Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều trị gãy cuống cung C2 do
chấn thương bằng phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung.
Phương pháp. Tiến cứu tất cả bệnh nhân gãy cuống cung C2 do chấn thương được phẫu thuật bằng
phương pháp nẹp vít xuyên cuống cung C2 và qua khối bên C3 tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 7 năm 2009 đến
tháng 2 năm 2012.
Kết quả. Có 31 trường hợp được mổ. Đa số là nam (83,9%). Tuổi trung bình 38,23. Nguyên nhân chủ yếu
do tai nạn giao thông (54,8%). Lâm sàng: đau cổ (96,8%), rối loạn cảm giác (54,8%), rối loạn vận động (45,2%),
rối loạn cơ vòng (9,7%). Các loại gãy cuống cung C2 theo phân loại của Levine/Effendi: Type I (16,1%), Type II
(45,2%), Type IIA (19,4%), Type III (19,4%). 27 trường hợp được phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung C2 và
qua khối bên C3 (87,1%), 3 trường hợp bắt vít C1C2C3 (9,7%), 1 trường hợp bắt vít xuyên cuống cung C2
(3,2%). Sau sáu tháng đều hết đau cổ và phục hồi hoàn toàn về thần kinh. Có 29 trường hợp hàn xương (93,5%),
2 trường hợp không hàn xương (6,5%).
Kết luận. Phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung trong điều trị gãy cuống cung C2 do chấn thương là một
lựa chọn thích hợp. Phẫu thuật cho tỉ lệ hàn xương và phục hồi thần kinh cao,và có rất ít biến chứng.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 256 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Điều trị gãy cuống cung C2 do chấn thương bằng phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 313
ĐIỀU TRỊ GÃY CUỐNG CUNG C2 DO CHẤN THƯƠNG
BẰNG PHẪU THUẬT NẸP VÍT XUYÊN CUỐNG CUNG
Nguyễn Đức Viễn*, Nguyễn Đình Tùng*, Trần QuangVinh*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, chẩn đoán hình ảnh và kết quả điều trị gãy cuống cung C2 do
chấn thương bằng phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung.
Phương pháp. Tiến cứu tất cả bệnh nhân gãy cuống cung C2 do chấn thương được phẫu thuật bằng
phương pháp nẹp vít xuyên cuống cung C2 và qua khối bên C3 tại Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 7 năm 2009 đến
tháng 2 năm 2012.
Kết quả. Có 31 trường hợp được mổ. Đa số là nam (83,9%). Tuổi trung bình 38,23. Nguyên nhân chủ yếu
do tai nạn giao thông (54,8%). Lâm sàng: đau cổ (96,8%), rối loạn cảm giác (54,8%), rối loạn vận động (45,2%),
rối loạn cơ vòng (9,7%). Các loại gãy cuống cung C2 theo phân loại của Levine/Effendi: Type I (16,1%), Type II
(45,2%), Type IIA (19,4%), Type III (19,4%). 27 trường hợp được phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung C2 và
qua khối bên C3 (87,1%), 3 trường hợp bắt vít C1C2C3 (9,7%), 1 trường hợp bắt vít xuyên cuống cung C2
(3,2%). Sau sáu tháng đều hết đau cổ và phục hồi hoàn toàn về thần kinh. Có 29 trường hợp hàn xương (93,5%),
2 trường hợp không hàn xương (6,5%).
Kết luận. Phẫu thuật nẹp vít xuyên cuống cung trong điều trị gãy cuống cung C2 do chấn thương là một
lựa chọn thích hợp. Phẫu thuật cho tỉ lệ hàn xương và phục hồi thần kinh cao,và có rất ít biến chứng.
Từ khóa: Gãy cuống cung C2, hàn xương
ABSTRACT
THE TREATMENT OF TRAUMATIC SPONDYLOLISTHESIS OF THE AXIS BY TRANSPEDICULAR
SCREW FIXATION
Nguyen Duc Vien, Nguyen Dinh Tung, Tran Quang Vinh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 313 - 320
Objective: Transpedicular screw fixation of axis have good point is simple, easy work out, no limitation of
the range of cervical motion, high bony union and lower complication rate.
Methods: Prospective study all the traumatic spondylolisthesis of the axis patients who were operated by
transpedicular screw of axis and lateral mass of C3 fixation at Cho ray Hospital between the July 2009 and
February 2012. Follow–up bone healing and neurologic recovery.
Results: Thirty one were surgery. Most patient is male (83.9%). Mean age is 38.23. The cause are traffic
accidents (54.8%). Clinical presentations include high neck pain (96.8%), sensory dysfunction (54.8%),
quadriparesis (45.2%), sphincter dysfunction (9.7%). The pedicular fracture of axis of classifications of
Levine/Effendi: Type I (16.1%), Type II (45.2%), Type IIA (19.4%), Type III (19.4%). 27 patients were of C2C3
fixations (87.1%), 3 of C1C2C3 fixations (9.7%), 1 of C2 pedicular screw fixation (3.2%). At 6-month follow-up,
the all patients no pain neck and neurologic recovery. 29 cases bone healing (93.5%), 2 cases nonunion (6.5%).
Conclusions: Transpedicular screw fixation of axis for the traumatic spondylolisthesis of the axis is suitable
* Khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BSCKII Nguyễn Đức Viễn ĐT: 0913775070
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 314
option. This technique has high bone healing and neurologic recovery and lower complication rate.
Key words: Spondylolisthesis of the axis, bone healing.
MỞ ĐẦU
Gãy cuống cung C2 (còn gọi là gãy
Hangman) chiếm khoảng 4% gãy cột sống cổ.
Haughton là người đầu tiên mô tả một trường
hợp gãy cuống cung C2 do bị treo cổ vào năm
1866. Nhưng gần đây nguyên nhân chủ yếu do
tai nạn giao thông. Cơ chế chủ yếu là ngửa và
dồn dọc trục, cơ chế cúi ít gặp hơn. Chẩn đoán
dựa vào hình ảnh X quang và CT-Multislice cột
sống cổ. MRI được chỉ định trong một số trường
hợp có dấu thần kinh khu trú. Có nhiều phương
pháp điều trị phẫu thuật gãy cuống cung C2 do
chấn thương. Phương pháp cột chỉ thép hoặc
calbe C1-C3 lối sau như kỹ thuật của Gallie,
Brooks và Jenkins hoặc Sonntag và Dickman có
tỉ lệ hàn xương kém, có thể có biến chứng thần
kinh do phải luồn dưới cung sau C1và cần có
cấu trúc cung sau của C1 và C2 nguyên vẹn.
Phương pháp phẫu thuật đường trước (lấy nhân
đệm C2-C3, ghép xương, làm cứng khớp C2-C3)
là kỹ thuật phức tạp. Đường vào phía trước rất
cao, có thể tổn thương các dây thần kinh VII,
XII, bao cảnh. Phương pháp phẫu thuật nẹp vít
xuyên cuống cung C2 của Judet và Leconte là
một lựa chọn thích hợp, vì có ưu điểm là đơn
giản, dễ thực hiện, không giới hạn cử động cổ,
cho tỉ lệ hàn xương và phục hồi thần kinh cao,
và có rất ít biến chứng. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi chia sẻ một số kinh nghiệm bước đầu
thực hiện phương pháp này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
31 bệnh nhân được chẩn đoán gãy cuống
cung C2 do chấn thương và được phẫu thuật
bằng phương pháp nẹp vít xuyên cuống cung
C2 tại Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Chợ
Rẫy từ tháng 7 năm 2009 đến tháng 2 năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu mô tả. Thu thập thông tin về tuổi,
giới, nguyên nhân, các dấu hiệu lâm sàng, tổn
thương thần kinh theo Frankel, hình ảnh học
chẩn đoán, phân loại Levine/Effendi, sự hàn
xương. Các dữ liệu được phân tích bằng phần
mềm SPSS 16.0.
Phân loại gãy cuống cung C2 của
Levine/Effendi: 4 type
Type I: Đường gãy dọc qua eo phía sau thân
sống. Di lệch giữa C2 và C3 dưới 3mm, không
gập góc.
Type II: Đường gãy dọc qua eo, phá vỡ đĩa
đệm C2-3 và dây chằng dọc sau. Di lệch giữa C2
và C3 trên 3mm và/hoặc có gập góc (> 100).
Type IIA: Đường gãy chéo. Ít di lệch (dưới
3mm), nhưng gập góc nhiều hơn (> 150).
Type III: Type II + Vỡ bao khớp C2-3 hai bên,
cung sau lỏng lẻo, dây chằng dọc trước có thể bị
phá vỡ. Mặt khớp C2-3 có thể bị trật hoặc khóa.
Phân loại tổn thương thần kinh theo
Frankel, Bảng 1
Bảng 1. Phân loại tổn thương thần kinh theo Frankel
Loại Đặc điểm
A Mất hoàn toàn vận động hay cảm giác
B Cảm giác còn, mất vận động
C Cảm giác còn, vận động giảm (sức cơ 2/5 đến
3/5)
D Cảm giác còn, vận động giảm ít (sức cơ 4/5)
E Chức năng vận động và cảm giác bình thường
Kỹ thuật mổ
Tư thế: Dưới gây mê nội khí quản, bệnh
nhân được đặt nằm sấp, đầu được gắn vào
khung Sugita. Rạch da bắt đầu từ ụ chẩm ngoài
và dọc theo đường giữa tới mỏm gai C6. Vách
ngăn gáy được cắt dọc theo đường giữa. Các cơ
được tách khỏi xương chẩm và cung sau C1, C2
và C3. Cẩn thận không làm tổn thương động
mạch cột sống ở bờ trên C1 (tránh bóc tách xa
hơn 1,5cm từ đường giữa ở cung sau C1). Ở
mức C2, phải bộc lộ đến bờ ngoài của mỏm
khớp dưới. Điều này cần thiết để xác định vị trí
điểm vào của vít trên bề mặt sau của mỏm khớp
dưới của C2. Bề mặt trên của C2 được bộc lộ.
Bộc lộ bề mặt trên của cuống cung C2 sẽ chỉ ra
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 315
hướng của vít cuống cung và có thể thấy vị trí
gãy thật sự. Để bộc lộ bề mặt trên của cung sau
C2, màng trục đội được tách ở hai bên. Nếu cần
màng cứng được tách nhẹ từ cung sau để thấy
rõ bờ trong và bờ trên của cuống cung C2. Có
thể thấy được khoảng cách 1cm và hướng để
kiểm tra. Xác định điểm vào của vít: ở mặt sau
của mỏm khớp dưới, khoảng 3-4mm phía trên
bờ dưới của mặt khớp dưới C2, ở điểm giữa mặt
trong- mặt ngoài của mỏm khớp dưới (hình 1).
Hướng: Hướng vào trong 20-300 và lên trên 20-
250 qua trục của cuống cung C2 (hình 2). Trong
quá trình khoan người phụ giữ spatula ở bờ
trong cuống cung C2 để nhìn rõ hướng cuống
cung và bảo vệ tủy. Khoan: Dùng khoan 2 lần.
Lần một: Khoan đường kính 2,5 mm vào điểm
vào đã xác định ở trên đến 12 mm thì dừng lại.
Rồi đưa C-arm vào, dùng que thăm dò xác định
hướng. Nếu hướng tốt khoan tiếp cho đến khi
tới 30 mm dừng lại. Khoan đi qua phía sau
cuống cung, vị trí gãy và cuống cung thật sự ở
phía trước và dừng lại trong thân sống C2. Lần
2: Dùng khoan đường kính 3,5 mm, và đưa vào
qua lỗ trước, chỉ khoan tới chỗ gãy. Kiểm tra lại
bằng C-arm. Bắt vít: Dùng vít đa trục, đường
kính 3,5 mm và chiều dài 30 mm. Siết chặt vít
trong lỗ khoan phía trước hẹp cho phép đè ép
đoạn gãy và giúp kéo đoạn gãy lại với nhau.
Thực hiện tương tự bên kia. Khoan trước khi bắt
vít. Vít được đưa vào phải siết chặt và tránh di
lệch đoạn gãy. Vị trí cuối cùng của vít được xác
định trên C-arm.
Hình 1. Điểm vào của vít xuyên C2
Nguồn: Greenberg MS (2010) (6)
Hình 2. Hướng của vít xuyên C2
Nguồn: Greenberg MS (2010) (6)
Vít qua khối bên C3:
Bộc lộ tới bờ ngoài của khối bên C3. Điểm
vào: 1mm phía trong điểm giữa của khối khớp
bên C3. Hướng của khoan: 150 về phía đầu và
hướng ra ngoài 300 (hình 3) để tránh tổn thương
động mạch cột sống. Vít: 3.5mm đường kính, 14-
16 mm chiều dài. Đặt Rod nối C2-C3: 3,5mm
đường kính (hình 4).
Hình 3. Điểm vào, hướng của vít qua khối khớp bên
C3 Nguồn: Greenberg MS (2010) (6)
Hình 4. Hình vẽ phẫu thuật và hình trong lúc mổ
Xác định bờ trong
cuống cung C2
Giữa mặt khớp
Nhìn bên
Lỗ ngang
ĐM. Cột sống
Điểm vào
Nhìn trên
Nhìn bên
Điểm vào C3
Hướng vít
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 316
KẾT QUẢ
Tuổi và giới
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 38,23. Nhỏ
nhất: 17 tuổi và lớn nhất: 78 tuổi. Giới: Hầu hết
là nam, chiếm 83,9%.
Nguyên nhân
Tai nạn giao thông là 17 trường hợp (54,8%),
tai nạn lao động 6 trường hợp (19,4%), tai nạn
sinh hoạt 6 trường hợp (19,4%), đả thương 2
trường hợp (6,5%).
Lâm sàng
Hầu hết bệnh nhân có đau cổ (chiếm 96,8%),
rối loạn cảm giác (tê) (54,8%), rối loạn vận động
(yếu chi) 45,2%), rối loạn cơ vòng (9,7%) (bảng
2).
Bảng 2. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng Số trường hợp Tỉ lệ (%)
Đau cổ 30 96,8
Rối loạn cảm giác (tê) 17 54,8
Rối loạn vận động (yếu chi) 14 45,2
Rối loạn cơ vòng 3 9,7
Tổn thương thần kinh theo phân loại của
Frankel
Trong 31 trường hợp nghiên cứu, đa số
không có rối loạn cảm giác và vận động (Frankel
E) chiếm 54,8%, mà triệu chứng chính là đau cổ.
Rối loạn cảm giác và vận động một phần có tỉ lệ
thấp hơn (Frankel C chiếm 16,1% và Frankel D
chiếm 29%). Không có trường hợp nào có rối
loạn vận động hoàn toàn (liệt hoàn toàn)
(Frankel A và Frankel B).
Hình ảnh học chẩn đoán
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán bằng
Xquang cột sống cổ thẳng, nghiêng, C2 há
miệng và CT-Multislice cột sống cổ. CT giúp
chẩn đoán gãy cuống cung C2 và các tổn
thương phối hợp như gãy mấu răng C2, gãy
mảnh sống C2 hoặc gãy các đốt sống cổ khác
(đặc biệt là C1 và C3). MRI được chỉ định trong
một số trường hợp có dấu thần kinh khu trú.
Đặc điểm đường gãy
Đường gãy chéo chiếm đa số (77,4%), dọc
(22,6%). Đường gãy không đối xứng (1 bên qua
eo, 1 bên qua lỗ ngang) chiếm đa số 80,6%),
đường gãy đối xứng (qua eo 2 bên hoặc qua lỗ
ngang 2 bên) thấp hơn (19,4%). Di lệch ra trước
của C2 so với C3 trung bình là 3,94 mm (nhỏ
nhất 1mm, lớn nhất 10mm).
Có 21 trường hợp có gập góc của C2 so với
C3 (66,7%). Độ gập góc của C2 so với C3 trung
bình là 17,860 (nhỏ nhất 80, lớn nhất 300).
Tổn thương phối hợp
Gãy cuống cung C2 phối hợp tại C2 là 15
trường hợp: gãy thân C2 12 (38,7%), gãy mảnh
sống C2 3 (9,7%), gãy mỏm răng 0%. Gãy cuống
cung C2 phối hợp với các đốt sống cổ khác là 19
trường hợp: gãy C3 11 (35,5%), gãy C1 5 (16,1%),
gãy C4, C5, C7 là 3,2%, không gãy C6.
Phân loại gãy cuống cung C2 theo
Levine/Effendi
Đa số là type II (14 trường hợp 45,2%), type I
5 trường hợp (16,1%), type IIA 6 trường hợp
(19,4%), type III 6 trường hợp (19,4%).
Phương pháp phẫu thuật
Đa số các bệnh nhân được phẫu thuật bằng
phương pháp cố định vít xuyên cuống cung C2
và qua khối bên C3, kết hợp nẹp vít C2-C3, 27
trường hợp chiếm 87,1%. Có 3 bệnh nhân được
phẫu thuật bằng phương pháp cố định vít
xuyên cuống cung C2 và qua khối bên C1 và C3,
kết hợp nẹp vít C1-C2-C3. Có 1 bệnh nhân được
phẫu thuật bằng phương pháp cố định vít
xuyên cuống cung C2.
Phục hồi thần kinh
Theo dõi sau mổ 1 tháng
Đa số đều giảm hoặc hết đau cổ. 2 trường
hợp rối loạn cơ vòng hồi phục. Đa số đều cải
thiện chức năng thần kinh về vận động và cảm
giác: Frankle E 26 trường hợp (83,9%), Frankle D
5 trường hợp (16,1%), Frankel (A, B, C) 0%.
Theo dõi sau mổ 6 tháng
Đau cổ: tất cả các trường hợp đều hết đau
cổ. Tất cả bệnh nhân không giới hạn vận động
cúi, ngửa. 1 trường hợp rối loạn cơ vòng còn lại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 317
cũng hồi phục. Tất cả các bệnh nhân đều hồi
phục hoàn toàn về thần kinh: Frankel E 100%.
Không có trường hợp nào gãy hoặc lỏng vít.
Sự hàn xương
Đánh giá sự hàn xương sau mổ 6 tháng trên
Xquang và CTscan cột sống cổ. Hàn xương
được ghi nhận khi thấy có sự lành xương băng
qua vị trí xương gãy, không gãy vít và không
mất vững trên phim cúi-ngửa. Trong 31 trường
hợp có 29 trường hợp hàn xương chiếm 93,5%,
có 2 trường hợp không hàn xương chiếm 6,5%.
Biến chứng
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không gặp
các biến chứng tổn thương thần kinh (tủy sống
cổ cao, rách màng cứng), gãy hoặc lỏng vít.
Không có trường hợp nào tử vong. Có một
trường hợp tổn thương động mạch cột sống
trong lúc khoan. Có một trường hợp nhiễm
trùng vết mổ nông.
BÀN LUẬN
Tuổi và giới
Tuổi
Tuổi trung bình trong nghiên của của chúng
tôi là 38,23. Kết quả này cũng không khác so với
nghiên cứu khác (Bảng 3).
Bảng 3. So sánh độ tuổi
Tác giả Tuổi trung bình
Boullosa JL (2004) 35,5
ElMiligui Y (2010) 37,0
Kaptan WMT (2004) 38,0
Chúng tôi (2012) 38,23
Giới
Đa số các tác giả đều cho rằng tỉ lệ nam
nhiều hơn nữ. Tuy nhiên tỉ lệ chênh lệch có khác
nhau (Bảng 4).
Bảng 4. So sánh tỉ lệ nam và nữ
Tác giả Nam (%) Nữ (%) Nam: Nữ
Boullosa JL (2004) 80,0 20,0 4: 1
Borne GM (1984) 72,0 28,0 2,6: 1
ElMiligui Y (2010) 60,0 40,0 1,5: 1
Chúng tôi (2012) 83,9 16,1 5,2: 1
Lâm sàng
Hầu hết bệnh nhân có triệu chứng đau cổ
(chiếm 96,8%), rối loạn cảm giác (tê) (54,8%),
rối loạn vận động (yếu chi) 45,2%), rối loạn cơ
vòng (9,7%).
Triệu chứng đau cổ trong lô nghiên cứu của
chúng tôi cũng không có sự khác biệt lớn so với
các tác giả khác: El-Miligui Y, Kaptan WMT
(100% đau cổ) (4,8).
Phục hồi thần kinh
Theo dõi sau mổ 6 tháng: tất cả các trường
hợp đều hết đau cổ. Tất cả bệnh nhân không
giới hạn vận động cúi, ngửa. 1 trường hợp rối
loạn cơ vòng còn lại cũng hồi phục. Tất cả các
bệnh nhân đều hồi phục hoàn toàn về thần
kinh: Frankel E 100%. Không có trường hợp
nào gãy hoặc lỏng vít.
Hình ảnh học chẩn đoán
Đặc điểm gãy cuống cung C2 trên X quang
và CT
Đa số là đường gãy chéo (77,4%) và không
đối xứng (1 bên qua eo, 1 bên qua lỗ ngang)
chiếm 80,6%.
Di lệch ra trước của C2 so với C3 trung bình
là 3,94 mm. So với tác giả ElMiligui Y, thì
khoảng di lệch ra trước của C2 và C3 trước và
sau mổ trong nghiên cứu của chúng tôi đều
thấp hơn (bảng 5).
Bảng 5: So sánh khoảng di lệch của C2 và C3.
Tác giả Trước mổ Sau mổ Số bệnh nhân
ElMiligui Y 6 mm 1,5 mm 15
Chúng tôi 3,94 mm 1,06 mm 31
Tổn thương phối hợp
Gãy cuống cung C2 phối hợp với các đốt
sống cổ khác là 19 trường hợp (61,3%): gãy C3
11 (35,5%), gãy C1 5 (16,1%), gãy C4, C5, C7 là
3,2%, không gãy C6. Kết quả trên cũng không
khác so với tác giả Levine và Edwards, nghiên
cứu 52 trường hợp gãy cuống cung C2, có 20
trường hợp (38,5%) gãy cuống cung C2 đơn
thuần và 32 trường hợp (61,5%) có gãy phối hợp
Hàn
xương
Đường
gãy
Hàn xương
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 318
với các đốt sống cổ khác. Trong đó tỉ lệ gãy C3
chiếm tỉ lệ cao nhất 24 trường hợp (46,1%), gãy
C1 16,6%.
Phân loại gãy cuống cung C2 theo
Levine/Effendi
Trong số 31 trường hợp gãy cuống cung
C2 thì có đến 14 trường hợp Type II (45,2%)
chiếm tỉ lệ cao nhất. Kết quả này cũng không
khác với nghiên cứu của các tác giả khác: Đa
số là type II (bảng 6).
Bảng 6. So sánh phân loại gãy cuống cung C2 theo
Levine/Effendi(3,9)
Tác giả Type I Type II Type IIA Type III Tổng số
Boullosa JR 2 8 10
Kaptan WMT 2 8 2 12
ElMiligui Y 12 3 15
Chúng tôi 5 14 6 6 31
Phương pháp điều trị
Phương pháp điều trị tối ưu cho các trường
hợp gãy cuống cung C2 do chấn thương (còn
gọi là gãy Hangman) đang còn bàn cãi.
Theo Francis và Effendi, Levine AM và
Edwards CC: Hầu hết bệnh nhân gãy
Hangman do chấn thương được điều trị ban
đầu bằng bất động ngoài cột sống cổ (Halo
hoặc Halo vest). Thời gian bất động ngoài
phải duy trì đủ 8-14 tuần. Họ kết luận rằng
điều trị phẫu thuật nên thực hiện ở những
bệnh nhân gãy Hangman Type III và những
trường hợp thất bại đối với sự lành xương
mặc dù đã điều trị bằng dụng cụ Halo 3
tháng. Bất lợi chính của phương pháp điều trị
bảo tồn bằng bất động ngoài Halo hoặc Halo -
vest là thời gian bất động kéo dài (trung bình
khoảng 3-6 tháng) ảnh hưởng đến sinh hoạt
và công việc và có thể có một số biến chứng
(lỏng ốc, nhiễm trùng nơi gắn đinh, thủng
màng cứng).
Một số tác giả điều trị gãy Hangman bằng
cách bất động ngoài bằng nẹp cổ cứng 2 mảnh
Cervical Collar như Grady và Cosan T.E. Bất lợi
của phương pháp điều trị bảo tồn gãy Hangman
bằng bất động ngoài Halo, Halo-vest hoặc bất
động ngoài bằng nẹp cổ Cervical Collar là thời
gian bất động kéo dài (trung bình 3 tháng). Sau
thời gian này phải chụp Xquang kiểm tra nếu
không hàn xương và còn mất vững thì cần phải
phẫu thuật.
Một số tác giả đề nghị phẫu thuật lối trước
cho các trường hợp gãy Hangman không vững:
Kết hợp lối trước bằng cách lấy nhân đệm C2-
C3, ghép xương vào khoang C2-C3 và cố định
bằng plate lối trước. Phương pháp này bảo tồn
cử động cúi ngửa. Tuy nhiên, không áp dụng
được cho gãy Hangman Levine Type III, vì trật
khóa C2 và C3 nên khó nắn. Đường mổ lối trước
vùng C2-C3 này được xem như là một kỹ thuật
phức tạp; đường vào phía trước rất cao (đường
rạch da ngang cổ trước từ dưới góc xương hàm
dưới và sụn giáp). Do đó có thể có nguy cơ tổn
thương các cấu trúc sống, đặc biệt là tổn thương
thần kinh mặt, thần kinh hạ thiệt, các nhánh của
động mạch cảnh ngoài, các thành phần của bao
cảnh và thần kinh thanh quản trên.
Một số tác giả đề nghị phẫu thuật lối sau
cho các trường hợp gãy Hangman không vững.
Trong đó có kỹ thuật cố định C1-C2 hoặc C1-C3
bằng chỉ thép hoặc cable và ghép xương lối sau.
Kỹ thuật này được mô tả đầu tiên bởi Hadra
(1891), cải biên bởi Cone (1937), sau đó Gallie
(1939), Brooks và Jenkins (1978), Sonntag và
Dickman (1991) áp dụng. Kỹ thuật này được chỉ
định khi cấu trúc phía sau của C1 và C2 còn
nguyên vẹn. Kỹ thuật này có một số nhược
điểm: hạn chế cử động cổ (cúi, ngửa, xoay), tỉ lệ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh 319
không hàn xương cao, biến chứng thần kinh (liệt
tứ chi) có thể xảy ra, có thể đứt thép, cable.
Vì vậy, một số tác giả khác đề nghị kỹ thuật
cố định vít xuyên cuống cung C2 để điều trị các
trường hợp gãy cuống cung C2 do chấn thương
nhằm hạn chế các nhược điểm kể trên. Judet và
Leconte lần đầu tiên mô tả kỹ thuật cố định vít
xuyên cuống cung C2 vào năm 1962(7,9). Ưu điểm
của phương pháp này là: không giới hạn cử
động cổ, tỉ lệ hàn xương cao, đơn giản, dễ thực
hiện, an toàn, thời gian nằm viện ngắn. Tuy
nhiên phẫu thuật này có thể có một số biến
chứng: tổn thương động mạch cột sống (tỉ lệ
thấp), tổn thương thần kinh: ít gặp (tổn thương
tủy sống cổ cao hoặc rễ C2, rách màng cứng).
Nhiều tác giả áp dụng kỹ thuật này cho kết quả
tốt như: Borne GM, Verheggen R và Jansen J,
Kaptan WMT, Boullosa JLR, Elmilligui Y(1,2,4,8,11)
Trong lô nghiê