tồn cho đến khi kết thúc quá trình kết tinh multicrist (khi 
nhiệt độ giảm xuống dưới nhiệt độ đông cứng), chính chúng sẽ gây ra biến chất trao đổi 
làm biến đổi các khoáng vật kết tinh trước, tạo nên các khoáng vật thứ sinh chứa thể 
lỏng; b) trường hợp thứ hai, áp suất tăng dần, tới một mức nào đó giảm đột ngột do thể 
lỏng được giải phóng khỏi hệ, quá trình biến chất trao đổi không xẩy ra và như vậy sẽ 
không có các khoáng vật chứa thể lỏng được hình thành. Cũng cần phải nhấn mạnh rằng 
đây mới chỉ là những suy nghĩ mang tính suy đoán, vấn đề này phải được nghiên cứu 
sâu hơn nhằm giải thích sự có mặt các cụm khoáng vật khá tự hình nằm trong bazan 
TNVN. 
 2
 3
 O
 2 1
 r
 C
 Gabronorit
 Dolerit
 Lesolir
 0
 2030 40
 MgO 
 Hình 5.