Giá trị copeptin và troponin t độ nhạy cao trong chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim cấp

Mở đầu: Nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao ở các bệnh nhân (BN) nhập viện hằng năm. Việc chẩn đoán chính xác và sớm nhồi máu cơ tim ngay những giờ đầu mang lại nhiều lợi ích cho BN. Mục tiêu: Xác định giá trị của Copeptin và hs-Troponin T trong chẩn đoán sớm NMCT cấp. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 70 BN nhập viện liên tiếp có triệu chứng đau ngực nghi ngờ hội chứng mạch vành cấp xuất hiện dưới 12 giờ. Mỗi BN được lấy 2 mL máu lúc nhập viện để đo nồng độ Copeptin và hs-Troponin T. Chẩn đoán cuối cùng của các BN được ghi nhận từ hồ sơ bệnh án. Kết quả: 49 BN (70%) được chẩn đoán là NMCT. Copeptin và hs-Troponin T tăng cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm NMCT hơn nhóm không NMCT. Copeptin và hs-Troponin T tăng sớm ở các BN NMCT đến sớm ngay khi nồng độ Troponin I còn trong giới hạn bình thường. Diện tích dưới đường cong ROC trong chẩn đoán NMCT cấp của Copeptin là 0,874 và hs-Troponin T là 0,954. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và âm của Copeptin ở mức 21,84 pmol/L lần lượt là: 87,8%; 81,0%; 91,5% và 73,9%; và của hs-Troponin T ở mức 21,7 ng/L lần lượt là: 98,0%; 85,7%; 94,1% và 94,7%. Khi kết hợp với Troponin I ở mức 80 ng/L, Copeptin nâng độ nhạy và giá trị tiên đoán âm lên cao tương đương với hs-Troponin T. Kết luận: Copeptin, khi kết hợp với Troponin I, và hs-Troponin T có giá trị cao trong chẩn đoán sớm NMCT cấp.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 131 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị copeptin và troponin t độ nhạy cao trong chẩn đoán sớm nhồi máu cơ tim cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 205 GIÁ TRỊ COPEPTIN VÀ TROPONIN T ĐỘ NHẠY CAO TRONG CHẨN ĐOÁN SỚM NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP Lương Võ Quang Đăng*, Võ Thành Nhân** TÓM TẮT Mở đầu: Nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao ở các bệnh nhân (BN) nhập viện hằng năm. Việc chẩn đoán chính xác và sớm nhồi máu cơ tim ngay những giờ đầu mang lại nhiều lợi ích cho BN. Mục tiêu: Xác định giá trị của Copeptin và hs-Troponin T trong chẩn đoán sớm NMCT cấp. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 70 BN nhập viện liên tiếp có triệu chứng đau ngực nghi ngờ hội chứng mạch vành cấp xuất hiện dưới 12 giờ. Mỗi BN được lấy 2 mL máu lúc nhập viện để đo nồng độ Copeptin và hs-Troponin T. Chẩn đoán cuối cùng của các BN được ghi nhận từ hồ sơ bệnh án. Kết quả: 49 BN (70%) được chẩn đoán là NMCT. Copeptin và hs-Troponin T tăng cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm NMCT hơn nhóm không NMCT. Copeptin và hs-Troponin T tăng sớm ở các BN NMCT đến sớm ngay khi nồng độ Troponin I còn trong giới hạn bình thường. Diện tích dưới đường cong ROC trong chẩn đoán NMCT cấp của Copeptin là 0,874 và hs-Troponin T là 0,954. Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và âm của Copeptin ở mức 21,84 pmol/L lần lượt là: 87,8%; 81,0%; 91,5% và 73,9%; và của hs-Troponin T ở mức 21,7 ng/L lần lượt là: 98,0%; 85,7%; 94,1% và 94,7%. Khi kết hợp với Troponin I ở mức 80 ng/L, Copeptin nâng độ nhạy và giá trị tiên đoán âm lên cao tương đương với hs-Troponin T. Kết luận: Copeptin, khi kết hợp với Troponin I, và hs-Troponin T có giá trị cao trong chẩn đoán sớm NMCT cấp. Từ khóa: Nhồi máu cơ tim cấp, Copeptin, Troponin T độ nhạy cao, hs-Troponin T, chẩn đoán sớm. ABSTRACT THE VALUE OF COPEPTIN AND TROPONIN T HIGH SENSITIVE IN EARLY DIAGNOSIS OF MYOCARDIAL INFARCTION Luong Vo Quang Dang, Vo Thanh Nhan * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 205 – 212 Background: Acute myocardial infarction (AMI) is one of the leading causes of death in hospitalized patients annually. The early and precise diagnosis of AMI in the first few hours gives patients more benefits. Objectives: To determine the value of Copeptin and hs-Troponin T in early diagnosis of AMI. Method: We conducted a cross-sectional study in 70 consecutive admitted patients having chest pain for less than 12 hours, which suspected of acute coronary syndrome. 2 mL of blood was drawn on admission to measure Copeptin and hs-Troponin T levels. The final diagnosis was collected from the patient chart. Results: AMI were finally diagnosed in 49 (70%) cases. Copeptin and hs-Troponin T levels were significantly higher in AMI groups than patients with other diagnoses. Copeptin and hs-Troponin T levels also increased in AMI patients admitted early when Troponin I level was still in normal range. Area under the ROC curve in AMI diagnosis of Copeptin was 0.874 and hs-Troponin T was 0.954. Sensitivity, specificity, positive and * Đại học Y Dược TPHCM; **: Bộ môn Lão, Đại học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS.CK1 Lương Võ Quang Đăng ĐT: 0908228393 Email: dang.lvq@umc.edu.vn Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 206 negative predictive value of Copeptin at the level of 21.84 pmol/L were 87.8%, 81.0%, 91.5%, and 73.9%, respectively; and hs-Troponin T at the level of 21.7 ng/L were 98.0%, 85.7%, 94.1% and 94.7%, respectively. When combined with Troponin I at the level of 80 ng/L, Copeptin increased the sensitivity and negative predictive value as high as that of hs-Troponin T. Conclusion: Copeptin, when combined with Troponin I, and hs-Troponin T have high value in early diagnosis of AMI. Key words: Acute myocardial infarction, Copeptin, Troponin T high sensitive, hs-Troponin T, early diagnosis. MỞ ĐẦU Hội chứng mạch vành cấp (HCMVC), trong đó có nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp là một trong những nguyên nhân gây tử vong cao ở các bệnh nhân (BN) nhập viện hằng năm(1). Triệu chứng đau ngực cấp là lí do nhập viện của hầu hết các BN bị HCMVC. Tuy nhiên, số BN thực sự bị HCMVC cấp chỉ chiếm 15 – 25% các BN nhập vào khoa cấp cứu có triệu chứng đau ngực cấp(3), tỷ lệ chẩn đoán lầm xảy ra khoảng 30% ở nhóm BN này(2). Gần đây, định nghĩa toàn cầu về NMCT (2007) đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của các Troponin tim trong chẩn đoán NMCT cấp, bên cạnh các triệu chứng của thiếu máu cục bộ cơ tim trên lâm sàng, điện tâm đồ và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Các Troponin tim khi tăng vượt mức bách phân vị thứ 99 của ngưỡng bình thường cao (> 99% URL) thì có ý nghĩa chẩn đoán tổn thương cơ tim(10). Cũng giống như Troponin I (TnI), Troponin T (TnT) là một chất chỉ điểm tổn thương cơ tim xuất hiện sớm trong máu ở những giờ đầu. Thử nghiệm TnT bằng xét nghiệm TnT thế hệ thứ 5 (Troponin T high sensitive, hs-TnT), có độ nhạy cao hơn và có thể phát hiện sớm sự tăng của TnT trong máu dù với nồng độ rất nhỏ, giúp ích nhiều trong chẩn đoán sớm NMCT cấp, đặc biệt là thể NMCT không ST chênh lên. Không chỉ riêng hs-TnT mà Copeptin cũng là dấu ấn sinh học mới được nghiên cứu sử dụng trong chẩn đoán NMCT. Copeptin là một thành phần trong tiền chất của hormone kháng lợi niệu (Arginine Vasopressin, AVP), được tiết ra từ thùy sau tuyến yên với tỷ lệ ngang bằng và động học khá tương đồng với AVP(9). Nồng độ Copeptin tăng rất cao trong máu các BN bị NMCT cấp và tăng rất sớm từ khi có cơn đau ngực do NMCT cấp. Vài nghiên cứu gần đây công bố thử nghiệm Copeptin cùng với Troponin sẽ giúp chẩn đoán sớm NMCT khi bệnh nhân có cơn đau thắt ngực và cũng loại được các bệnh nhân có cơn đau ngực không phải là NMCT(5,8). Vì chưa có nhiều nghiên cứu khẳng định vai trò của hai dấu ấn sinh học nói trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác định vai trò của Copeptin và hs-TnT trong chẩn đoán sớm NMCT cấp. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi thực hiện nghiên cứu cắt ngang trên 70 bệnh nhân (BN) nhập vào Bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 7 năm 2010 đến 8 năm 2010, có triệu chứng đau ngực nghi ngờ HCMVC xuất hiện dưới 12 giờ. Các triệu chứng gợi ý HCMVC như: đau ngực, nặng ngực, khó thở, nghẹn thở, đau lan cổ hàm, vã mồ hôi. Những BN được chẩn đoán ban đầu có viêm phổi, đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, có tình trạng choáng không do tim, có biến chứng nặng hoặc tử vong trước khi thu thập các dữ kiện không được nhận vào nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu đã được trình thông qua Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của bệnh viện Chợ Rẫy. Các BN được giải thích và mời tham gia nghiên cứu, có ký tên vào phiếu đồng ý tham gia. Tại thời điểm nhập viện, mỗi BN được rút 02 mL máu cho vào 1 ống nghiệm tráng Lithium Heparin để thực hiện 2 xét nghiệm Copeptin và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 207 hs-TnT. Xét nghiệm Copeptin được phân tích với bộ kit B.R.A.H.M.S Copeptin, bằng máy KRYPTOR (B.R.A.H.M.S AG, Hennigsdorf/Berlin, Germany) theo nguyên lý bắt cặp miễn dịch hóa phát quang với CV 9 pmol/L. Xét nghiệm hs-TnT được phân tích với bộ kit Troponin T hs STAT, bằng máy Cobas e 601 (Roche Diagnostics, Mannheim, Germany) theo nguyên lý miễn dịch điện hóa phát quang với ngưỡng đo lường 3 – 10.000 ng/L và 99% URL = 14 ng/L, CV < 10%. TnI được phân tích bằng bộ kit LIAISON® Troponin I, bằng máy Liaison (DiaSorin, Italia). Ngưỡng bình thường của TnI là ≤ 80 ng/L, ngưỡng chẩn đoán NMCT là ≥ 400ng/L(4). Đến khi xuất viện, thông tin BN, các kết quả xét nghiệm và chẩn đoán cuối cùng được ghi nhận. Nhập liệu bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2010 và phân tích thống kê bằng phần mềm SPSS 15.0 for Windows. Các biến số rời được phân tích bằng phép kiểm Chi bình phương và Fisher’s exact test, được mô tả dưới dạng: Tần số (Phần trăm). Các biến số liên tục có phân phối chuẩn được phân tích bằng phép kiểm Student t và mô tả dưới dạng: Trung bình (± Độ lệch chuẩn). Các biến số liên tục có phân phối không chuẩn được phân tích bằng phép kiểm Mann-Whitney U và mô tả dưới dạng: Trung vị (Khoảng tứ phân vị 25% – 75%). Kiểm định phân phối chuẩn bằng phép kiểm Kolmogorov-Smirnov Z. Kiểm định giá trị các xét nghiệm bằng phân tích diện tích dưới đường cong ROC và so sánh các diện tích này theo phương pháp DeLong. Kiểm định hệ số tương quan Spearman dành cho các biến số không có phân phối chuẩn. Các kiểm định có ý nghĩa thống kê khi trị số p < 0,05 (phép kiểm 2 đuôi). KẾT QUẢ Đặc điểm của dân số nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi thu nhận được 70 BN, trong đó 42 BN có chẩn đoán là NMCT ST chênh lên (60%), 7 BN là NMCT không ST chênh lên (10%), 14 BN là Đau thắt ngực không ổn định (20%), 7 BN là Đau ngực không do mạch vành (10%). Tuổi trung bình của nhóm BN NMCT là 64 (± 12,9) năm, không khác biệt có ý nghĩa thống kê với nhóm BN không NMCT 59,5 (± 11,4) năm. Thời gian trung bình từ lúc đau ngực cho đến lúc nhập viện là 5,2 (± 2,7) giờ. Trong số các BN NMCT, có 21 BN (42,9%) là vùng trước, 14 BN (28,6%) là vùng dưới, 6 BN (12,2%) có NMCT vùng dưới kèm thất phải, 8 BN (16,3%) không xác định được vùng NMCT trên điện tâm đồ lúc nhập viện. Độ thanh lọc creatinin ước đoán trung bình là 68,3 (± 24,7) mL/phút/1,73m2, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm BN có và không có NMCT. Đặc điểm nồng độ Troponin I, Copeptin và hs-Troponin T trong nghiên cứu Nồng độ TnI, Copeptin, hs-TnT đều không có phân phối chuẩn, và cao hơn ở nhóm BN NMCT so với nhóm BN không NMCT, khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 1). Khi so sánh nồng độ 3 dấu ấn sinh học tim này trong từng phân nhóm BN NMCT có ST chênh lên (NMCTSTCL), NMCT không ST chênh lên (NMCTKSTCL), Đau thắt ngực không ổn định (ĐTNKÔĐ), Đau ngực không do mạch vành (ĐNKDMV) và nhóm người bình thường (BT), nồng độ 3 dấu ấn sinh học tim này tăng rất cao ở 2 nhóm NMCT so với 3 nhóm còn lại, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Chỉ có Copeptin và hs-TnT có thể chỉ ra khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm ĐTNKÔĐ với 2 nhóm ĐNKDMV và nhóm người bình thường (Hình 1). 49 BN có NMCT cấp được chia thành 3 nhóm theo thời gian đau ngực tính đến lúc nhập viện: < 3 giờ, từ 4 – 6 giờ, từ 7 – 12 giờ. Nồng độ Copeptin có tương quan nghịch với thời gian đau ngực (r = – 0,339), BN nhập viện càng sớm, nồng độ Copeptin càng cao. Nồng độ TnI và hs- TnT tăng dần theo thời gian, có r (hệ số tương quan Spearman) lần lượt là 0,745 và 0,731. Các phép kiểm có ý nghĩa thống kê. (Bảng 2). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 208 Nồng độ Copeptin và hs-TnT được so sánh ở 2 nhóm BN NMCT cấp có TnI chưa tăng đủ chẩn đoán NMCT (< 400 ng/L) và nhóm có TnI đã tăng cao. Chúng tôi nhận thấy nồng độ Copeptin cao hơn ở những BN NMCT đến sớm khi mà TnI chưa tăng so với các BN NMCT đến muộn hơn, khác biệt có ý nghĩa thống kê. Hs- TnT tăng dần theo chiều tăng của TnI (Bảng 3). Khi khảo sát các BN có nồng độ TnI lúc nhập viện trong giới hạn bình thường (TnI < 80 ng/L), chúng tôi nhận thấy những BN NMCT có nồng độ Copeptin và hs-TnT cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các BN không phải NMCT (Bảng 4). Giá trị của TnI, Copeptin và hs-TnT trong chẩn đoán NMCT cấp Diện tích dưới đường cong (AUC) ROC của TnI, Copeptin và hs-TnT trong chẩn đoán NMCT cấp lần lượt là 0,907; 0,874 và 0,954 (Hình 2). Ở các BN nhập viện sớm với triệu chứng khởi phát < 3 giờ, xét nghiệm Copeptin là tốt nhất, AUC = 0,885. Nhưng nhìn chung, xét nghiệm hs-TnT là tốt hơn cả, đặc biệt là ở những BN nhập viện trước 6 giờ, AUC của hs-TnT cao hơn AUC của TnI, khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 5). Độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương và giá trị tiên đoán âm Độ nhạy (Sens), độ đặc hiệu (Spec), giá trị tiên đoán dương (PPV) và giá trị tiên đoán âm (NPV) được tính ra từ các điểm cắt TnI = 80 ng/L (99% URL), TnI = 400 ng/L (ngưỡng chẩn đoán NMCT), Copeptin = 21,84 pmol/L (tính từ đường cong ROC) và hs-TnT = 21,7 ng/L (tính từ đường cong ROC) được so sánh trong Bảng 6. hs- TnT có giá trị chẩn đoán tốt nhất. Mức TnI = 80 ng/L có độ nhạy và giá trị tiên đoán âm tốt hơn mức TnI = 400 ng/L. Sự kết hợp Copeptin và TnI ở mức 80 ng/L, đã nâng độ nhạy và giá trị tiên đoán âm lên cao tương đương với hs-TnT. Có 42 BN NMCT có ST chênh lên, trong đó xét nghiệm TnI mẫu đầu tiên chỉ tăng ≥ 400 ng/L ở 19 trường hợp BN, trong khi xét nghiệm hs- TnT tăng ≥ 21,7 ng/L ở 41 BN và còn có khả năng chẩn đoán thêm 6 trường hợp BN NMCT không ST chênh lên so với TnI (Hình 3, cột thứ nhất và thứ ba từ trái qua). Tương tự, ngưỡng TnI ≥ 80 ng/L, và sự kết hợp giữa TnI và Copeptin cũng có thể chẩn đoán được nhiều trường hợp NMCT hơn ngay từ mẫu xét nghiệm đầu tiên. Số BN ĐNKDMV không thay đổi dù chẩn đoán bằng loại xét nghiệm nào. Bảng 1: Nồng độ TnI, Copeptin và hs-TnT ở 2 nhóm BN Biến số Chung (n = 70) NMCT (n = 49) Không NMCT (n = 21) P TnI (ng/L) 91 (29 - 1125) 279 (66 - 3260) 24 (19 - 42) <0,001 Copeptin (pmol/L) 53,9 (12,0 - 203,1) 118,7 (31,8 - 281,2) 10,4 (5,6 - 17,8) <0,001 hs-TnT (ng/L) 107,1 (18,3 - 532,4) 309,8 (71,6 - 942,9) 4,5 (3,0 - 16,6) <0,001 Bảng 2: Nồng độ các dấu ấn sinh học tim theo thời gian đau ngực Biến số < 3 giờ (n = 12) 4 – 6 giờ (n = 21) 7 – 12 giờ (n = 16) ɼ TnI (ng/L) 49 (32 - 85) 196 (83 - 653) 3395 (1185-15185) 0,745 Copeptin (pmol/L) 219,5 (61,3 - 589,5) 118,7 (38,9-284,1) 73,8 (27,0 - 188,4) –0,339 hs-TnT (ng/L) 55,4 (42,9 - 182,6) 217,9 (78,3-354,5) 1183,5 (607,9- 1968,3) 0,731 Bảng 3: Copeptin và hs-TnT ở nhóm BN NMCT chưa hoặc đã có tăng TnI Biến số Tn I < 400 ng/L (n = 26) Tn I ≥ 400 ng/L (n = 23) P ( * ) Copeptin (pmol/L) 153,25 (40,4 – 560,2) 60,34 (27,8 – 158,4) 0,031 hs-TnT (ng/L) 85,1 (48,3 – 225,8) 1113,0 (438,6 – 1942,0) < 0,001 (*): so sánh Log Copeptin và Log hs-TnT. Bảng 4: Copeptin và hs-TnT ở các BN có TnI < 80 ng/L Biến số NMCT (n = 14) Không NMCT (n = 19) P ( * ) Copeptin (pmol/L) 122,8 (37,8 – 528,4) 10,6 (5,4 – 21,8) < 0,001 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Nội Khoa I 209 Biến số NMCT (n = 14) Không NMCT (n = 19) P (*) hs-TnT (ng/L) 52,5 (30,9 – 94,4) 4,5 (3,0 – 8,8) < 0,001 (*): so sánh Log Copeptin và Log hs-TnT. Bảng 5: AUC của ROC của 3 dấu ấn sinh học tim Tất cả BN Nhóm BN đến < 3 giờ Nhóm BN đến < 6 giờ AUC p AUC p AUC p TnI 0,907 _ 0,750 _ 0,849 _ Copeptin 0,874 0,62 0,885 0,47 0,881 0,72 hs-TnT 0,954 0,08 0,813 0,27 0,932 0,04 P: So sánh với AUC của TnI. Bảng 6: Giá trị chẩn đoán theo các điểm cắt Điểm cắt Sens Spec PPV NPV TnI (ng/L) 80 71,4% 90,5% 94,6% 57,6% 400 46,9% 100% 100% 44,7% Copeptin (pmol/L) 21,84 87,8% 81,0% 91,5% 73,9% hs-TnT (ng/L) 21,7 98,0% 85,7% 94,1% 94,7% Copeptin ≥ 21,84 và TnI ≥ 80 98,0% 71,4% 88,9% 93,8% Copeptin ≥ 21,84 và TnI ≥ 400 95,9% 81,0% 92,2% 89,5% Hình 1: Nồng độ 3 dấu ấn sinh học tim ở 4 nhóm BN tại thời điểm nhập viện và nhóm người bình thường Chú thích: Trung vị (đường gạch đen trong hình chữ nhật) và khoảng tứ phân vị (hình chữ nhật màu). Ở nhóm NMCT STCL và nhóm NMCT KSTCL, nồng độ 3 dấu ấn sinh học tim vượt hơn 15 lần mức 99% URL. (*): so sánh từng nhóm NMCT STCL và NMCT KSTCL với các nhóm ĐTNKÔĐ, ĐNKDMV và nhóm BT. (#): riêng TnI khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa 3 nhóm ĐTNKÔĐ, ĐN KDMV và nhóm BT. Hình 2: Đường cong ROC của 3 dấu ấn sinh học tim ở tất cả BN Hình 3: Khả năng chẩn đoán của các xét nghiệm ngay từ mẫu đầu tiên Chú thích: NMCT STCL 1: số BN NMCT có ST chênh lên được chẩn đoán ngay từ mẫu xét nghiệm đầu tiên; NMCT STCL 2: NMCT có ST chênh lên được chẩn đoán xác định bởi mẫu xét nghiệm thứ 2. Cop: copeptin. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Chuyên Đề Nội Khoa I 210 BÀN LUẬN Về điện tâm đồ lúc nhập viện Chúng tôi ghi nhận được 16,3% số BN NMCT cấp có điện tâm đồ lúc nhập viện bình thường hoặc gần như bình thường, không giúp ích cho chẩn đoán NMCT. Tỷ lệ này tương tự như nghiên cứu của Kelly D(6) có 15,9% BN NMCT cấp có điện tâm đồ không xác định được tổn thương, và thấp hơn trong 2 nghiên cứu của tác giả Reichlin T. với tỷ lệ BN không có những bất thường đáng kể trên điện tâm đồ lần lượt là 27,6%(7) và 28,4%(8). Điều này cho thấy các dấu ấn sinh học tim, đặc biệt là loại có thể tăng sớm trong những giờ đầu tiên sau khởi phát đau ngực, sẽ giúp tránh bỏ sót những trường hợp BN không có biểu hiện bất thường trên điện tâm đồ. Về hs-Troponin T Troponin T là dấu ấn chỉ điểm tổn thương cơ tim, xét nghiệm hs-TnT có thể phát hiện troponin T ở nồng độ rất thấp. So với nhóm BN không NMCT, hs-TnT tăng cao hơn rõ rệt ở các BN có NMCT cấp (Bảng 1). Và hs-TnT cũng cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm ĐTNKÔĐ so với 2 nhóm ĐNKDMV và nhóm người bình thường, trong khi nồng độ TnI khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở 3 nhóm này (Hình 1). Trong nghiên cứu của chúng tôi hs-TnT cũng có các đặc điểm giống như TnI: tăng rất cao ở các BN NMCT cấp, có diễn tiến động học tăng dần theo thời gian (tương quan thuận với thời gian đau ngực), nồng độ không khác biệt giữa 2 giới và giữa các BN có và không có suy thận. Xét nghiệm hs-TnT có khả năng chẩn đoán NMCT cấp với AUC của đường cong ROC rất cao: 0,813 ở các BN nhập viện trước 3 giờ và 0,954 đối với mọi BN đến bệnh viện trước 12 giờ từ lúc khởi phát đau ngực. Điều này tương tự với nghiên cứu của Reichlin T(7), AUC là 0,92 ở nhóm các BN nhập viện trước 3 giờ, và tính toàn bộ dân số nghiên cứu AUC là 0,96. Khả năng chẩn đoán NMCT cấp của hs-TnT cũng vượt trội hơn TnI ở những BN đến bệnh viện sớm hơn 6 giờ tính từ lúc khởi phát đau ngực, với AUC là 0,932 so với 0,849 của TnI, p = 0,04. Sẽ có nhiều hơn những BN đến sớm trước 6 giờ được chẩn đoán xác định NMCT cấp ngay mà không cần chờ mẫu xét nghiệm Troponin lần hai sau đó. Điều này mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là các BN thuộc nhóm HCMVC không ST chênh lên, đưa các BN này đến với cơ hội được điều trị tích cực hơn với các thuốc chống kết tập tiểu cầu mạnh, thuốc kháng đông và ngay cả can thiệp mạch vành sớm. Điểm cắt hs-TnT = 21,7 ng/L có độ nhạy 98%, độ đặc hiệu 85,7%, giá trị tiên đoán dương và âm lần lượt là 94,1% và 94,7%. hs-TnT có thể chẩn đoán được 41/42 trường hợp BN NMCT có ST chênh lên, 7/7 BN NMCT không ST chênh lên, chẩn đoán thêm 3 BN ĐTNKÔĐ trở thành NMCT ngay từ mẫu xét nghiệm đầu tiên lúc nhập viện và không chẩn đoán dương tính giả BN nào thuộc nhóm ĐNKDMV (Hình 3). Ngoài khả năng chẩn đoán chính xác, hs- TnT còn có thể chẩn đoán NMCT cấp sớm hơn so với TnI. Trong nhóm 26 BN NMCT cấp có mẫu xét nghiệm TnI lúc nhập viện chưa tăng đủ ngưỡng chẩn đoán NMCT (TnI < 400 ng/L) thì có đến 25 BN có nồng độ hs-TnT vượt qua ngưỡng chẩn đoán 21,7 ng/L, và có thể được chẩn đoán ngay là NMCT cấp mà không cần đợi mẫu Troponin thứ hai (Bảng 3). Ngoài ra, trong 33 BN có mẫu TnI lúc nhập viện trong giới hạn bình thường (< 80 ng/L), có 14 BN thực sự là NMCT cấp, thì hs-TnT đã tăng hơn ngưỡng chẩn đoán 21,7 ng/L ở 13 BN (Bảng 4). Điều này cho thấy hs-TnT có thể chẩn đoán NMCT cấp rất sớm ngay khi TnI chưa tăng hoặc còn trong giới hạn bình thường. Bên cạnh khả năng chẩn đoán đúng và sớm các BN bị NMCT, hs-TnT còn có khả năng loại trừ chẩn đoán NMCT nếu BN có kết
Tài liệu liên quan