Tràn khí dưới da vùng cổ ngực và trung thất là một bệnh lý thường gặp do khí bị tích tụ lại dưới da gây nên, nhiều nguyên nhân gây ra như sau chấn thương, nhiễm trùng, suyễn thậm chí không rõ nguyên nhân. Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân, lâm sàng, xử lý và kết quả điều trị bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: - Những ca có tràn khí dưới da vùng cổ mặt nằm điều trị tại khoa Tai mũi họng hoặc những khoa khác nhưng có sự tham gia chẩn đoán và điều trị của chuyên khoa Tai Mũi Họng. - Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca với nghiên cứu hồi cứu – tiền cứu. Kết quả: 31 ca ghi nhận trong thời gian từ 1/2010 đến 3/2012. Số ca tràn khí dưới da đơn thuần là 12 ca, số ca có kèm thêm tràn khí trung thất, màng phổi là 19 ca. Không cần can thệp 9 ca, 22 ca cần can thiệp trong điều trị. Kết luận: Tràn khí dưới da vùng cổ ngực trung thất thường không tới mức nguy hiểm chết người, nó có thể được giải quyết tốt với phần đóng góp hay không của y tế. Tuy nhiên một số ca có thể tiến triển thành tình trạng nguy hiểm, gây suy hô hấp mà thày thuốc cần phải biết và xử trí kịp thời.
7 trang |
Chia sẻ: thanhuyen291 | Ngày: 14/06/2022 | Lượt xem: 301 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp phần nghiên cứu tràn khí dưới da vùng cổ ngực và trung thất tại khoa tai mũi họng Bệnh viện Chợ Rẫy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 165
GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU TRÀN KHÍ DƯỚI DA VÙNG CỔ NGỰC
VÀ TRUNG THẤT TẠI KHOA TAI MŨI HỌNG BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Trần Minh Trường*
Tóm tắt: Tràn khí dưới da vùng cổ ngực và trung thất là một bệnh lý thường gặp do khí bị tích tụ lại dưới
da gây nên, nhiều nguyên nhân gây ra như sau chấn thương, nhiễm trùng, suyễn thậm chí không rõ nguyên
nhân.
Mục tiêu: Tìm hiểu nguyên nhân, lâm sàng, xử lý và kết quả điều trị bệnh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: - Những ca có tràn khí dưới da vùng cổ mặt nằm điều trị tại
khoa Tai mũi họng hoặc những khoa khác nhưng có sự tham gia chẩn đoán và điều trị của chuyên khoa Tai Mũi
Họng. - Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca với nghiên cứu hồi cứu – tiền cứu.
Kết quả: 31 ca ghi nhận trong thời gian từ 1/2010 đến 3/2012. Số ca tràn khí dưới da đơn thuần là 12 ca, số
ca có kèm thêm tràn khí trung thất, màng phổi là 19 ca. Không cần can thệp 9 ca, 22 ca cần can thiệp trong điều
trị.
Kết luận: Tràn khí dưới da vùng cổ ngực trung thất thường không tới mức nguy hiểm chết người, nó có
thể được giải quyết tốt với phần đóng góp hay không của y tế. Tuy nhiên một số ca có thể tiến triển thành tình
trạng nguy hiểm, gây suy hô hấp mà thày thuốc cần phải biết và xử trí kịp thời.
ABSTRACT
RESEARCH OF SUBCUTANEOUS EMPHYSEMA: NECK, CHEST AND MEDIASTINAL AREA AT
ENT DEPARTMENT CHO RAY HOSPITAL
Tran Minh Truong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 2 - 2012: 135 - 157
Subcutaneous emphysema of chest and neck region is a result by air or gas trapped beneath the cutis of the
skin. Pneumomediastinum is a complication and it has many causes, such as: Trauma, infections, asthma... and
spontaneous cases even.
Purpose: To be aware of the causes, clinical, treatment approach and results.
Subjects and methods for study: Subject: The patients having subcutaneous emphysema of the face and
neck area are treated at ENT Department or at other departments where the diagnosis and treatment are involved
by ENT specialist. Method: Cases description with retrospective and prospective study.
Results: Total of 31 cases recorded in the period from Jan 2010 to Mar 2012. In which, 12 cases are recorded
for subcutaneous emphysema only and 19 cases accompanied by pneumomediastinum, pneumothorax. Self-
healing is 9 cases, 22 cases need the medical intervention.
Conclusion: Air in subcutaneous tissue does not a lethal threat, it can be resolved with or without medical
intervention. However, in several cases, the said disease will become more dangerous and severe once
accompanying with the pneumomediastinum. Thus, the doctors should be identified and proactively treat in time.
* BV Chợ Rẫy, Bộ môn Tai Mũi Họng ĐHYD TPHCM
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Minh Trường, ĐT: 0903726280, email: tranminhtruong2005@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 166
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tràn khí dưới da vùng cổ ngực là bệnh lý
gặp không chỉ lĩnh vực chuyên khoa ngoại lồng
ngực hay hô hấp mà các bác sĩ thuộc nhiều
chuyên khoa khác cũng hay phải thường xuyên
đối mặt. Mặt khác, tràn khí dưới da có những
mối liên quan đặc biệt với tràn khí ở phổi -
trung thất, vì vậy việc nghiên cứu vấn đề một
cách hệ thống, cẩn thận là một việc làm rất thú
vị và đòi hỏi kinh nghiệm của các bác sĩ thuộc
những lĩnh vực chuyên khoa khác nhau.
Sau khi nghiên cứu 31 hồ sơ bệnh án trong
đó có nhiều bệnh nhân chúng tôi trực tiếp tham
gia hội chẩn và điều trị từ tháng 1/2010 đến
tháng 3/2012 chúng tôi tổng kết số liệu, xem lại
một số bệnh lý đặc biệt và so sánh kết quả điều
trị của mình với kinh nghiệm với các tác giả
nước ngoài nhằm có một phác đồ chẩn đoán
bệnh nhanh chính xác và hiệu quả.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
31 bệnh nhân là những trường hợp có tràn
khí dưới da đơn thuần hoặc có kèm theo tràn
khí trung thất, màng phổi đã được khám, điều
trị tại khoa tai mũi họng hoặc điều trị tại các
khoa khác (Săn sóc đặc biệt, phổi, lồng ngực.v.v)
của bệnh viện Chợ Rẫy và cần sự tham gia chẩn
đoán và điều trị của chuyên khoa tai mũi họng.
Thời gian từ tháng 1/2010 đến tháng 3/2012.
Phương pháp nghiên cứu
- Là phương pháp hồi cứu - tiền cứu mô tả
- Nghiên cứu hồ sơ những bệnh nhân được
chẩn đoán tràn khí dưới da vùng cổ ngực do bất
cứ nguyên nhân gì nằm tại khoa tai mũi họng
hay được mời tham dự chẩn đoán và điều trị
(bệnh nhân có thể có kèm theo các bệnh lý khác
như tràn khí trung thất, bụng ngoại khoa, gãy
xương v.v.)
- Ghi nhận các nguyên nhân, triệu chứng
lâm sàng.
- Chẩn đoán cận lâm sàng
+ X Quang tư thế phổi thẳng, nghiêng. Cổ
thẳng, nghiêng
+ CT Scan bụng ngực, CT Scan toàn thân
(nếu cần thiết)
+ MRI
+ Nội soi khí phế quản
+ Nội soi thực quản
Các biện pháp và kết quả điều trị
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1: Tuổi và giới bệnh nhân
Giới 20 tuổi < 20 – 30
tuổi <
30- 40 tuổi
<
40 trở lên
Nam 2 7 5 4
Nữ 0 6 5 2
Nhóm bệnh phân bố đa số trong khoảng
tuổi từ 20 đến 40 tuổi, hầu hết là bệnh nhân
chuyển đến từ các tính và nhỏ nhất là 8 tuổi và
lớn nhất là 63 tuổi. Số bệnh nhân nam nhiều hơn
số bệnh nhân nữ.
Nguyên nhân
+ Sau phẫu thuật cắt Amidan: 2 ca
+ Chấn thương vùng mặt, xoang: 2 ca
+ Chấn thương thanh khí quản: 11 ca
+ Sau nội soi thực quản: 2 ca
+ Thủng thực quản cổ: 3 ca
+ Nhiễm trùng: 6 ca
+ Sau mở khí quản: 5 ca
Triệu chứng lâm sàng ghi nhận
- Đau rát họng: 4 ca
- Khó thở: 10 ca
- Sốt > 38 độ: 6 ca
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 167
- Căng phồng dưới da vùng cổ ngực: 31 ca
- Sờ lép bép dưới da: 25 ca
- Cảm giác khó thở: 20 ca
- Có hình ảnh tràn khí trên X quang, CT
Scan: 27 ca
Bảng 2: Triệu chứng muộn
Căng phồng,
lan tỏa
Sưng
đỏ
Đau Sốt Tràn khí
tái phát
Chèn ép –
suy hô hấp
2 4 8 3 2 5
Hình ảnh X quang và CT: Trên các phim CT
Scan và X quang đều cho thấy hình ảnh của tụ
khí dưới da, một số ca có hình ảnh của khí trong
trung thất.
Bảng 3: Các can thiệp đã thực hiện
- Mở khí quản 8 ca
- Mở cạnh cổ dẫn lưu ap xe 8 ca
- Mở ngực dẫn lưu áp xe và khâu tái tạo 4 ca
- Cắm kim dẫn lưu khí 7 ca
- Dẫn lưu màng phổi 5 ca
Kết quả điều trị
Thời gian nằm viện ít nhất 3 ngày, thời gian
nằm viện dài nhất 36 ngày, số ngày nằm viện
trung bình 7,5 ngày.
4 ca vẫn còn mang canule khi ra viện, 1 ca tử
vong do nhiễm trùng huyết.
BÀN LUẬN
Tràn khí dưới da xuất hiện khi hơi hoặc khí
bị tắc nghẽn ứ lại ở lớp dưới da, thông thường
khí có nguồn gốc từ lồng ngực với triệu chứng
rất đặc trưng là lạo xạo, lép bép khi sờ vào vùng
cổ ngực(10,7,9). Trường hợp tràn khí dưới da đầu
tiên được ghi nhận vào năm 1950 ở một người
bệnh sau khi bị một cơn ho dữ dội. Năm 1900 ca
tràn khí dưới da tự sinh xảy ra trên ở một người
lính thổi kèn thuộc hải quân sau khi anh ta nhổ
răng, khi thổi kèn hơi đã đi qua lỗ thủng ở chân
răng và gây phù mặt, nguyên nhân của tràn khí
dưới da tự sinh được làm rõ vào những năm
1939 – 1944 bởi Macklin, người đã có những
nghiên cứu về sinh lý bệnh của bệnh này(7,9,5).
Tràn khí ở phổi trung thất
(pneumomediastinum) được Laennec ghi nhận
trên bệnh nhân sau chấn thương vào năm 1819.
Biến chứng này có rất nhiều nguyên nhân và đã
được bác sĩ Louis Hamman năm 1939 mô tả kỹ ở
một phụ nữ sau khi sanh ở Bệnh viện Johns
Hopkins. Tràn khí trung thất đôi khi được gọi là
hội chứng Hamman, các nhà phẫu thuật lồng
ngực và chuyên khoa phổi gọi Hội chứng
Macklin(5).
Hội chứng Hamman là khi có tràn khí dưới
da vùng cổ ngực kèm theo có tràn khí ở phổi
trung thất (pneumomediastinum)
Nguyên nhân gây tràn khí
Tràn khí dưới da vùng cổ ngực có thể gặp ở
bệnh nhân các chuyên khoa nội ngoại sản hay
nhi và do rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây
nên. Có những nguyên nhân thuộc lĩnh vực tai
mũi họng (sau cắt amidan, rách niêm mạc thanh
– thực quản, nhiễm trùng(3,2), do chấn thương
(hỏa khí hay bạch khí, gãy xương sườn ), sau
một số can thiệp y khoa như gây mê, phẫu thuật
lồng ngực, phẫu thuật ổ bụng, mở khí quản v.v.
Do có sự thông thương trực tiếp từ trung
thất (hay sau phúc mạc) tới các mô mềm và dưới
da cổ ngực nên khí có thể di chuyển trực tiếp từ
trung thất đến dưới da (tổn thương của phổi
hay đường khí) theo các cân mạc.
Tràn khí dưới da tự phát được cho là hậu
quả tăng áp lực trong phổi gây nên vỡ các phế
nang. Trong trường hợp này khí đi từ các phế
nang bị vỡ vào khoảng mô kẽ và dọc theo các
mạch máu của phổi đến trung thất và từ đó theo
các cân đến dưới da vùng cổ ngực. Thực tê nếu
khí có nguồn gốc xuất phát từ cổ sẽ ít phát triển
hướng vào trung thất nhưng ngược lại, khí có
nguồn gốc từ phổi sẽ thường đi theo bao của
mạch máu vào trung thất và lan ra vùng dưới da
cổ mặt. Cơ chế trên đây giải thích mối quan hệ
tưởng chừng như thuộc về những lĩnh vực
chuyên khoa rất khác nhau giữa nguyên nhân
và biểu hiện lâm sàng nhưng thực chất là rất
phù hợp và lô gic của nhiều tình huống lâm
sàng(8,1,6).
Về lâm sàng, chúng tôi sử dụng cách phân
chia tùy theo vị trí hàng rào bảo vệ cơ thể bị tổn
thương:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 168
Phá vỡ hàng rào bảo vệ da
Phá vỡ hàng rào bảo vệ niêm mạc
Chấn thương áp lực vỡ phế nang.
Nhiễm trùng.
Cách phân chia này đơn giản, có hệ thống
giúp cho chúng tôi nhanh chóng tìm được
nguyên nhân và có hướng xử trí thích hợp trước
một ca bệnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
chấn thương (tổn thương hàng rào bảo vệ da và
niêm mạc) chiếm phần lớn nguyên nhân gây
tràn khí (25/31 ca). Nguyên nhân nhiễm trùng là
6/31 ca. Một số nguyên nhân đáng chú ý mà
chúng tôi trình bày gồm:
a. Vỡ thực quản: Nếu tràn khí dưới da ở 1
người bệnh trong tình trạng suy kiệt và sốt sau
khi ói mửa nhiều, tiếp theo là đau ngực bên trái
cần gợi ý nhiều đến hội chứng Boerhavee là vỡ
vùng xa của thực quản, có thể nguy hiểm tính
mạng người bệnh. Xác định chẩn đoán bằng
hình ảnh học, nội soi và nhanh chóng điều trị
phẫu thuật khâu chỗ thủng.
b. Rách thực quản do biểu diễn nuốt kiếm (3
ca): Diễn viên vội vàng các thao tác sẽ làm rách
niêm mạc thực quản gây tràn khí kèm theo
nhiễm trùng nặng lan rộng. Chúng tôi đề xuất
các đơn vị chức năng quản lý văn hóa nên cấm
biểu diễn trò này.
c. Sau chấn thương thanh khí quản: Một số
ca việc tìm ra vị trí rách của niêm mạc là rất khó
cho dù có nội soi hoặc các xét nghiệm chẩn
đoán hình ảnh khác.
Chẩn đoán lâm sàng
Các dấu hiệu và triệu chứng của tràn khí
dưới da vùng cổ ngực thường có dấu hiệu lâm
sàng điển hình:
- Da vùng cổ ngực phồng lên, sưng và viêm
tấy đỏ, sờ có cảm giác lép bép, lạo xạo. Bóng khí
thường ít đau và giống những nốt nhỏ. Nếu tràn
khí số lượng lớn mặt sẽ sưng nhiều, tràn khí
quanh vùng cổ sẽ làm người bệnh có cảm giác
nghẹn, giọng nói thay đổi, và thậm chí có thể
ảnh hưởng đến hô hấp. Nghe phổi có thể tháy
âm phế bào thay đổi.
Hình 1: Tràn khí dưới da (a: do chấn thương; b: do
nhiễm trùng)
- Tràn khí có thể lan rộng đến các vùng khác
của cơ thể như bụng, các chi, mông, bìu hay tới
đầu các chi dưới. Điều này cho thấy sự thông
thương liên tục của khoảng dưới da.
- Tràn khí có thể kèm theo rát họng, đau, khó
nuốt, một số trường hợp khó thở, khở rít thậm
chí suy hô hấp. Cần thận trọng khi triệu chứng
trên xảy ra ở những bệnh nhân sau khi nội soi
hay có can thiệp ở đường khí thực quản.
Các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng của
tràn khí tương đối đơn giản. Tuy nhiên, việc tìm
ra nguyên nhân hoặc theo dõi để phát hiện
những diễn tiến bất thường đe dọa tính mạng
người bệnh mới thật sự là quan trọng. Những
triệu chứng được chúng tôi cho rằng nguy hiểm
là:
Tràn khí tái phát và lan rộng nhanh.
Rối lọan thông khí.
Thay đổi về dấu hiệu sinh tồn (mạch, hô
hấp, nhiệt độ)
Có dấu hiệu chèn ép tim hay trung thất (tĩnh
mạch cổ nổi, sốt..)
Khí thũng màng phổi có dấu hiệu chèn ép
các cơ quan lân cận.
Vai trò của hình ảnh học
Hình ảnh học có vai trò trong việc khẳng
định chẩn đoán. Vấn đề đặt ra là chỉ định sử
dụng các phương tiện chẩn đoán sao cho kinh tế
và đạt hiệu quả cao.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 169
X quang phổi thẳng cho thấy hình ảnh khí
dưới dạng những dải sọc dọc theo cơ ngực lớn,
tuy nhiên hình ảnh có thể lẫn với một trường
hợp khí ở phổi. Một số tác giả cho rằng vẫn có
thể bỏ sót tổn thương vì có thể có tới 50% số ca
tràn khí trung thất mà không xác định được trên
phim tư thế thẳng(8,1). Chúng tôi cho rằng chụp
X quang có giá trị không chỉ trong chẩn đoán
mà còn có tác dụng trong việc theo vì có thể
chụp mỗi 1-2 ngày 1 lần thậm chí trong ngày
cũng có thể chụp nhiều lần nếu có chỉ định.
Phim X quang phổi thẳng cũng sẽ cho
phép thấy hình ảnh của tràn khí trung thất
(dấu hiệu Hamman) rất hay gặp trong sản
khoa. Hội chứng Hamman hay xảy ra ở
những sản phụ sinh con lần đầu, khoảng từ 3
tháng giữa thai kỳ, phim phổi thẳng cho thấy
hình ảnh khí ở trung thất viền dọc theo bóng
tim và cung động mạch chủ(8).
Có tác giả(8,7) cho rằng chụp X quang thực
quản họng có uống cản quang có giá trị trong
chẩn đoán những tổn thương ở họng thực quản,
thậm chí một số kíp phẫu thuật không cần CT
scan mà chỉ dựa vào chụp thực quản cản quang
và nội soi thực quản để quyết định cho việc
phẫu thuật.
Hình 2: Dấu hiệu Hamman
Chụp CT Scan ngực bụng rất có hiệu quả
trong việc khu trú nơi tổn thương và xuất phát
của khí như từ ổ gãy của xương sườn, xương
đòn v.v. Ngoài ra còn cho phép phát hiện
những tổn thương kín đáo khác như thủng các
tạng trong ổ bụng. Chúng tôi có 2 trường hợp
khó khăn trong chẩn đoán nên tiến hành chụp
CT scan toàn thân, kết quả chúng tôi đã phát
hiện được tràn khí từ một ca từ ổ gãy của xương
đòn và một ca từ ổ gãy xương sườn số 1 gây
thủng đỉnh phổi. Chúng tôi đề xuất những
trường hợp bệnh nhân bị đa chấn thương hoặc
tràn khí với diễn tiến bất thường thì nên chỉ
định chụp CT scan một cách hệ thống.
Hình 3: Hình ảnh tràn khí vùng cổ trên CT
Nội soi ống mềm đã thống nhất chỉ được
thực hiện khi đã có chỉ định cần can thiệp phẫu
thuật vì trong khi làm thủ thuật cần phải bơm
hơi vào thực quản và như vậy có khả năng dịch
trong đường tiêu hóa sẽ thoát ra và đi vào trung
thất, nội soi bằng ống cứng có thể cho phép thấy
tổn thương đồng thời. Qua nội soi chúng tôi đã
xác định chính xác được 12 ca có tổn thương ở
đường khí - thực quản. Nội soi có thể tiến hành
dưới gây tê tại chỗ nhưng tốt nhất là nên làm
dưới gây mê
Điều trị
Với một trường hợp tràn khí dưới da cổ
ngực tự phát nếu không có các diễn tiến bất
thường thì không cần các biện pháp điều trị gì
đặc biệt:
- Người bệnh nên nghỉ thoải mái dưới sự
theo dõi của y tế, tràn khí được theo dõi bằng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 170
cách dùng bút màu vẽ bờ của khu vực tràn khí
và so sánh theo từng khoảng thời gian..
- Tránh các động tác xì mũi mạnh, gắng sức
trong khi thanh môn đang đóng (táo bón), nếu
loại hoàn toàn khả năng rách thực quản thì
người bệnh có thể ăn uống đường miệng, chế dộ
ăn nên dùng các chất lỏng.
- Thuốc giảm đau, thuốc ho có thề sử
dụng trong một số trường hợp. Cho người
bệnh thở thêm oxy sẽ giúp cho cơ thể hấp thu
khí nhanh hơn.
- Kháng sinh dự phòng còn nhiều tranh luận
vì có khả năng làm che lấp các triệu chứng của
một tình trạng nhiễm trùng, nếu có chỉ định thì
chúng tôi thường dùng loại kháng sinh có hoạt
phổ rộng và trong thời gian thích hợp. Nếu có
tổn thương của niêm mạc đường tiêu hóa
(thủng họng, thủng thực quản) thì cần phải sử
dụng các kháng sinh mạnh phổ rộng
(Céphalosin, Quinolone và phối hợp với
Metronidasone).
Thực tế cho thấy nếu chỉ là một số lượng
nhỏ tràn khí dưới da thì cơ thể sẽ có khả năng
hấp thu hết sau 3 -7 ngày(9,5,4).
Trường hợp bệnh có những diễn tiến bất
thường như khí dưới da tăng lên hoặc tái phát
sau khi đã dẫn lưu sẽ dẫn đến nguy cơ chèn ép
đường hô hấp, sưng phù mi, giảm máu về các
phế nang gây thiếu máu ở phổi, ở tĩnh mạch
vùng xương cùng, xương chày nên dẫn đến khả
năng hoại tử ở các bộ phận này, lúc đó cần
nhanh chóng can thiệp dẫn lưu khí
Dẫn lưu khí có thể thực hiện bằng
Dùng kim chích ghim dưới da
Đặt ống dẫn lưu dưới da và có hút liên tục
Rạch lỗ trên bề mặt da.
Nếu khí thũng màng phổi thì cần dẫn lưu
màng phổi
Mở khí quản trong một số trường hợp có
kèm theo suy hô hấp
Việc ghim các kim chích dưới da để dẫn lưu
khí hay rạch các lỗ trên bề mặt da còn nhiều ý
kiến trái ngược (8,5,4) nhưng chúng tôi vẫn thường
xuyên sát trùng da sau đó ghim các kim chích
cho kết quả dẫn lưu khí rất tốt, chúng tôi không
rạch da vì lý do thẩm mỹ và nguy cơ nhiễm
trùng.
Nếu tràn khí dưới da sau mở khí quản thì
phải xem lại số của canule sử dụng thích hợp
hoặc nếu khâu da bề mặt chặt qúa thì có thể cắt
bớt vài mối chỉ cho khí thoát ra.
KẾT LUẬN
Tràn khí dưới da vùng cổ ngực thường được
biểu hiện bằng các dấu hiệu tương đối rõ ràng
khí tích tụ dưới da do rất nhiều nguyên nhân
gây nên, bệnh thường tự hết sau vài ngày mà
không cần những điều trị đặc biệt. Tuy nhiên,
khi có kèm theo các triệu chứng như đau ngực
hay khó thở, khó nuốt thì thày thuốc cần
nhanh chóng nhận biết, hỏi kỹ bệnh sử của
người bệnh và thăm khám tổng quát xác định
nguyên nhân và tiến triển của bệnh. Nguyên
nhân quan trọng nhất là tràn khí dưới da vùng
cổ trung thất do rách khí quản hay thực quản.
Chụp phim x quang và CT Scan cổ ngực là cần
thiết và có giá trị trong việc chẩn đoán bệnh
cũng như xác định chính xác vị trí các thương
tổn. Điều trị bảo tồn bằng cách dùng thuốc
kháng viêm, giảm đau, bù dịch, kháng sinh, Can
thiệp y khoa có thể là dẫn lưu khí, mở khí quản
v.v nhưng quan trọng nhất là có biện pháp theo
dõi để phát hiện kịp thời những biến chứng và
có hướng xử trí kịp thời
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 2 * 2012 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 171
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bodenez C; Houliat TH; Traissac L (2003). Emphyseme cervical
spontane: A propose 1 cas. Revue de Laryngol Otol Rhinol 2003;
124,3: 139-143.
2. Evelopp SE; Donat WE; Aisenberg R; Braman SS (1991).
Pneumatic chest wall compression. A cause of respiratory
fairlure from massive subcutaneous emphysema. Chest
1991Apr; 99(4): 1021-3.
3. Green RJ, Dafoe DC, Raffin TA. (1996). Necrotizing fasciitis.
Chest 1996;110:219-92.
4. Lopez Gonzalez MA; Cordero Raile T; Delgado Moreno F
(1977). Tracheostomy as a solution for subcutaneous
emphysema and pneumomediastinum with severe respiratory
fairlure. Acta Otorhinolaryngol. Esp 1977 nov- Dec; 48(8): 677-
681.
5. Maunder RJ; Pierson DJ; Hudson LD (1984): Subcutaneous and
Mediastinal emphysema- Pathophysiology, diagnosis and
menagement. Arch. Intern. Med 1984 July; 144: 1447-1452.
6. Miller WE; Spierkerman RE; Hepper NG. (1972).
Pneumomediastinum resulting from Valsava maneuvers during
marihuana smoking. Chest 1972 Aug; 62 (2) 233-234.
7. Miman MC; Ozturan O; Durmus M (2001). Cervical
subcutaneous emphysema: Ananual complication of
adenotonsilectomy. Pediatr Anesth 2001 Jul; 11(4); 491-493.
8. Nguyễn Công Minh (2005). Chấn thương ngực. Nhà xuất bản y
học 2005; 134 – 147.
9. Raymond LW (2000). Emphysema of the face, neck and
mediastinum from compressed gas barotra