Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ hạ phosphat máu ở các bệnh nhân có thông khí cơ học, và sự liên quan
giữa nồng độ phosphat máu và cai máy thất bại.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang, tiến cứu. 30 bệnh nhân có thông khí cơ học tại
Khoa Hồi sức tích cực‐ Chống độc (ICU Nội khoa), Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh –
từ tháng 01/2013 đến cuối tháng 05/2013, được định lượng phosphat máu vào ngày thứ 1, thứ 3 kể từ khi được
thông khí cơ học tại Khoa ICU và vào thời điểm cai máy thở.
Kết quả: 20% (6/30) bệnh nhân có Thông khí cơ học tại ICU Nội Khoa có hạ phosphat máu (<0,80 mmol/L)
trong ngày đầu và 33,3% (10/30 BN) ở ngày thứ 3 thông khí cơ học. Nồng độ phosphat máu N3 giảm so với N1
trung bình là 0,26 mmol/L. Ở thời điểm cai máy thành công (n = 15), nồng độ phosphat máu là 1,14 ± 0,28
mmol/L, trong khi các lần cai máy thất bại (n = 13), nồng độ phosphat máu trung bình là 0,96 ± 0,34 mmol/L (p
= 0,007).
Kết luận: Hạ phosphate máu, nếu không được điều chỉnh hoặc cung cấp bổ sung, sẽ gia tăng tỷ lệ mắc và
mức độ nặng của bệnh kể từ khi bệnh nhân được thông khí cơ học. Ở thời điểm cai máy thở thành công, nồng độ
phosphat máu cao hơn so với thời điểm cai máy thất bại.
5 trang |
Chia sẻ: thuyduongbt11 | Ngày: 13/06/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hạ phosphat máu ở bệnh nhân thông khí cơ học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 106
HẠ PHOSPHAT MÁU Ở BỆNH NHÂN THÔNG KHÍ CƠ HỌC
Huỳnh Văn Ân*, Ngô Văn Thành*, Phan Văn Phong*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỷ lệ hạ phosphat máu ở các bệnh nhân có thông khí cơ học, và sự liên quan
giữa nồng độ phosphat máu và cai máy thất bại.
Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: mô tả, cắt ngang, tiến cứu. 30 bệnh nhân có thông khí cơ học tại
Khoa Hồi sức tích cực‐ Chống độc (ICU Nội khoa), Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, Thành phố Hồ Chí Minh –
từ tháng 01/2013 đến cuối tháng 05/2013, được định lượng phosphat máu vào ngày thứ 1, thứ 3 kể từ khi được
thông khí cơ học tại Khoa ICU và vào thời điểm cai máy thở.
Kết quả: 20% (6/30) bệnh nhân có Thông khí cơ học tại ICU Nội Khoa có hạ phosphat máu (<0,80 mmol/L)
trong ngày đầu và 33,3% (10/30 BN) ở ngày thứ 3 thông khí cơ học. Nồng độ phosphat máu N3 giảm so với N1
trung bình là 0,26 mmol/L. Ở thời điểm cai máy thành công (n = 15), nồng độ phosphat máu là 1,14 ± 0,28
mmol/L, trong khi các lần cai máy thất bại (n = 13), nồng độ phosphat máu trung bình là 0,96 ± 0,34 mmol/L (p
= 0,007).
Kết luận: Hạ phosphate máu, nếu không được điều chỉnh hoặc cung cấp bổ sung, sẽ gia tăng tỷ lệ mắc và
mức độ nặng của bệnh kể từ khi bệnh nhân được thông khí cơ học. Ở thời điểm cai máy thở thành công, nồng độ
phosphat máu cao hơn so với thời điểm cai máy thất bại.
Từ khóa: Hạ Phosphat máu, Thông khí cơ học
ABSTRACT
HYPOPHOSPHATEMIA IN PATIENTS WITH MECHANICAL VENTILATION
Huynh Van An, Ngo Van Thanh, Phan Van Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 105 ‐ 109
Purpose: Explore the ratio of Hypophosphatemia in patients with mechanical ventilation and analyse the
relation between hypophosphatemia and the unsuccessful withdrawal of mechanical ventilation.
Materials and method: Descriptive, cross sectional and prospective study. 30 patients with mechanical
ventilation in Intensive Care Unit (Medical ICU) of Nhan Dan Gia Dinh Hospital, HCMC from Jan, 2013 until
end of May, 2013 were quantitative tested the serum Phosphate on the 1st, the 3rd days of ventilation in ICU and
on the mechanical ventilation withdrawal day.
Results: 20% (6/30) mechanically ventilated patients in Medical ICU got the Hypophosphatemia (<0.80
mmol/L) on the 1st day and 33.3% (10/30 patients) on the 3rd day of mechanical ventilation. Serum phosphate on
the 3rd day was lower than that of the 1st day 0.26 mmol/L, averagely. In the successful withdrawals of mechanical
ventilation (n=15), the serum phosphate were 1.14 ± 0.28 mmol/L vs 0.96 ± 0.34 mmol/L in failed withdrawal
cases (n=13) (p = 0.007).
Conclusion: Hypophosphatemia, if is not properly adjusted, will increase both of incidence and severity
when the patients start the mechanical ventilation. The serum phosphate was higher in succesful withdrawal of
mechanical ventilation than that in unsuscefful withdrawal cases.
Key words: Hypophosphatemia, Mechanical ventilation.
Khoa Hồi sức tích cực – Chống độc BV. Nhân Dân Gia Định
Tác giả liên hệ: ThS.BS. Huỳnh Văn Ân, ĐT: 0918674258 Email: anhuynh124@yahoo.com.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 107
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hàm lượng phosphat hoặc phospho máu ở
người trưởng thành, bình thường từ 2,5 ‐ 4,5
mg/dL (0,81 ‐ 1,45 mmol/L). Duy trì nồng độ
phosphat máu bình thường là vấn đề sống còn
đối với chức năng tế bào(2).
Dù hiếm gặp ở cộng đồng, hạ phosphat máu
thường gặp ở bệnh nhân khoa Hồi sức tích cực ‐
Chống độc (ICU) như nhiễm trùng, bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính
Hạ phosphat máu xảy ra ở khoảng 2,2 ‐ 3,1%
bệnh nhân nhập viện và 28 ‐ 33% bệnh nhân
nhập ICU(4,13). Nghiên cứu của Hoffmann tại
Nam Phi (2008) cho thấy rằng 45% các trường
hợp hạ phosphat máu trong bệnh viện xảy ra
trên bệnh nhân ICU(10).
Tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định chúng tôi
(2013), tần suất hạ phosphat máu ở các bệnh
nhân ICU Nội khoa là 31,97%(11).
Hạ phosphat máu có thể gây suy hô hấp(2).
Hạ phosphat máu cũng làm suy yếu sức co cơ
hoành trong lúc suy hô hấp(2,3). Tuy vậy, hạ
phosphat máu lại ít được quan tâm chẩn đoán
và điều trị, trong bối cảnh bệnh nhân có nhiều
bệnh nặng, phối hợp, đặc biệt là các bệnh nhân
có thông khí cơ học.
Hạ phosphat máu gặp trong 21,5% các
trường hợp suy hô hấp; mức độ hạ phosphat
máu không tương ứng với mức độ nặng của suy
hô hấp(2,6).
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đoàn
hệ tiền cứu nhằm đánh giá tỷ lệ hạ phosphat
máu ở các bệnh nhân có thông khí cơ học điều
trị tại Khoa Hồi sức tích cực ‐ Chống độc và sự
liên quan giữa nồng độ phosphat máu và cai
máy thất bại.
Mục tiêu nghiên cứu.
Khảo sát tỷ lệ hạ phosphat máu ở các bệnh
nhân có thông khí cơ học điều trị tại Khoa Hồi
sức tích cực ‐ Chống độc và sự liên quan giữa
nồng độ phosphat máu và cai máy thất bại.
ĐỐI TƯỢNG VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, tiến cứu.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Các bệnh nhân có thông khí cơ học điều trị
tại Khoa Hồi sức tích cực ‐ Chống độc, Bệnh viện
Nhân dân Gia Định thời gian từ đầu tháng
01/2013 đến cuối tháng 5/2013 (5 tháng).
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có suy thận mạn hoặc bệnh lý
tuyến cận giáp.
Tiến hành
Bệnh nhân được định lượng phosphat máu
vào ngày N1 và N3 từ khi thông khí cơ học và ở
thời điểm cai máy thở.
Ghi nhận các bệnh lý gây suy hô hấp phải
thông khí cơ học của bệnh nhân.
Ghi nhận tỷ lệ và mức độ nặng của hạ
phosphat máu ở bệnh nhân có thông khí cơ học.
Tìm hiểu sự liên quan giữa nồng độ
phosphat máu và cai máy thành công hoặc thất
bại.
KẾT QUẢ
Sau 5 tháng nghiên cứu, chúng tôi thu thập
được 30 bệnh nhân (BN), gồm 12 nam, 18 nữ.
Đặc tính dân số học.
Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 71,3 ± 18,9. Trẻ nhất là 23 và lớn
tuổi nhất là 96. Tỷ lệ nam:nữ là 1:1,5.
Đặc điểm bệnh học
Chỉ định thông khí cơ học
Bảng 1: Chỉ định thông khí cơ học
N = 30 (100%)
Viêm phổi 20 (66,7%)
Ngừng tim 5 (16,7%)
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) 4 (13,3%)
Nhiễm khuẩn huyết 1 (3,3%)
Chỉ định thông khí cơ học do viêm phổi
chiếm tỷ lệ 66,7% (20/30 BN).
Nồng độ phosphat máu trong 24 giờ đầu
thông khí cơ học (N1) là 1,33 ± 0,71 mmol/L.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 108
Tỷ lệ hạ phosphat máu trong 24 giờ đầu
thông khí cơ học là 20% (6/30 BN).
Bảng 2: Mức độ hạ phosphat máu trong 24 giờ đầu
thông khí cơ học
Hạ Phosphat máu N1 N = 6 Tỷ lệ
Mức độ nhẹ: 0,65 - < 0,80 mmol/L 2 33,3%
Mức độ vừa: 0,32 - < 0,65 mmol/L 4 66,7%
Mức độ nặng: < 0,32 mmol/L 0 0%
Hạ Phosphat máu trong 24 giờ đầu Thông
khí cơ học ở mức độ vừa (66,7%) và nhẹ (33,3%).
Nồng độ Phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông
khí cơ học (N3) là 1,07 ± 0,58 mmol/L.
Tỷ lệ Hạ Phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông
khí cơ học là 33,3% (10/30 BN)
Bảng 3: Mức độ hạ phosphat máu ở ngày thứ 3
thông khí cơ học
Hạ Phosphat máu N3 N = 10 Tỷ lệ
Mức độ nhẹ: 0,65 - < 0,80 mmol/L 4 40%
Mức độ vừa: 0,32 - < 0,65 mmol/L 5 50%
Mức độ nặng: < 0,32 mmol/L 1 10%
Hạ phosphat máu ở ngày thứ 3 Thông khí cơ
học đa số mức độ vừa (50%) và nhẹ (40%). Có 1
trường hợp hạ phosphat máu nặng.
So sánh kết quả phosphat máu ở thời điểm
N1 và N3
Bảng 4: So sánh kết quả phosphat máu ở thời điểm
N1 và N3 của từng bệnh nhân
Sự khác biệt
N = 30 tối thiểu trung bình tối đa
Phosphat N1 <
Phosphat N3 9 -1,07 -0,31 -0,02
Phosphat N1 >
Phosphat N3 21 0,08 0,50 1,6
30 -1,07 0,26 1,6
70% bệnh nhân (21/30 BN) có nồng độ
phosphat máu N3 so với N1 Thông khí cơ học
giảm trung bình 0,5 mmol/L.
Nồng độ phosphat máu N3 của cả nhóm
nghiên cứu giảm so với N1 Thông khí cơ học
trung bình là 0,26 mmol/L.
Nồng độ phosphat máu ở thời điểm cai
máy thở.
Trong nghiên cứu, có 15 lần cai máy thành
công và 13 lần thất bại.
Bảng 5: Nồng độ phosphat máu ở thời điểm cai máy
thở
n Nồng độ Phosphat máu
Cai máy thành công 15 1,14 ± 0,28 mmol/L *
Cai máy thất bại 13 0,96 ± 0,34 mmol/L *
* p = 0,007
BÀN LUẬN
Hạ phosphat máu được định nghĩa là nhẹ (2
‐ < 2,5 mg/dL, hoặc 0,65 ‐ < 0,81 mmol/L), vừa (1
‐ < 2 mg/dL, hoặc 0,32 ‐ < 0,65 mmol/L), nặng (< 1
mg/dL, hoặc < 0,32 mmol/L)(7,8,10,12,13).
Hạ phosphat máu có thể gây suy hô hấp. Ở
hầu hết bệnh nhân có hạ phosphat máu, phát
hiện có tình trạng yếu cơ hô hấp (được định
nghĩa như áp lực hít vào tối đa thấp hoặc áp lực
thở ra tối đa thấp), mà tình trạng này không có ở
bệnh nhân có phosphat máu bình thường. Sức
mạnh của cơ hô hấp cải thiện sau bù phosphat(2).
Có sự liên quan giữa giảm áp lực hít vào tối đa
và mức độ nặng của hạ phosphat máu(2,9). Hạ
phosphat máu cũng làm suy yếu sức co cơ
hoành trong lúc suy hô hấp(2,3).
Hạ phosphat máu gặp trong 21,5% các
trường hợp suy hô hấp; mức độ hạ phosphat
máu không tương ứng với mức độ nặng của suy
hô hấp(2,6).
Viêm phổi là nguyên nhân chủ yếu để
chúng tôi chỉ định thông khí cơ học với tỷ lệ
66,7% (20/30 bệnh nhân), kế đến là ngừng tim
16,7% (5/30 bệnh nhân), bệnh phổi tắc nghẽn
mạn tính 13,3% (4/30 bệnh nhân). Trong
nghiên cứu của Alsumrain, chỉ định thông khí
cơ học là nhiễm trùng huyết (21‐25%), bảo vệ
đường thở (13‐21%), viêm phổi (12‐14%), bệnh
phổi tắc nghẽn mạn tính (10‐14%), suy tim (7‐
15%), ngừng tim (2‐14%)(1).
Trong nghiên cứu trước đây, nhóm bệnh
nhân hạ phosphat máu tại Khoa ICU Bệnh viện
Nhân dân Gia Định chúng tôi có tỷ lệ thông khí
cơ học là 53,74%, tình trạng nhiễm trùng có ở
70,75% bệnh nhân, trong đó chủ yếu là nhiễm
trùng hô hấp(11).
Tỷ lệ hạ phosphat máu trong 24 giờ đầu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 109
thông khí cơ học trong nghiên cứu là 20%, tỷ lệ
này là 33,3% vào ngày thứ 3 được thông khí hổ
trợ. Trong khi đó, tại Vellore (Ấn Độ), nghiên
cứu 28 bệnh nhân được thông khí cơ học trong
vòng 24‐36 giờ tại ICU ghi nhận 43% bệnh nhân
có hạ phosphat máu, những bệnh nhân này có
tình trạng hạ thấp ngưỡng thận đối với phospho
(p = 0,005) và tiểu phosphat không thích hợp(16).
Chúng tôi ghi nhận nồng độ phosphat máu
giảm theo thời gian thông khí cơ học. Nồng độ
phosphat máu trong 24 giờ đầu thông khí cơ học
(N1) là 1,33 ± 0,71 mmol/L, ở ngày thứ 3 thông
khí cơ học (N3) là 1,07 ± 0,58 mmol/L. 70% bệnh
nhân (21/30 BN) có nồng độ phosphat máu N3
giảm trung bình 0,5 mmol/L so với ngày 1 thông
khí cơ học. Nồng độ phosphat máu N3 của
nhóm 30 bệnh nhân nghiên cứu giảm so với N1
trung bình là 0,26 mmol/L.
Thông khí dài ngày nếu không bù
phosphat thì nồng độ phosphat của bệnh nhân
giảm dần, dẫn đến tỷ lệ hạ phosphate máu ở
ngày thứ 1 từ 20% tăng lên 33,3% ở ngày thứ 3
thông khí cơ học.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hạ
phosphat máu trong 24 giờ đầu thông khí cơ
học chỉ ở mức độ vừa (66,7%) và nhẹ (33,3%).
Đến ngày thứ 3 thông khí cơ học, hạ phosphat
máu thường ở mức độ vừa (50%) và nhẹ
(40%), nhưng có 1 trường hợp hạ phosphat
máu nặng (10%).
Hạ phosphat máu mức độ từ nhẹ tới vừa
thường không có triệu chứng. Những bất
thường lâm sàng nghiêm trọng thường chỉ xảy
ra trong hạ phosphat máu nặng(8). Ở nhóm bệnh
nhân nhập viện, tần suất hạ phosphat máu mức
độ vừa từ 2,2 đến 3,1%, và tần suất hạ phosphat
máu mức độ nặng là 0,2 đến 0,4%(5). Trong
nghiên cứu của chúng tôi trước đây (2013) trên
bệnh nhân ICU Nội khoa thì phần lớn là hạ
phosphat máu mức độ từ vừa (61,70%) tới nhẹ
(31,17%), chỉ ghi nhận 1 trường hợp hạ
phosphate máu mức độ nặng (2,13%)(11).
Chúng tôi ghi nhận mức độ nặng của hạ
phosphat máu cũng tăng theo thời gian thông
khí cơ học, số trường hợp hạ phosphat máu mức
độ vừa và nhẹ ở ngày thứ 3 gia tăng hơn ngày
đầu thông khí. Ghi nhận 1 trường hợp hạ
phosphat máu mức độ nặng (phosphat máu 0,18
mmol/L) sau 3 ngày thông khí, trường hợp này
khi mới bắt đầu thông khí có phosphat máu 0,64
mmol/L, tuy ở mức độ vừa nhưng giáp ranh với
mức độ nhẹ.
Laaban và cộng sự (Pháp) nghiên cứu 14
bệnh nhân COPD có thông khí cơ học, ghi nhận
phosphat máu giảm có ý nghĩa (p < 0,001) khi
thông khí cơ học ở giờ thứ 1, 4, 7, 12 và 24. Hạ
phosphat máu có ở tất cả bệnh nhân thông khí
cơ học, nhưng giảm nặng (< 0,3 mmol/L) chỉ ở 2
bệnh nhân. Có sự liên quan có ý nghĩa (r = 0,56;
p < 0,01) giảm phosphat và tăng pH khi thông
khí cơ học(14). Makhoul và cộng sự (Israel)
nghiên cứu 48 bệnh nhân COPD có thông khí cơ
học, 10% có phosphat máu thấp từ nhẹ tới vừa,
8% có phosphat máu rất thấp. Suy hô hấp có ở
76,5% bệnh nhân có phosphat máu thấp và ở
15,6% bệnh nhân có phosphat máu bình thường;
nguy cơ suy hô hấp cao gấp 5 lần ở bệnh nhân
có phosphat máu thấp. Nồng độ phospho máu
thấp góp phần làm gia tăng mức độ nặng của
đợt cấp COPD và cần phải thông khí hổ trợ(15).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ
phosphat máu ở thời điểm cai máy thành công
(n = 15) là 1,14 ± 0,28 mmol/L so với nồng độ
phosphat máu ở thời điểm cai máy thất bại (n =
13) là 0,96 ± 0,34 mmol/L (p = 0,007).
Nghiên cứu của Alsumrain và cộng sự tại
New Jersey (Mỹ, 2010) khảo sát sự kết hợp giữa
hạ phosphat máu và cai máy thở thất bại ở 2
Khoa ICU Nội khoa với 66 bệnh nhân và 193 lần
cai máy thở ở những bệnh nhân này, mà cuối
cùng tất cả đều cai máy thành công. Ở thời điểm
cai máy thành công (n = 66), nồng độ phosphat
máu là 1,18 ± 0,27 mmol/L, trong khi tất cả các
lần cai máy thất bại (n = 127), nồng độ phosphat
máu trung bình là 1,06 ± 0,31 mmol/L (p = 0,008).
Bệnh nhân có nồng độ phosphat máu thấp (<
0,80 mmol/L) có nguy cơ cai máy thở thất bại
cao hơn bệnh nhân có nồng độ phosphat máu
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013 110
bình thường hoặc cao (RR = 1,18; 95% CI = 1,06 ‐
1,32; p = 0,01). Nghiên cứu này cho thấy có sự
kết hợp giữa hạ phosphat máu và cai‐máy‐thất‐
bại ở bệnh nhân ICU có thông khí hổ trợ(1).
KẾT LUẬN
Hạ phosphate máu, nếu không được điều
chỉnh hoặc cung cấp bổ sung, sẽ gia tăng về tỷ lệ
mắc và mức độ nặng của bệnh kể từ khi bệnh
nhân được thông khí cơ học.
Ở thời điểm cai máy thở thành công, nồng
độ phosphat máu cao hơn so với thời điểm cai
máy thất bại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alsumrain MH, Jawad SA, Imran NB, Riar S, DeBari VA,
Adelman M (2010). Association of hypophosphatemia with
failure‐to‐wean from mechanical ventilation. Ann Clin Lab Sci.
2010 Spring;40(2):144‐8.
2. Amanzadeh J, Reilly RF, Jr (2006). Hypophosphatemia: an
evidence‐based approach to its clinical consequences and
management. Nat Clin Pract Nephrol 2006;2:136‐48.
3. Aubier M et al (1985). Effect of hypophosphatemia on
diaphragmatic contractility in patients with acute respiratory
failure. N Engl J Med 313: 420‐4.
4. Brunelli SM, Goldfarb S (2007). Hypophosphatemia: Clinical
Consequences and Management. J Am Soc Nephrol 2007,
18:1999‐2003.
5. Camp MA, Allon M (1990). Severe hypophosphatemia in
hospitalized patients. Miner Electrolyte Metab 1990, 16:365‐8.
6. Fiaccadori E et al (1994). Hypophosphatemia and phosphorus
depletion in respiratory and peripheral muscles of patients with
respiratory failure due to COPD. Chest 105: 1392‐8.
7. Gaasbeek A, Meinders AE (2005). Hypophosphatemia: an
update on its etiology and treatment. Am J Med 2005; 118:1094‐
101.
8. Geerse DA, Bindels AJ, Kuiper MA, Roos AN, Spronk PE,
Schultz, MJ (2010). Treatment of hypophosphatemia in the
intensive care unit: a review. Critical Care 2010, 14:R147.
9. Gravelyn TR et al (1988). Hypophosphatemia‐associated
respiratory muscle weakness in a general inpatient population.
Am J Med 84: 870‐6.
10. Hoffmann M, Zemlin AE, Meyer WP, Erasmus RT (2008).
Hypophosphataemia at a large academic hospital in South
Africa. J Clin Pathol 2008, 61:1104‐7.
11. Huỳnh Văn Ân, Phan Văn Phong, Phạm Thái Thiện (2013). Hạ
Phosphat máu ở bệnh nhân ICU Nội khoa. Hội Nghị Khoa Học
Kỹ Thuật Đại Học Y Dược TP. HCM lần thứ 30 ‐ 11/01/2013. Y
Học TP. Hồ Chí Minh, Tập 17, Phụ bản của Số 1, 2013, 268‐70.
12. Knochel JP (1985). The clinical status of hypophosphatemia: an
update. N Engl J Med 1985; 313:447‐9.
13. Kruse JA, Al‐Douahji M, Carlson RW (1992).
Hypophosphatemia in critically ill patients: incidence and
associations. Crit Care Med 1992, 20:S104.
14. Laaban JP, Grateau G, Psychoyos I, Laromiguière M, Vuong
TK, Rochemaure J (1989). Hypophosphatemia induced by
mechanical ventilation in patients with chronic obstructive
pulmonary disease. Crit Care Med. 1989 Nov;17(11):1115‐20.
15. Makhoul N, R Farah, L Jacobson (2011). Hypophosphatemia as
a prognostic value in acute exacerbation of COPD. Presented at
31st International Symposium on Intensive Care and Emergency
Medicine ISICEM 2011, 20‐23 Mar 2011, P369. F1000 Posters
2011, 2: 284 (poster)
16. Srinivasagam D, Seshadri MS, Peter JV, Cherian AM, Charles D,
Kanagasabapathy AS (1992). Prevalence & pathogenesis of
hypophosphatemia in ventilated patients. Indian J Med Res. 1992
Apr;96:87‐90.
Ngày nhận bài báo: 15/8/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/8/2013
Ngày bài báo được đăng: 10/12/2013