Đặt vấn đề: Bộ câu hỏi GERDQ được xem là một công cụ chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực quản
(BTNDD-TQ) đơn giản và hiệu quả tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu ở các nước phương Tây. Tuy nhiên,
chưa có nghiên cứu nào xác định giá trị của GERDQ ở người Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định điểm cắt tốt nhất của tổng điểm GERDQ để chẩn đoán BTNDD-TQ ở bệnh nhân Việt
Nam.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang trên các bệnh nhân ngoại trú tại BV ĐHYD
TP. HCM có các triệu chứng tiêu hóa trên. Đánh giá triệu chứng lâm sàng theo GERDQ và đánh giá tổn
thương VTNDD-TQ trên nội soi theo phân loại Los Angeles. BTNDD-TQ được chẩn đoán theo định nghĩa của
đồng thuận Montreal. Người đánh giá nội soi không biết các triệu chứng lâm sàng để đảm bảo tính khách quan
khi đối chiếu. Sử dụng đường cong ROC để xác định điểm cắt thích họp cho chẩn đoán.
Kết quả: Có 201 bệnh nhân với tuổi trung bình là 39,4 ± 11,8 và tỉ lệ nam:nữ là 1,3. BTNDD-TQ chiếm tỉ
lệ 45,3% (91/201), trong đó VTNDD-TQ chiếm tỉ lệ 16,9% (34/201). Đau thượng vị là than phiền chính thường
gặp nhất của các bệnh nhân này, chiếm tỉ lệ 46,2% (42/91). 97,1% các trường hợp VTNDD-TQ ở mức độ độ
nhẹ. Điểm cắt GERDQ ≥ 6 cho độ nhạy và độ chuyên biệt trong chẩn đoán BTNDD-TQ lần lượt là 70,3% và
72%.
Kết luận: Điểm cắt của tổng điểm GERDQ để chẩn đoán BTNDD-TQ ở người Việt Nam thấp hơn so với
Phương Tây. Triệu chứng đau thượng vị phổ biến ở bệnh nhân BTNDD-TQ ở Việt Nam góp phần lý giải cho
giá trị điểm cắt thấp hơn này.
8 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của bộ câu hỏi GERDQ trong chẩn đoán các trường hợp bệnh trào ngược dạ dày thực quản có hội chứng thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 15
GIÁ TRỊ CỦA BỘ CÂU HỎI GERDQ TRONG CHẨN ĐOÁN CÁC
TRƯỜNG HỢP BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN CÓ HỘI
CHỨNG THỰC QUẢN
Quách Trọng Đức*, Hồ Xuân Linh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Bộ câu hỏi GERDQ được xem là một công cụ chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực quản
(BTNDD-TQ) đơn giản và hiệu quả tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu ở các nước phương Tây. Tuy nhiên,
chưa có nghiên cứu nào xác định giá trị của GERDQ ở người Việt Nam.
Mục tiêu: Xác định điểm cắt tốt nhất của tổng điểm GERDQ để chẩn đoán BTNDD-TQ ở bệnh nhân Việt
Nam.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt ngang trên các bệnh nhân ngoại trú tại BV ĐHYD
TP. HCM có các triệu chứng tiêu hóa trên. Đánh giá triệu chứng lâm sàng theo GERDQ và đánh giá tổn
thương VTNDD-TQ trên nội soi theo phân loại Los Angeles. BTNDD-TQ được chẩn đoán theo định nghĩa của
đồng thuận Montreal. Người đánh giá nội soi không biết các triệu chứng lâm sàng để đảm bảo tính khách quan
khi đối chiếu. Sử dụng đường cong ROC để xác định điểm cắt thích họp cho chẩn đoán.
Kết quả: Có 201 bệnh nhân với tuổi trung bình là 39,4 ± 11,8 và tỉ lệ nam:nữ là 1,3. BTNDD-TQ chiếm tỉ
lệ 45,3% (91/201), trong đó VTNDD-TQ chiếm tỉ lệ 16,9% (34/201). Đau thượng vị là than phiền chính thường
gặp nhất của các bệnh nhân này, chiếm tỉ lệ 46,2% (42/91). 97,1% các trường hợp VTNDD-TQ ở mức độ độ
nhẹ. Điểm cắt GERDQ ≥ 6 cho độ nhạy và độ chuyên biệt trong chẩn đoán BTNDD-TQ lần lượt là 70,3% và
72%.
Kết luận: Điểm cắt của tổng điểm GERDQ để chẩn đoán BTNDD-TQ ở người Việt Nam thấp hơn so với
Phương Tây. Triệu chứng đau thượng vị phổ biến ở bệnh nhân BTNDD-TQ ở Việt Nam góp phần lý giải cho
giá trị điểm cắt thấp hơn này.
Từ khóa: GERDQ, viêm trào ngược dạ dày – thực quản, bệnh trào ngược dạ dày – thực quản
ABSTRACT
THE ROLE OF GERDQ QUESTIONAIRE IN THE DIAGNOSIS OF GASTRO-ESOPHAGEAL REFLUX
DISEASE WITH ESOPHAGEAL SYNDROME
Quach Trong Duc, Ho Xuan Linh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 15 - 22
Background: GERDQ questionnaire has been considered as a simple and effective tool for GERD diagnosis
in primary care in Western countries. This questionnaire has not been validated in Vietnamese population.
Aim: To determine the optimal cut-off point of GERDQ score for the diagnosis of GERD in Vietnamese
patients.
Subjects and methods: A prospective cross-sectional study was conducted on out-patients who had upper
gastrointestinal symptoms at the University Medical Center of Hochiminh City. Patients’ symptoms were
assessed according to GERDQ questionnaire and the severity of reflux esophagitis was assessed according to the
Los Angeles classification. The criteria for GERD diagnosis was based on the GERD definition of Montreal
consensus. The endoscopist who evaluated endoscopic finding was masked from patients’ symptoms. ROC curve
Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. HCM, khoa Nội Tiêu Hóa BV Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên lạc: TS BS Quách Trọng Đức ĐT: 091.8080225, email: drquachtd@ump.edu.vn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 16
was used to define the optimal cut-off GERDQ score for the diagnosis of GERD.
Results: There were 201 patients with the mean age of 39.4 ± 11.8 and the male-to-female ratio of 1.3. The
rates of GERD and RE were 45.3% (91/201) and 16.9% (34/201), respectively. Epigastric pain was the most
common chief complaint of GERD with the rate of 46.2% (42/91). 97.1% patients with RE were in mild grade
(i.e. LA-A or LA-B). Using the GERDQ cut-off score of 6, the sensitivity and specificity for GERD diagnosis
were 70.3% and 72%, respectively.
Conclusion: The optimal GERDQ cut-off in Vietnamese is lower than that in Western population, which is
partly explained by the common of epigastric pain in Vietnamese patients with GERD.
Key words: reflux esophagitis, GERDQ, GERD
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tần suất bệnh trào ngược dạ dày thực quản
(BTNDD-TQ) có xu hướng ngày càng tăng ở các
nước Châu Á(3,6,7). Một tiến bộ gần đây trong lĩnh
vực chẩn đoán BTNDD-TQ là sự ra đời của bộ
câu hỏi GerdQ, được xây dựng cơ sở tích hợp
điểm của các triệu chứng cơ năng. Ưu điểm nổi
bật của bộ câu hỏi này là giúp nâng cao độ
chính xác trong chẩn đoán BTNDD-TQ của bác
sĩ đa khoa tổng quát lên ngang với bác sĩ chuyên
khoa tiêu hóa, đồng thời giúp đánh giá mức độ
nặng của bệnh và theo dõi đáp ứng điều trị.(8)
Đây là một công cụ chẩn đoán đơn giản và
không xâm lấn, do đó có tiềm năng ứng dụng
cao tại các cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu.
Tuy nhiên, điểm cắt (cut-off point) của tổng
điểm GERDQ nhằm chẩn đoán BTNDD-TQ
được xác định dựa trên nghiên cứu ở dân số Âu
– Mỹ, việc ứng dụng trên người Việt Nam có thể
có một số điểm khác biệt. Nghiên cứu trước đây
của chúng tôi cho thấy bệnh nhân Việt Nam bị
VTNDD-TQ thường ít có biểu hiện triệu chứng
trào ngược điển hình, trong khi đau thượng vị
lại là triệu chứng thường gặp nhất.(11) Do đó
điểm cắt của tổng điểm GERDQ khi sử dụng để
chẩn đoán BTNDD-TQ ở bệnh nhân Việt Nam
có thể thấp hơn so với nghiên cứu gốc. Hiện tại
trong nước chưa có công trình nào về vấn đề
này. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác
định giá trị của bộ câu hỏi GerdQ để chẩn đoán
các trường hợp BTNDD-TQ có hội chứng thực
quản ở bệnh nhân Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Các bệnh nhân ngoại trú đến khám tại BV
Đại Học Y Dược TP. HCM từ tháng 03/2011 đến
tháng 07/2011 thỏa mãn các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tuổi ≥ 18
Có triệu chứng nghi ngờ bệnh đường tiêu
hóa trên
Được chỉ định nội soi tiêu hóa trên.
Tiêu chuẩn loại trừ
Dùng thuốc ức chế bơm proton, ức chế thụ
thể H2, kháng sinh, NSAIDs, aspirine và
corticoid trong vòng 4 tuần trước khi đến khám.
Tiền căn phẫu thuật đường tiêu hóa trên
hoặc ung thư đường tiêu hóa.
Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang, với
phương pháp chọn mẫu thuận tiện. Cỡ mẫu
được tính theo công thức:
2
2
2/1 1
d
ppZ
n
Trong đó: n là cỡ mẫu, chọn d (độ chính xác
tuyệt đối mong muốn) là 0,05; = 0,05 tương
ứng với Z1-/2 = 1,96; p là tỉ lệ ước đoán của quần
thể, được tính dựa trên tỉ lệ VTNDD-TQ theo
nghiên cứu trước đây tại BV ĐHYD TP HCM. (11)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 17
Áp dụng vào công thức trên tính được cỡ mẫu
tối thiểu n = 197.
Phương pháp tiến hành
Tất cả bệnh nhân tham gia nghiên cứu được
hỏi và đánh giá triệu chứng lâm sàng theo một
mẫu bệnh án khai thác triệu chứng cơ năng
thống nhất, bao gồm bộ câu hỏi GERQ đã được
Việt hóa do công ty Astra-Zeneca cung cấp.
Bảng Việt hóa này đã được xác định là đảm bảo
được ý nghĩa của bản GERDQ gốc bằng tiếng
Anh khi kiểm tra bằng phương pháp dịch
ngược. Việc đánh giá GERDQ và đánh giá tổn
thương trên nội soi được tiến hành độc lập: để
đảm bảo tính khách quan, người đánh giá kết
quả nội soi hoàn toàn biết các thông tin lâm
sàng của bệnh nhân. Sau khi khai thác triệu
chứng cơ năng, các bệnh nhân được tiến hành
nội soi tiêu hóa với máy nội soi Olympus Video
Exera GIF-160. Trên nội soi, mức độ viêm trào
ngược dạ dày thực quản (VTNDD-TQ) được
đánh giá theo phân loại Los Angeles.
Tiêu chuẩn chẩn đoán
Các tiêu chuẩn chẩn đoán được thiết lập dựa
trên đồng thuận Montreal: BTNDD-TQ bao gồm
các trường hợp có hội chứng tại thực quản và
hội chứng ngoài thực quản.(14) Chúng tôi tiến
hành nghiên cứu các bệnh nhân có triệu chứng
tiêu hóa trên nhằm chẩn đoán BTNDD-TQ có
hội chứng tại thực quản.
BTNDD-TQ: bệnh nhân có triệu chứng ợ
nóng hoặc ợ trớ gây khó chịu và / hoặc có tổn
thương thực quản do trào ngược quan sát thấy
trên nội soi.
VTNDD-TQ: đánh giá mức độ theo tiêu
chuẩn của phân loại Los Angeles.
BTNDD-TQ không viêm trào ngược trên nội
soi: bệnh nhân có triệu chứng ợ nóng hoặc ợ trớ
gây khó chịu nhưng không kèm tổn thương thực
quản do trào ngược trên nội soi.
Quản lý và phân tích số liệu
Sử dụng phần mềm SPSS 15.0 để quản lý số
liệu và phân tích thống kê. Sử dụng thống kê
mô tả để tính tần suất, trung tình và tỉ lệ. Sử
dụng đường cong ROC để xác định diện tích
dưới đường cong và điểm cắt thích hợp để chẩn
đoán BTNDD-TQ và VTNDD-TQ.
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
Có 201 bệnh nhân với tuổi trung bình là 39,4
± 11,8 (nhỏ nhất 19, lớn nhất 82). Tỉ lệ nam: nữ là
1,3:1. Trình độ học vấn, đặc điểm triệu chứng cơ
năng và kết quả nội soi của nhóm bệnh nhân
trong nghiên cứu được trình bày ở bảng 1,2 và 3.
Bảng 1. Trình độ học vấn của bệnh nhân tham gia
nghiên cứu
Trình độ học vấn n % % tích lũy
Mù chữ 2 1 1
Cấp I 31 15,4 16,4
Cấp II 64 31,8 48,3
Cấp III 42 20,9 69,2
Trung cấp 11 5,5 74,6
Cao đẳng / đại học 45 22,4 97
Sau đại học 6 3 100
Tổng cộng 201 100
Nhận xét: Tỉ lệ bệnh nhân học dưới cấp III
chiếm phân nữa các trường hợp đến khám. Đây
là nhóm bệnh nhân rất khó tự đánh giá triệu
chứng theo bộ câu hỏi GERDQ.
Bảng 2. Triệu chứng cơ năng của các bệnh nhân
tham gia nghiên cứu
Than phiền
chính
Triệu chứng
kèm theo*
Triệu chứng n % n %
Ợ nóng 16 8 43 21,4
Ợ trớ 17 8,5 102 50,7
Đau thượng vị 107 53,2 135 67,2
Nóng thượng vị 6 3 50 24,9
Khó chịu thượng vị sau ăn 44 21,9 111 55,2
Cảm giác no sớm 2 1 84 41,8
Buồn nôn / nôn 2 1 0 0
Đầy hơi 7 3,5 0 0
Tổng cộng 201 100
Bệnh nhân có thể có kèm một hoặc nhiều
triệu chứng cơ năng nên tổng số n ở cột triệu
chứng cơ năng kèm theo cao hơn số bệnh nhân
thực tế.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 18
Nhận xét: than phiền thường gặp của bệnh
nhân là đau thượng vị, kế đến là khó chịu
thượng vị sau ăn.
Bảng 3. Kết quả nội soi của các bệnh nhân trong
nghiên cứu
Chẩn đoán nội soi n** %
Viêm trào ngược DD – TQ
LA-A
LA-B
LA-C
LA-D
34
30
3
1
0
16,9
14,9
1,5
0,5
0
Nghi Barrett’s thực quản trên nội soi *8 4
Nấm thực quản 5 2,5
Viêm dạ dày 142 70,6
Loét dạ dày 4 2
Ung thư dạ dày 0 0
Loét tá tràng 8 4
Viêm tá tràng 7 3,5
Bình thường 5 2,5
* 3 trường hợp có kèm và 5 trường hợp không kèm
VTNDD-TQ.
** một bệnh nhân có thể có một hoặc nhiều chẩn
đoán trên nội soi.
Nhận xét: Tỉ lệ VTNDD-TQ cao hơn rõ rệt so
với tỉ lệ loét dạ dày tá tràng.
Chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày – thực
quản
BTNDD-TQ chiếm tỉ lệ 45,3% (91/201), trong
đó có 34 là VTNDD-TQ và 57 là BTNDD-TQ
không có tổn thương trên nội soi. VTNDD-TQ
chiến tỉ lệ 37,3% (34/91) trên tổng số bệnh nhân
BTNDD-TQ. Có 14 (7%) trường hợp VTNDD-
TQ nhưng không có triệu chứng trào ngược
điển hình trên lâm sàng. Mức độ nặng ở các
trường hợp VTNDD-TQ và than phiền chính
của các bệnh nhân bị BTNDD-TQ được trình
bày ở bảng 4 và 5.
Bảng 4. Mức độ nặng của viêm trào ngược dạ dày –
thực quản trên nội soi
Mức độ VTNDDTQ
trên nội soi
n % % tích lũy
LA-A 30 88,2 88,2
LA-B 3 8,8 97,1
LA-C 1 2,9 100
LA-D 0 0 100
Tổng cộng 34 100
Nhận xét: Hầu hết các trường hợp VTNDD-
TQ là ở mức độ nhẹ.
Có 6,6% (6/91) trường hợp BTNDD-TQ phối
hợp với tổn thương thực thể. Đặc điểm của 6
trường hợp này là: 3 kèm loét dạ dày và 3 kèm
loét tá tràng; 5/6 (83,3%) là nam; 5/6 (83,3%) có
triệu chứng báo động (thức giấc về đêm: 3, nuốt
khó: 1, sụt cân: 1, thiếu máu: 1, xuất huyết tiêu
hóa: 1).
Bảng 5. Than phiền của các trường hợp BTNDD-
TQ
Triệu chứng cơ năng ở bệnh nhân
BTNDD-TQ
n %
Ợ nóng 40 44
Ợ trớ 69 75,8
Đau thượng vị 63 69,2
Nóng thượng vị 28 30,8
Khó chịu sau ăn 49 53,8
Buồn nôn / nôn 1 1,1
No sớm 41 45,1
Nuốt khó 5 5,5
Đầy hơi 1 1,1
Nhận xét: hơn 2/3 các trường hợp BTNDD-
TQ có triệu chứng đau thượng vị. Điều này góp
phần làm giảm tổng điểm GERDQ ở các bệnh
nhân BTNDD-TQ.
Bảng 6. Than phiền chính ở các trường hợp
BTNDD-TQ
Than phiền chính
BTNDD-TQ
không kèm VTQ
VTNDD-
TQ
n % n %
Ợ nóng 10 17,5 5 14,7
Ợ trớ 11 19,3 5 14,7
Đau thượng vị 26 45,6 16 47,1
Khó chịu sau ăn 9 15,8 6 17,6
Buồn nôn / nôn 0 0 1 2,9
Đầy hơi 1 1,8 1 2,9
Tổng cộng 57 100 34 100
Kiểm 2, p = 0,817.
Nhận xét: Triệu chứng trào ngược điển hình
không phải là than phiền thường gặp ở cả hai
nhóm bệnh nhân có VTNDD-TQ và BTNDD-TQ
không kèm viêm thực quản. Triệu chứng cơ
năng chính không giúp bác sĩ lâm sàng phân
biệt các trường hợp có / không có tổn thương
VTNDD-TQ.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 19
Giá trị của các phương pháp chẩn đoán
BTNDD-TQ
Độ nhạy của chẩn đoán BTNDD-TQ khi dựa
trên triệu chứng than phiền chính là ợ nóng / ợ
trớ là 34% (31/91) và khi dựa trên nội soi là
37,3% (34/91). Với định nghĩa BTNDD-TQ trong
nghiên cứu, cả hai phương pháp chẩn đoán này
đều có độ chuyên biệt là 100%. Khi sử dụng
GERDQ, chúng tôi xác định được giá trị cắt tốt
nhất của GERDQ để chẩn đoán BTNDD-TQ là 6,
với độ nhạy và độ chuyên biệt lần lượt là 70,3%
và 72% (biểu đồ 1). Có mối tương quan thuận
giữa tổng điểm GERDQ với tổn thương
VTNDD-TQ (Pearson’s correlation = 0,182, p =
0,01). Biểu đồ 2 và bảng 7 mô tả tỉ lệ và nguy cơ
mắc VTNDD-TQ tại các điểm cắt của GERDQ.
1 - Specificity
1.00.80.60.40.20.0
S
e
n
s
it
iv
it
y
1.0
0.8
0.6
0.4
0.2
0.0
Diện tích dưới đường cong = 0,806
Điểm GERDQ Độ nhạy Độ chuyên
≥ 6 70,3% 72%
≥ 7 53,8% 93%
≥ 8 47,3% 100%
Biểu đồ 1. Giá trị chẩn đoán BTNDD-TQ của bộ câu hỏi GERDQ
Nhận xét: Tổng điểm GERDQ ≥ 6 cho độ
nhạy và độ chuyên biệt trong chẩn đoán
BTNDD-TQ tốt nhất.
Biểu đồ 2. Mối liên quan giữa điểm cắt GERDQ và
tỉ lệ VTNDD-TQ
Nhận xét: Bệnh nhân có điểm GERDQ là 6 – 8
thì nguy cơ kèm VTNDD-TQ không khác biệt
đáng kể so với nhóm GERDQ ≤ 5, tuy nhiên
nguy cơ VTNDD-TQ tăng cao dần khi điểm
GERD ≥ 9.
Bảng 7. Nguy cơ có VTNDD-TQ trên nội soi ở các
mức điểm GERDQ
Mức điểm
GERDQ
VTNDD-TQ
n (%) OR (95%CI) p
0-5 14/106 (13,2%) 1 -
6-8
8/65 (12,3%)
0,92 (0,36-
2,34)
0,8649
≥ 9
12/30 (40%)
4,38 (1,67-
11,49)
0,001
Nhận xét: So với nhóm bệnh nhân có GERDQ
< 6: nguy cơ VTNDD-TQ ở nhóm bệnh nhân có
điểm GERDQ 6 – 8 không khác biệt, trong khi
nguy cơ VTNDD-TQ ở nhóm GERDQ ≥ 9 cao
gấp 4,38 lần.
BÀN LUẬN
Các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy tỉ lệ loét
dạ dày tá tràng ngày càng giảm đi, trong khi tỉ lệ
BTNDD-TQ ngày càng gia tăng là xu hướng
chung trên thế giới; khuynh hướng này ở Châu
Á cũng tương tự như ở phương Tây nhưng xuất
hiện muộn hơn.(7) Nghiên cứu của chúng tôi cho
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Nội Khoa I 20
thấy tỉ lệ VTNDD-TQ là 16,9%, cao hơn so với tỉ
lệ loét dạ dày tá tràng là 6%. Trong một nghiên
cứu trước đây cũng được thực hiện tại BV
ĐHYD TP. HCM năm 2005 trên 3302 trường hợp
được nội soi tiêu hóa trên, chúng tôi ghi nhận tỉ
lệ VTNDD-TQ là 15,4% và tỉ lệ loét dạ dày – tá
tràng là 14,9%.(11) Khi kiểm thống kê chúng tôi
nhận thấy tần suất loét dạ dày – tá tràng có xu
hướng giảm dần (p < 0,001) tuy nhiên không có
sự khác biệt về tỉ lệ VTNDD-TQ trong thời gian
6 năm qua.
Phần lớn các trường hợp VTNDD-TQ trong
nghiên cứu này ở mức độ nhẹ. Kết quả này cũng
tương tự như số liệu chúng tôi công bố năm
2005, và cũng như hầu hết các nghiên cứu trên
bệnh nhân gốc châu Á khác.(1,4) Chúng tôi ghi
nhận có 5 trường hợp nghi ngờ Barrett’s trên nội
soi không kèm VTNDD-TQ. Một điểm yếu của
nghiên cứu này là các trường hợp kể trên không
được sinh thiết để chẩn đoán xác định. Tuy
nhiên số liệu của một công trình nghiên cứu
trong nước mới đây cho thấy tỉ lệ thực quản
Barrett’s thực sự được chẩn đoán ở những tổn
thương này chỉ chiếm 19,3%.(9) Do đó, điều này
cũng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến tổng
số bệnh nhân BTNDD-TQ và việc đánh giá kết
quả theo mục tiêu nghiên cứu.
Chẩn đoán VTNDD-TQ thường không gây
tranh cãi do tổn thương viêm do trào ngược
trên nội soi rất điển hình. Tuy nhiên chẩn
đoán BTNDD-TQ không kèm tổn thương
viêm trên nội soi là một vấn đề chưa đạt được
sự đồng thuận do không có tiêu chuẩn vàng
để chẩn đoán _ kể cả khi sử dụng phương
pháp đo pH thực quản 24 giờ. Trong nghiên
cứu này tỉ lệ VTNDD-TQ là 16,9%. Các nghiên
cứu trên thế giới nói chung và nghiên cứu tại
Châu Á nói riêng (12) đều cho thấy VTNDD-TQ
chỉ chiếm 1/3 số trường hợp BTNDD-TQ thực
sự được chẩn đoán. Như vậy, kết quả xác
định được tỉ lệ BTNDD-TQ trong nghiên cứu
này dựa theo định nghĩa của đồng thuận
Montreal (14) là 45,3%, xấp xỉ gấp 3 lần so với tỉ
lệ VTNDD-TQ được phát hiện qua nội soi,
thực sự không có sự khác biệt so với số liệu
đã được thế giới công bố. Điều này đánh
động về vai trò và tầm quan trọng của việc
quản lý bệnh lý tiêu hóa trên này trong
chuyên ngành tiêu hóa ở nước ta và cho thấy
sự cần thiết của việc đẩy mạnh các nghiên cứu
về lĩnh vực này.
Tỉ lệ BTNDD-TQ phối hợp với bệnh thực thể
là 6,6%. Trong nghiên cứu này chúng tôi không
gặp trường hợp bệnh ác tính. Điểm lý thú là hầu
hết các trường hợp BTNDD-TQ có kèm loét dạ
dày tá tràng trong nghiên cứu này đều có triệu
chứng báo động, do đó thăm dò bằng nội soi
đều đã được đặt ra. Điều này ủng hộ cho quan
điểm có thể điều trị thử và không nhất thiết phải
thực hiện nội soi ở những trường hợp BTNDD-
TQ không kèm theo triệu chứng báo động.
Biểu đồ 1 cho thấy điểm cắt tốt nhất để chẩn
đoán BTNDD-TQ trong nghiên cứu này là 6,
thấp hơn điểm cắt để chẩn đoán của bảng
GERDQ nguyên thủy do Jones và cộng sự đề
xuất là 8 (8). Với điểm cắt này thì độ nhạy và độ
chuyên biệt để chẩn đoán BTNDD-TQ lần lượt
là 70,3% và 72%; gần như tương đương với kết
quả trong nghiên cứu của Jones và cs là 65% và
71%, đồng thời có độ nhạy cao hơn so với khi
chẩn đoán dựa trên than phiền chính là triệu
chứng trào ngược điển hình. Chúng tôi cho rằng
điểm cắt thấp hơn ở bệnh nhân Việt Nam là do
triệu chứng đau thượng vị chiếm tỉ lệ đến 62,9%
ở các bệnh nhân trong nghiên cứu đã góp phần
đáng kể làm giảm trị số của tổng điểm GERDQ
trên bệnh nhân BTNDD-TQ.
Nghiên cứu này cũng cho thấy triệu
chứng trào ngược điển hình (ợ nóng, ợ trớ) rất
ít khi là than phiền chính, trong khi đau
thượng vị lại khá thường gặp ở các bệnh nhân
BTNDD-TQ (bảng 5, 6). Đây cũng là đặc điểm
chung của BTNDD-TQ ở vùng Châu Á – Thái
Bình Dương(3). Điều này dẫn đến một khó
khăn cho bác sĩ lâm sàng là rất dễ chẩn đoán
nhầm giữa BTNDD-TQ và rối loạn tiêu hóa
(Dyspepsia), đặc biệt là hội chứng đau thượng
vị (Epigastric Pain Syndrome _ EPS) theo tiêu
chuẩn ROME III. Một nghiên cứu gần đây tại
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Nội Khoa I 21
Nhật cho thấy có sự chồng lắp đáng kể giữa
hai chẩn đoán này(10). Trên thực tế, yếu tố
quyết định thái độ xử trí bệnh nhân là cần xác
định xem bệnh nhân có bị VTNDD-TQ và
bệnh lý thực thể của dạ dày – tá tràng hay
không. Việc phân biệt giữa BTNDD-TQ không
kèm tổn thương viêm trên nội soi và EPS
thường không đặt ra sự khác biệt đáng kể
trong chiến lược điều trị vì thuốc ức chế bơm
proton thường được chỉ định trong những
trường hợp này với liều khởi đầu tương
đương.(3,13) Đồng thời, mục tiêu điều trị chính
trong cả hai tình huống trên chỉ là cải thiện
triệu chứng, không kèm mục tiêu làm lành tổn
thương trên nội soi. Một nghiên cứu tại
Singapore cho thấy rằng liều Esomeprazole
20mg hoặc Rabeprazole 10mg cũng đủ hiệu
quả để kiểm soát triệu chứng ở những trường
hợp BTNDD-TQ không có tổn thương trên nội
soi: triệu chứng trào ngược hết hẳn trong
ngày ở cả hai nhóm đều đạt được sau 9 ngày
và tỉ lệ cải thiện triệu chứng đáng kể đạt 81,