Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 277
HIỆU QUẢ BẢO VỆ CƠ TIM CỦA SEVOFLURANE 
TRONG PHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH VÀNH 
Hồ Thị Xuân Nga*, Nguyễn Thị Qúy*, Hoàng Anh Khôi* 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả bảo vệ cơ tim của sevoflurane trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành 
(BCĐMV) dựa trên sự thay đổi của men tim, thuốc tăng co bóp cơ tim (TCBCT), tỉ lệ bệnh nhân bị sốc điện sau 
tháo kẹp động mạch chủ, sự ổn định của huyết động trong và sau mổ, kết quả phẫu thuật ngắn hạn trong vòng 30 
ngày sau mổ. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp tiền cứu từ 3/2010 đến 5/2011 tại Viện 
Tim Thành Phố Hồ Chí Minh. Nhóm nghiên cứu gồm 64 bệnh nhân được chia làm hai nhóm, 34 bệnh nhân ở 
nhóm sevoflurane, 30 bệnh nhân nhóm propofol, được lựa chọn ngẫu nhiên phương pháp gây mê theo phương 
pháp chuyển vị nhóm ngẫu nhiên phân tầng theo nhóm nguy cơ nhồi máu cơ tim. 
Kết quả: Các đặc điểm về gây mê hồi sức và phẫu thuật đều tương đồng nhau ở hai nhóm bệnh nhân. Đặc 
điểm về hiệu quả bảo vệ cơ tim, nhóm sevoflurane có tỉ lệ sốc điện sau khi tháo kẹp động mạch chủ là 5,9% so với 
nhóm propofol 43,3% (p = 0,001). Tỉ lệ sử dụng thuốc dãn mạch của nhóm sevoflurane trong mổ là 20,6% so với 
nhóm propofol 56,7% (p= 0,003). Tỉ lệ sử dụng thuốc tăng co bóp cơ tim là 46,7% so với nhóm propofol 70,6% 
(p= 0,05). Sau mổ, các thuốc dãn mạch và co mạch được sử dụng ở phòng hồi sức cũng ít hơn ở nhóm 
sevoflurane: dãn mạch 14,3% so với 48,3% ở nhóm propofol (p= 0,02), co mạch 20% so với 31% nhóm propofol 
(p= 0,05). Tuy nhiên, giữa hai nhóm không có sự khác biệt nhau về sự thay đổi của men tim troponin I và CK-
MB cũng như các đặc điểm về thời gian rút nội khí quản, thời gian nằm hồi sức, thời gian nằm viện, các biến 
chứng và tỉ lệ tử vong sau mổ. 
Kết luận: Nhóm bệnh nhân sevoflurane có huyết động ổn định hơn nhóm propofol, hiệu quả bảo vệ cơ tim 
trên nhóm bệnh nhân sử dụng sevoflurane được thể hiện rõ nét qua sự giảm tỉ lệ sử dụng TCBCT và thuốc vận 
mạch trong và sau mổ. Tuy nhiên không có sự khác biệt nhau về kết quả phẫu thuật ngắn hạn trong vòng 30 
ngày sau mổ giữa 2 nhóm bệnh nhân. 
Từ khóa:Sevoflurane, bảo vệ cơ tim, phẫu thuật bắc cầu mạch vành 
ABSTRACT 
EVALUATION OF CARDIOPROTECTIVE EFFECTS OF SEVOFLURANE IN PATIENTS 
UNDERGOING CORONARY ARTERY BYPASS GRAFS. 
Ho Thi Xuan Nga, Nguyen Thi Quy, Hoang Anh Khoi 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 1 - 2012: 277 - 283 
Objective: To evaluate cardioprotective effects of sevoflurane in patients undergoing coronary artery bypass 
grafs 
Design: prospective, randomized, controlled. 
Setting: uni- institution 
Participants: 64 patients undergoing CABG were included in the study. 34 patients were randomized to 
receive sevoflurane, 30 patients served as controls. 
 Viện Tim TP.HCM 
Tác giả liên lạc: Ths. Hồ Thị Xuân Nga, ĐT:0946460064, Email: 
[email protected], 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 278
Interventions: Target control infusion anesthesia was provided for both study and control groups by 
infusion propofol, sufentanil and rocuronium. Sevoflurane 1-2% was added after induction phrase in the 
experimental group. 
Results: sevoflurane were associated with significant reductions of positive inotropic drugs 46,7% versus 
70,6% in the propofol group (p= 0,05). And vasodilatators were used 20,6% versus 56,7% (p=0,003) in control 
groups, vasocontrictors were used 20% versus 31% (p= 0,05). 
Conclusions: sevoflurane decreases the rate of positive inotropic drugs. Patients in the experimental group 
have a hemodynamic stability than the control group. However, there are not different between two group about 
the changing biochemical markers and outcomes after cardiac surgery. 
Key words: coronary artery bypass grafs, cardioprotective effects, positive inotropic drugs, myocardial 
infractus, cardio-pulmonary bypass. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu thuật BCĐMV là một loại phẫu thuật 
lớn với những biến chứng hậu phẫu nặng nề và 
phức tạp như thiếu máu cơ tim (TMCT), nhồi 
máu cơ tim (NMCT), làm gia tăng tỉ lệ tử vong 
sau mổ, ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí chăm 
sóc y tế. Bảo vệ cơ tim tốt trong lúc phẫu thuật 
là vấn đề hết sức quan trọng, đòi hỏi sự phối 
hợp của 3 yếu tố: gây mê hồi sức, phẫu thuật và 
tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT). Mục đích 
nghiên cứu của chúng tôi là đánh giá hiệu quả 
bảo vệ cơ tim của sevoflurane trong phẫu thuật 
bắc cầu động mạch vành (BCĐMV) dựa trên sự 
thay đổi của men tim, thuốc tăng co bóp cơ tim 
(TCBCT), tỉ lệ bệnh nhân bị sốc điện sau tháo 
kẹp động mạch chủ, sự ổn định của huyết động 
trong và sau mổ, kết quả phẫu thuật ngắn hạn 
trong vòng 30 ngày sau mổ. 
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Nghiên cứu can thiệp tiền cứu, chọn mẫu 
ngẫu nhiên. Đối tượng nghiên cứu: tất cả bệnh 
nhân mổ chương trình, có chỉ định phẫu thuật 
BCĐMV có tuổi từ 30 đến 80, ASA từ I đến IV, 
NYHA từ I đến IV, có bệnh lý hẹp một hay 
nhiều nhánh động mạch vành nặng hoặc trung 
bình, có thể kèm theo bệnh lý hở van hai lá do 
đứt dây chằng là biến chứng thường gặp trong 
quá trình thiếu máu cơ tim trước đó. Hoặc bệnh 
nhân có kèm các bệnh lý về van động mạch chủ 
bẩm sinh hay hậu thấp từ tháng 3/2010 đến 
tháng 5/2011 tại Viện Tim Thành Phố Hồ Chí 
Minh. Bệnh nhân được đánh giá trước mổ để 
phát hiện các bệnh lý đi kèm như nhồi máu cơ 
tim trước mổ, đái tháo đường, cao huyết áp, suy 
thận mạn, rối loạn chuyển hóa lipid, bệnh phổi. 
Đánh giá mạch vành trước mổ, các xét nghiệm 
về đông cầm máu. 
Phương pháp gây mê 
Tại phòng mổ, bệnh nhân được đặt catheter 
huyết áp động mạch xâm lấn, nối với máy 
Flotrac để theo dõi chỉ số tim (CI) và kháng lực 
mạch hệ thống (SVR) liên tục. Đặt catheter đo áp 
lực tĩnh mạch trung ương và 1-2 catheter tĩnh 
mạch ngoại vi. Các phương tiện kiểm báo gồm: 
ECG 5 điện cực, huyết áp xâm lấn, độ bảo hòa 
oxy mạch nẩy, thán đồ, thông tiểu. Phương 
pháp vô cảm là gây mê toàn thể với thuốc mê 
tĩnh mạch qua máy TCI (target control infusion), 
đặt nội khí quản để duy trì thông khí kiểm soát. 
Nồng độ thuốc mê ở não ban đầu là 0,25-0,3 
ng/ml cho sufentanil, 2-3 µg/ml cho propofol, 
sau khi bệnh nhân mất tri giác, tiêm tĩnh mạch 
rocuronium liều 1mg/kg và đặt nội khí quản 1 
phút sau đó. Hai nhóm bệnh nhân được duy trì 
mê theo hai cách khác nhau: 
Nhóm propofol: duy trì mê suốt cuộc mổ 
với thuốc mê tĩnh mạch propofol 2,0-3,0 µg/ml 
và sufentanil 0,25-0,3 ng/ml, rocuronium 0,3-0,6 
mg/kg/phút. 
Nhóm sevoflurane: duy trì mê với nồng độ 
sevoflurane từ 1-2% ngay sau khi hoàn tất việc 
đặt nội khí quản kết hợp với TCI sufentanil 
nồng độ não từ 0,2-0,4 ng/ml. Thời điểm bắt đầu 
sử dụng sevoflurane từ ngay sau khi đặt nội khí 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 279
quản cho đến hết cuộc mổ, rocuronium 0,3-0,6 
mg/kg/phút. 
Trong mổ, bệnh nhân được tiêm heparin liều 
3mg/kg, kiểm tra ACT >400 giây thì cho phép 
bắt đầu THNCT. Trong lúc này, bệnh nhân được 
duy trì mê bằng sevoflurane qua hệ thống bình 
bốc hơi nối với máy THNCT cho đến khi bệnh 
nhân được thở máy trở lại thì tiếp tục duy trì 
sevoflurane qua máy thở. 
Sau mổ, bệnh nhân được trung hòa heparin 
bằng protamin theo tỉ lệ 1:1, được điều chỉnh các 
thông số huyết động, Hct, ion đồ và các yếu tố 
đông máu khi có chỉ định. Thuốc vận mạch và 
thuốc TCBCT được cho dựa trên cây quyết định 
như sau: 
Tại phòng hồi sức, bệnh nhân sẽ được theo 
dõi về hô hấp, men tim, huyết áp, mạch, CI, 
SVR, CVP mỗi 4 giờ trong 24 giờ đầu tiên, ECG, 
các biến chứng như TMCT, NMCT trong thời 
gian nằm tại hồi sức và các ngày nằm viện sau 
đó cũng được ghi nhận. Tiêu chuẩn chẩn đoán 
NMCT sau mổ(15) : 
Men tim tăng cao gấp 5 lần giá trị bình 
thường trong 72 giờ đầu theo dõi 
Xuất hiện sóng Q mới 
Bloc nhánh trái 
Chụp mạch vành thấy tắc nghẽn cầu nối 
hoặc tắc nghẽn động mạch vành nguyên thủy. 
Phân tích và xử lý số liệu 
Thống kê phân tích được thực hiện bằng 
phần mềm SPSS 11.5. Kết quả được diễn tả dưới 
dạng trị số trung bình ± độ lệch chuẩn (nếu biến 
có phân phối bình thường) hoặc trung vị (nhỏ 
nhất, lớn nhất) nếu biến không có phân phối 
bình thường. Tính tần suất và tỉ lệ % cho các 
biến định tính, so sánh các biến liên tục bằng 
phép kiểm t hoặc phép kiểm Mann-Whitney. So 
sánh tỉ lệ bằng phép kiểm Fisher. Các trị số 
huyết động thay đổi theo thời gian trong từng 
nhóm được so sánh với phép kiểm ANOVA đo 
lường lập lại. Trị số p < 0,05 được xem là có ý 
nghĩa về mặt thống kê. 
KẾT QUẢ 
Nhóm nghiên cứu gồm 64 trường hợp (TH) 
phẫu thuật BCĐMV tại Viện Tim Thành Phố Hồ 
Chí Minh: 34 TH gây mê với sevoflurane phối 
hợp với sufentanil và 30 TH gây mê với 
propofol phối hợp với sufentanil. 
Đặc điểm về gây mê hồi sức 
Cả hai nhóm không khác biệt nhau về các 
đặc điểm tuổi, giới, BMI, ASA, NYHA, 
EUROSCORE, các bệnh lý đi kèm cũng như các 
đặc điểm cận lâm sàng và lượng thuốc dãn cơ 
rocuronium, thuốc sufentanil sử dụng trong 
suốt cuộc mổ. 
Đặc điểm của bệnh nhân trong lúc phẫu 
thuật 
Bảng 1: So sánh đặc điểm trong mổ của 2 nhóm 
Đặc điểm Nhóm propofol Nhóm 
sevoflurane 
p 
Thời gian mổ 
(phút) 
281,43±44,94 275±60 0,66 
Thời gian 
THNCT (phút) 
124,17±20,38 128,58±26,64 0,47 
Thời gian kẹp 
ĐMC(phút) 
74,55±18,23 71,15±18,36 0,47 
Tỉ lệ hạ thân 
nhiệt (%) 
93,3% 91,2% 0,82 
Số cầu nối trung 
bình(cầu nối) 
3,21±0,72 3,19±0,74 0,49 
Đặc điểm về hiệu quả bảo vệ cơ tim 
Bảng 2: Tỉ lệ sử dụng thuốc vận mạch, thuốc tăng co 
bóp cơ tim trong mổ: 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 280
Tỉ lệ (%) 
thuốc 
Nhóm 
propofol 
Nhóm 
sevoflurane 
P 
Dãn mạch 56,7% 20,6% 0,003 
Tăng co bóp 
cơ tim 
70,6% 46,7% 0,05 
Bảng 3: Tỉ lệ sử dụng thuốc vận mạch, thuốc tăng co 
bóp cơ tim sau mổ: 
Tỉ lệ (%) 
thuốc 
Nhóm propofol Nhóm 
sevoflurane 
P 
Co mạch 31% 20% 0,05 
Dãn mạch 48,3% 14,3% 0,02 
Biểu đồ 1: Tỉ lệ bệnh nhân bị sốc điện sau khi tháo 
kẹp ĐMC ở 2 nhóm 
Biểu đồ 2: Sự thay đổi men tim TnI ở 2 nhóm Biểu đồ 3: Sự thay đổi men tim CK-MB ở 2 nhóm 
Đặc điểm về kết quả phẫu thuật ngắn hạn 
Bảng 4: So sánh các đặc điểm sau mổ của 2 nhóm: 
Đặc điểm Nhóm 
propofol 
Nhóm 
sevoflurane 
p 
Thời gian rút 
NKQ(giờ) 
11(2-120) 10 (7-360) 0,6 
Thời gian nằm 
HS (giờ) 
24 (24-384) 24 (24-360) 0,75 
Thời gian nằm 
viện (ngày) 
16,83± 3,1 (4-
90) 
15,64±1,6 (6-50) 0,46 
Bảng 5: Các biến chứng và tỉ lệ tử vong giữa 2 
nhóm: 
Đặc điểm Nhóm 
propofol 
Nhóm 
sevoflurane 
p 
Viêm phổi 6 (20%) 3 (8,8%) 0,109 
Suy thận 2 (6,7%) 3 (8,8%) 0,3 
Nhiễm khuẩn 
huyết 
3 (10%) 1 (2,9%) 0,2 
NMCT sau 
mổ 
3 (10%) 0 (0%) 0,06 
Tử vong 2 (6,7%) 0 (0%) 0,129 
BÀN LUẬN 
Hiệu quả bảo vệ cơ tim của sevoflurane 
Như đã phân tích ở phần kết quả nghiên 
cứu, hiệu quả BVCT được tìm thấy qua sự thay 
đổi của men tim, tỉ lệ sử dụng thuốc vận mạch, 
thuốc TCBCT cũng như tình trạng sốc điện sau 
khi tháo kẹp động mạch chủ. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, troponin I được định lượng ngay 
sau khi khởi mê và sau tháo kẹp động mạch chủ 
60 phút, ở hai thời điểm này trong cùng một 
nhóm, lượng men tim khác biệt đáng kể nhưng 
sự chênh lệch giữa hai nhóm thì không có ý 
nghĩa thống kê (p=0,57). Theo các tác giả trên thế 
giới, sự khác biệt nhau về phương pháp sử dụng 
sevoflurane trong lúc mổ sẽ đưa đến sự khác 
biệt về phóng thích men tim (bảng 6), còn với tác 
giả Nguyễn Thị Quý(14) trong một nghiên cứu 
trên các BN PTBCĐMV tại Viện Tim, sự gia tăng 
của men tim còn phụ thuộc vào thời gian kẹp 
ĐMC, chất lượng tái tưới máu của các cầu nối 
mạch vành sau phẫu thuật và các dung dịch liệt 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Ngoại Khoa 281
tim được sử dụng trong quá trình THNCT. 
Tương tự với nghiên cứu của chúng tôi, Serge K. 
Nkodo và cs(13) ghi nhận troponin I phóng thích 
ở thời điểm G0 của nhóm isoflurane là 4,6±4,0 
ng/ml so với nhóm propofol là 5,2±6,0 ng/ml 
(p=0,38). Sự khác biệt này và ngay cả những thời 
điểm sau đó cũng không có ý nghĩa thống kê, 
nhưng Giovanni Landoni và cs(9) nghiên cứu 
trên 1922 BN, Elena Bignami và cs(6) trong 
nghiên cứu trên 64 trung tâm tim mạch ở Ý, Eun 
Jung Cho và cs(11) đều đi đến kết luận rằng với 
sevoflurane, các BN PTBCĐMV giảm rõ rệt nhu 
cầu sử dụng thuốc TCBCT và vận mạch trong 
và sau mổ, và đồng thời nó cải thiện tỉ lệ NMCT 
chu phẫu, tử suất, giảm chi phí điều trị thông 
qua giảm ngày nằm hồi sức và thời gian nằm 
viện. 
Bảng 6: Sự thay đổi của men tim qua các nghiên cứu trên thế giới: 
Tác giả 
Loại thuốc mê và liều 
lượng 
Phương pháp sử 
dụng 
Cỡ mẫu Nhóm chứng Kết quả men tim 
Julier 
2003 (10) 
sevoflurane 
 2 MAC 
10 phút trước khi kẹp 
ĐMC 
72 Propofol 
TIVA 
TnI, CK-MB: không khác 
biệt 
Nader 
2004 
(12)
sevoflurane 
2% 
Trong thời gian kẹp 
ĐMC 
21 Propofol 
TIVA 
TnI G6:giảm 
CK-MB:không khác biệt 
DeHert 2004 
(4)
 sevoflurane 
0,5-2% 
Sau THNCT 
200 Propofol 
TIVA 
TnI: 
không khác biệt 
DeHert 2004 (5) sevoflurane 
0,5-2% 
Suốt cuộc mổ 320 Propofol 
TIVA 
TnI: giảm 
Landoni 2007 
(8)
 sevoflurane 
0,5-2% 
Suốt cuộc mổ 60 Propofol 
TIVA 
TnI: 
không khác biệt 
Nghiên cứu chúng 
tôi 
sevoflurane 
0,5-2% 
Suốt cuộc mổ 64 Propofol 
TCI 
TnI: 
không khác biệt 
Ngoài ra, trong nghiên cứu của chúng tôi, 
sự khác biệt rõ rệt về tỉ lệ sử dụng thuốc 
TCBCT giữa hai nhóm trong và sau mổ cũng 
cho thấy nhóm sevoflurane có kết quả bảo vệ 
cơ tim tốt hơn, giảm được hiện tượng choáng 
váng cơ tim sau mổ sớm hơn so với nhóm 
propofol một cách có ý nghĩa thống kê, điều 
này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác 
(16,4,8). Tại phòng hồi sức, huyết động bệnh 
nhân ổn định, kháng lực mạch máu hệ thống 
luôn ở trong mức giới hạn bình thường với 
lượng thuốc vận mạch được sử dụng ít hơn 
điều này chứng tỏ sevoflurane ít gây ảnh 
hưởng đến kháng lực mạch máu hệ thống hơn 
là propofol, kết quả này phù hợp với kết luận 
của De Hert và cs(4) về tỉ lệ thuốc vận mạch 
được sử dụng trên các BN gây mê với 
propofol luôn cao hơn các thuốc khác để duy 
trì ổn định huyết động. 
Khi tháo kẹp động mạch chủ, tỉ lệ rung thất 
cần phải sốc điện cao hơn có ý nghĩa ở nhóm 
propofol cho dù không có sự khác biệt có y 
nghĩa về thời gian kẹp ĐMC, thời gian THNCT, 
và mức độ hạ thân nhiệt trong quá trình THNCT 
giữa 2 nhóm nghiên cứu. Điều này chứng tỏ sự 
hồi phục cơ tim sau thời gian thiếu máu trên 
nhóm sevoflurane nhanh hơn so với nhóm 
propofol, đây cũng là một dấu hiệu tích cực về 
mặt BVCT của nhóm sevoflurane. 
Đánh giá kết quả phẫu thuật tim ngắn hạn 
trong vòng 30 ngày sau mổ của nhóm 
sevoflurane 
Theo kết quả nghiên cứu, không có sự khác 
biệt giữa hai nhóm về thời gian rút NKQ, thời 
gian nằm HS và thời gian nằm viện. De Hert và 
cs(3) nghiên cứu trên 320 bệnh nhân sử dụng 
sevoflurane trong suốt cuộc mổ cho thấy có 
giảm thời gian nằm hồi sức và thời gian nằm 
viện so với nhóm chỉ sử dụng sevoflurane trước 
hoặc sau THNCT mà thôi. Fabio Guarracino và 
cs(7) cũng cho thấy giảm thời gian nằm viện đối 
với nhóm sử dụng sevoflurane, trong khi đó B. 
Bein và cs(1) không tìm thấy sự khác biệt rõ rệt 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 1 * 2012
Chuyên Đề Ngoại Khoa 282
giữa hai nhóm về thời gian rút NKQ, thời gian 
nằm hồi sức cũng như thời gian nằm viện. 
NMCT sau mổ là biến chứng quan trọng 
nhất mà hầu hết các nhà nghiên cứu đều quan 
tâm theo dõi. Việc chẩn đoán NMCT cấp sau 
PTBCĐMV còn nhiều khó khăn vì quá trình 
thiếu máu cơ tim trong khi kẹp động mạch chủ 
đã làm gia tăng các chất đánh dấu tổn thương cơ 
tim. Theo Giovanni Landoni(9), tỉ lệ NMCT sau 
mổ ở nhóm sevoflurane là 2,4% so với nhóm 
propofol là 5,1%. Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ 
lệ NMCT sau mổ ở nhóm sevoflurane là 0% so 
với 10% ở nhóm propofol (p=0,06) nhưng do cỡ 
mẫu còn hạn chế nên chúng tôi chưa thể kết 
luận có hay không mối liên quan giữa 
sevoflurane với biến chứng NMCT ở những 
ngày đầu hậu phẫu. 
Tử vong trong nghiên cứu của Carl-
Jakobsen(2) là 2,84% ở nhóm sevoflurane so với 
3,3% ở nhóm propofol (p=0,18). Tỉ lệ này chỉ có 
2,2% trong nghiên cứu đa trung tâm của Elena 
Bignami (p=0,022) (6) và 0,4% trong nghiên cứu 
của Giovanni Landoni(8). Đặc biệt, các tác giả 
đều cho thấy thời gian sử dụng thuốc mê thể khí 
càng dài thì tỉ lệ tử vong càng thấp. Các nghiên 
cứu trên đây đều ghi nhận có rất nhiều các yếu 
tố nguy cơ trước, trong và sau phẫu thuật có 
liên quan đến tỉ lệ tử vong sớm và NMCT hậu 
phẫu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ nghiên cứu 
của mình, chúng tôi chỉ theo dõi và mô tả các 
yếu tố thường xuất hiện trong dân số bệnh 
mạch vành tại Viện Tim Tp Hồ Chí Minh trong 
một thời gian ngắn hạn, thiết nghĩ vẫn còn 
nhiều yếu tố nguy cơ khác mà chúng tôi chưa 
phân tích được hết qua nghiên cứu này. 
KẾT LUẬN 
Sevoflurane là thuốc mê có hiệu quả bảo 
vệ cơ tim, làm giảm đáng kể tỉ lệ sử dụng 
thuốc tăng co bóp cơ tim, thuốc vận mạch, 
đồng thời giữ ổn định huyết động, cải thiện 
chức năng co bóp cơ tim nhanh hơn sau mổ. 
Tuy nhiên, lượng men tim phóng thích không 
giảm so với nhóm propofol và kết quả phẫu 
thuật ngắn hạn trong vòng 30 ngày sau mổ, 
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
giữa hai nhóm bệnh nhân nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bein B, Renner J, Caliebe D, Hanss R, et al (2008). « The effects of 
interupted or continous administration of sevoflurane on 
preconditioning before cardio-pulmonary bypass in coronary 
artery surgery: comparison with continous propofol ». 
Anaesthesia, 63, 1046-1055. 
2. Carl- Johan J, Henrik B, et al (2007). “ The influence of propofol 
versus sevoflurane anesthesia on outcome in 10,535 cardiac 
surgical procedure”. Journal of cardiothoracic and vascular 
anesthesia, 21, (No 5), 664-671. 
3. De Hert SG, Cromheecke S, et al (2003). “ Effects of propofol, 
desflurane, and sevoflurane on recovery of myocardial function 
after coronary surgery in elderly high-risk patients”. 
Anesthesiology, 99, 314-23. 
4. De Hert SG, Van Der Linden PJ, Cromheecke S, et al (2004). “ 
Cardioprotective property of sevoflurane in patients undergoing 
coronary surgery with cardiopulmonary bypass are related to 
the modalities of its administration.” Anesthesiology, 97, 42-49. 
5. De Hert SG, Van Der Linden PJ, Cromheecke S, et al (2004). “ 
Choice of primary anesthetic regimen can influence intensive 
care unit length of stay after coronary surgery with 
cardiopulmonary bypass.” Anesthesiology, 101, 9-20. 
6. Elena B, et al (2009), “Volatile anesthetics reduce mortality in 
cardiac surgery”. Journal of cardiothoracic and vascular anesthesia, 
23, (No 5), 594-599. 
7. Fabio G, et al (2006). “ Myocardial damage prevented by volatile 
anesthetics: a multicenter randomized controlled study”. Journal 
of cardiothoracic and vascular anesthesia, 20, (No 4), 477-483. 
8. Giovanni L, Elena B, et al (2009). « Halogenated anaesthetics and 
cardiac protection in cardiac and non-cardiac anaesthesia ». 
Annals of cardiac anaesthesia, 12,(No 1), 4-9. 
9. Giovanni L, et al (2007). “ Desflurane and sevoflurane in cardiac 
surgery: a meta-analysis of randomized clinical trials”. Journal of 
cardiothoracic and vascular anesthesia, 21, (No 4), 502-511. 
10. Julier K, Da Silva R, Garcia C, et al (2003). “ Preconditioning by 
sevoflurane decreases biochemical markers for myocardial and 
renal dysfunction in coronary artery bypass graft sugery: a 
double-blinded, placebo-controlled, multicenter study.” 
Anesthesiology, 98, 1315-1327. 
11. Jung CE, et al (2009). « The effects of sevoflurane on systemic 
and pulmonary inflammatory responses after cardiopulmona